Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BHXH ĐỐI VỚI CÁC HTX CNTTCN Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.98 KB, 16 trang )

Thực trạng về hoạt động bhxh đối với các hTX
cnttcn ở việt nam trong những năm qua.
I. thực trạng về hoạt động bhxh đối với
các HTX cnttcn trong thời gian qua.
1. Vài nét về quá trình đổi mới tổ chức, quản lý trong các HTX
CNTTCN:
Căn cứ vào sự ra đời các chủ trơng, chính sách kinh tế quan trọng của Đảng
và Nhà nớc ta đối với sự phát triển của các HTX, có thể phân chia quá trình phát
triển của các HTX thành các thời kỳ chính nh sau:
1.1. Thời kỳ khôi phục kinh tế (1955 - 1960):
Sau khi hoà bình đợc lập lại ở miền Bắc (năm 1954) ngành công nghiệp
quốc doanh còn rất nhỏ bé, nên để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, mở rộng
thị trờng và cải thiện đời sống nhân dân, Đảng ta đã chú ý phát triển các ngành
nghề CNTTCN vốn đã có truyền thống lâu đời ở Việt nam. Nghị quyết Bộ Chính
trị (9/1954) đã ghi rõ : Đối với CNTTCN phải khôi phục và phát triển những
ngành sản xuất hàng hóa cần thiết cho việc ăn, ở, mặc , đi lại và sản xuất của nhân
dân [15, số 220, 9/1996, trang 56]. Nhờ đó, năm 1955, ngành sản xuất CNTTCN
ngoài quốc doanh ở miền Bắc đã có 51.688 cơ sở, sử dụng 128.622 công nhân. Từ
đó đến 1956 Nhà nớc đã sắp xếp lại các cơ sở trên thành 18 ngành nghề chính và
tạo điều kiện giúp đỡ, nên số cơ sở sản xuất đã tăng lên đến 54.985, với 161.241
công nhân (bao gồm 20.736 công nhân làm thuê và 140.505 công nhân gia đình
không phải thuê mớn [15, số 220, 9/1996, trang 56]. Đối với khu vực phi nông
nghiệp, cuối năm 1958, cả Miền Bắc có khoảng 23 vạn ngời làm nghề thủ công cá
thể.
Từ năm 1958 - 1960 , chúng ta thực hiện công cuộc cải tạo XHCN đối với
các thành phần kinh tế t nhân, kinh tế cá thể, đa họ vào làm ăn tập thể trong các
HTX. Ngành CNTTCN cũng tiến hành công cuộc cải tạo công thơng nghiệp t bản
t doanh một cách triệt để và rộng rãi, đến cuối năm 1960 đã đa khoảng 20 vạn lao
động thủ công cá thể vào làm ăn trong 2.760 HTX tiểu, thủ công nghiệp, chiếm
88 % tổng số lao động của ngành TTCN, [ 7, trang 18]
1.2. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung (1961-1985):


Sau cải tạo công thơng nghiệp t bản t doanh, các HTX CNTTCN đã ra đời
và phát triển nhanh chóng. Nhờ vậy, khu vực TTCN đã góp phần cùng với các xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh (khoảng 1.010 xí nghiệp) tạo ra sự tăng trởng về
giá trị sản lợng công nghiệp là 36 % ở thời kỳ này.Với đà thắng lợi đó, toàn Đảng,
toàn dân ta đã hăng hái bớc vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-
1965).
Măc dù đã đạt đợc những thành tựu trên, nhng do chủ quan duy ý trí nên
việc hợp tác hoá đã phát triển quá nhanh, tạo thành một phong trào lớn để lấy
thành tích mà bỏ qua nguyên tắc tự nguyện và không xuất phát từ các yêu cầu
khách quan của sự hợp tác nên hầu hết các HTX chỉ hoạt động tốt đợc thời gian
đầu. Sau đó, đã bộc lộ những mặt khiếm khuyết phổ biến: Sản xuất chậm phát
triển, chủ yếu do kỹ thuật còn lạc hậu, công cụ thô sơ, công nghệ vẫn lạc hậu,
thiết bị cũ nát, cơ sở sản xuất bị phân tán, quản lý HTX có nhiều thiếu sót, cán bộ
năng lực và trình độ kém, không biết điều hành, nên năng suất rất thấp, chất lợng
hàng hóa kém.
Để khắc phục tình trạng này, tháng 2/1961 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết
13 (khoá III) bàn về phơng hớng củng cố HTX. Sau đó đã tiến hành hai cuộc vận
động lớn trong các HTX: Một là: Xây dựng HTX theo tiêu chuẩn 4 tốt: Đoàn kết
tốt; sản xuất tốt; tăng thu nhập xã viên, tích luỹ xây dựng HTX tốt; làm tốt nghĩa
vụ với Nhà nớc tốt. Hai là: Cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong các HTX.
Nhờ vậy, phong trào HTX CNTTCN tiếp tục đợc củng cố và phát triển cả về
mặt số lợng lẫn quy mô sản xuất.
Trong những năm từ 1966 - 1976 quy mô chiến tranh, mức độ ác liệt ngày
càng tăng, thì quy mô HTX cũng ngày càng lớn, quan hệ sở hữu ngày càng triệt
để (tuyệt đại bộ phận t liệu sản xuất thuộc sở hữu tập thể), ngời xã viên thực sự đ-
ợc công nhân hoá - làm công ăn lơng, giống nh công nhân trong các xí nghiệp,
phân phối bình quân, với cơ chế điều hành theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp
đã bộc lộ nhiều tiêu cực. Cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật tuy có
đem lại một số tiến bộ, nhng tình trạng mất dân chủ, vi phạm các nguyên tắc quản
lý trong các HTX vẫn ngày càng nhiều hơn và phức tạp, nghiêm trọng hơn.

Trớc tình hình đó, ngày 9/8/1972 Ban Liên hiệp HTX CNTTCN Trung ơng
đã phải ra chỉ thị số 180/BCN-CT, nhằm tăng cờng quản lý, giữ vững và củng cố
quan hệ sản xuất tập thể đối với các HTX CNTTCN trong thời chiến. Nghị quyết
22 của Trung ơng Đảng khóa III, đã chỉ rõ HTX tiểu, thủ công nghiệp có sự quản
lý đúng đắn của Nhà nớc, là một thành phần kinh tế XHCN, có vai trò tích cực
trong nền kinh tế quốc dân. Cần tăng cờng lãnh đạo HTX tiểu công nghiệp, thủ
công nghiệp khắc phục những hiện tợng tiêu cực trong sản xuất và kinh doanh, h-
ớng dẫn, giúp đỡ, củng cố tổ chức, phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề. Nhà
nớc tích cực giúp đỡ HTX tăng cờng và cải tiến trang bị, tổ chức tốt việc cung ứng
vật t và tiêu thụ sản phẩm, [19, Số 30 tháng 1/1974]. Nhờ vậy, trang thiết bị trong
ngành CNTTCN có khá hơn. Tính đến 1974, có khoảng 40% HTX đợc trang bị
một vài khâu trong dây chuyền sản xuất, nhất là những cơ sở kim khí rồi đến chế
biến gỗ, dệt, sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ, hóa chất và tập trung ở
những thành phố, thị xã lớn. Có nơi đã có hàng chục máy tiện, máy khoan, máy
mài, máy ca, máy chẻ nan, máy cắt tre, máy khuấy sơn mài v.v.
Tuy nhiên, nhìn chung, công cụ sản xuất trang bị cho các HTX CNTTCN
hầu hết vẫn chủ yếu chỉ là công cụ cầm tay, thô sơ. Máy công cụ đã ít, lại kém
chính xác, cũ kỹ, lạc hậu. Có những tỉnh cứ 5 HTX cơ, kim khí mới có 1 máy tiện,
6 HTX mới có 1 máy khoan, 9 HTX mới có 1 máy đột dập. Hàng trăm HTX chế
biến gỗ mà chỉ có 10 máy xẻ gỗ. Còn trong ngành sản xuất thủy tinh, thì chủ yếu
thổi bằng mồm... Do đó, năng suất lao động rất thấp, chất lợng sản phẩm không
đồng đều và không ổn định [19, số 32, tháng 2/1974].
Mặt khác, vốn đầu t có hạn, quy mô sản xuất nhỏ, chuyên môn hóa sản
xuất thấp, có nhiều ngành nghề khác nhau, mặt hàng sản xuất phức tạp, đa dạng
và không ổn định, số lợng lại nhỏ nên gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh.
Tính đến năm 1975, toàn miền Bắc chỉ có khoảng 2500 HTX sản xuất
CNTTCN và non 2000 tổ sản xuất. Các HTX này làm hầu hết các ngành nghề mà
Nhà nớc có gia công đặt hàng [19, số 51, ra ngày 8/2/1975].
- Về t liệu sản xuất, theo thống kê cha đầy đủ thì toàn ngành có trên 7 vạn
chiếc máy, trong đó có khoảng 8500 cái thực sự gọi là máy. Còn lại hầu hết là

chắp vá, máy cũ cải tạo, hoặc lắp ghép nhặt nhạnh từ các bộ phận máy cũ, máy
của nhà máy công cụ số 1 Hà nội rất ít; hầu hết không có bể mạ, không có hệ
thống nhuộm, đánh bóng và sơn kỹ thuật để trang trí sản phẩm.
- Về tài sản cố định, tuy chiếm 60% số vốn sản xuất nhng đại bộ phận là
nhà xởng và kho tàng (chiếm 45%), còn trang thiết bị, công cụ sản xuất chỉ chiếm
có 39,7%. Nếu tính cả quỹ không chia trong HTX (phần tích luỹ XHCN) thì số
vốn đầu t vào tài sản cố định tính bình quân cho một xã viên chỉ đợc trên dới 400
đồng/ ngời (tiền năm 1975).
- Về quy mô sản xuất : Tính đến năm 1975, toàn ngành CNTTCN Miền Bắc
có khoảng 500 HTX lớn, có tính chất xí nghiệp công nghiệp, tơng tự với các xí
nghiệp quốc doanh - còn phần lớn các HTX tuy có nhiều xã viên nhng vẫn mang
tính chất công trờng thủ công. Do đó, tuy có sự hiệp tác nhng về quy mô và kỹ
thuật, công nghệ sản xuất chính vẫn cha có gì thay đổi lớn. Năng suất lao động
vẫn rất thấp, phần giá trị mới cha tạo ra thêm đợc bao nhiêu, thậm chí còn cha bù
đắp nổi chi phí về quản lý và chi phối cho các chế độ lao động trong HTX. Nhiều
HTX còn kém so với các tổ hợp tác hoặc cá thể. Do đó, tình trạng nợ sản phẩm
giao nộp cho Nhà nớc, nợ Ngân hàng ... khá phổ biến.
- Về tổ chức quản lý sản xuất : Về cơ bản, các HTX đợc tổ chức theo
ngành nghề là chủ yếu. Thông thờng các HTX CNTTCN gồm 2 mô hình quản lý
sau :
+ Theo mô hình 1 xí nghiệp công nghiệp : Với bộ máy gồm chủ nhiệm và
các bộ phận nghiệp vụ: Kế hoạch, kỹ thuật, tài vụ, kế toán - thống kê, lao động -
tiền lơng, văn phòng ...
+ Công trờng nhận khoán: Chủ nhiệm nhận khoán và giao khoán việc cho
các xã viên thực hiện tại nhà hoặc tại cơ sở sản xuất của HTX. Cách này, bộ máy
gọn nhẹ hơn.
Hệ thống quản lý HTX nói chung và HTX CNTTCN nói riêng đều tổ chức
thành hệ thống dọc từ Trung ơng xuống cơ sở. ở cơ sở gọi là HTX, từ cấp xã trở
lên gọi là Liên hiệp HTX toàn xã, huyện, tỉnh và Trung ơng.
Nhờ vậy mà việc quản lý chỉ đạo sản xuất trong toàn ngành đã chặt chẽ hơn

và ngành đã có những bớc tiến triển lớn.
Tốc độ phát triển về giá trị tổng sản lợng CNTTCN qua các năm
Năm 1964 1969 1971 1974 1975
Sản lợng 100% 95,8% 112,9% 135,9% 163% (KH)
(Nguồn: [19, số 56, ngày 23/4/1975]).
Tốc độ phát triển GT TSL hàng thủ công xuất khẩu qua các năm
Năm 1970 1972 1973 1974 1975 (KH)
Sản lợng 100% 141,8% 148,8% 193,2% 298,9%
(Nguồn: [19, số 56, ngày 23/4/1975]).
Từ khi đất nớc đợc thống nhất (1976), ngành CNTTCN đã phát triển mạnh
mẽ trên phạm vi cả nớc, và có nhiều khởi sắc mới.
Sau cải tạo công thơng nghiệp t bản t doanh ở miền nam, các HTX
CNTTCN đợc phát triển rộng rãi trên hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn và
trong các làng nghề truyền thống ở cả hai miền Nam - Bắc. Nhng, cũng do nóng
vội, chủ quan, duy ý trí nên các HTX, các tổ hợp tác đã phát triển ồ ạt, trên cơ
sở áp đặt, cỡng bức, muốn đa ngay những ngời thợ thủ công vào con đờng làm ăn
tập thể để tiến lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua các nguyên tắc cơ bản, vốn có của
việc hợp tác hoá là tự nguyện, cùng có lợi. Nên chỉ tồn tại đợc thời gian đầu, sau
đó các HTX, các tổ hợp tác dần dần hoạt động kém hiệu quả. Đặc biệt là những
năm nửa cuối thập kỷ 80, nền kinh tế nớc ta gặp nhiều khó khăn, nạn lạm phát cao
(3 con số). Tình trạng nguyên nhiên vật liệu thiếu thốn, hàng hoá sản xuất ra
không bán đợc, dẫn đến sản xuất ngừng trệ, đời sống xã viên gặp nhiều gây cấn.
Nhiều HTX và tổ hợp tác có nguy cơ tán rã, phá sản. Phong trào hợp tác hoá nói
chung và trong ngành CNTTCN nói riêng bị phân hoá:
- Một số HTX và tổ hợp tác vẫn tồn tại nhng hoạt động cầm chừng;
- Một số còn tồn tại nhng không hoạt động;
- Một số HTX trở thành bình phong cho t nhân núp bóng;
- Một số thì đã giải thể;
- Một số hoạt động tốt làm ăn có hiệu quả và có triển vọng sáng sủa, đó là
các HTX đợc thành lập trên cơ sở nhu cầu khách quan và đảm bảo nguyên tắc tự

nguyện, quản lý dân chủ.
1.3.Thời kỳ sau đổi mới (từ 1986 đến nay)
Theo Báo cáo của Ban chỉ đạo xây dựng Luật HTX ngày 21/6/1995 của
UBKH Nhà nớc thì năm 1993 chỉ còn 4.000 HTX (bằng 12,4 % so với năm 1988),
số lao động chỉ còn gần 20 vạn (so với 1,2 triệu năm 1988). Sự giảm sút này diễn
ra trong tất cả các ngành: Công nghiệp nặng giảm 82,6% về số HTX (năm 1993
so với năm 1985) và 68,8 % về số lao động và 73,2 % về giá trị tổng sản l-
ợng( tính theo giá cố định năm 1989); công nghiệp nhẹ giảm số lợng HTX từ
14.964 HTX (1985) xuống còn 1.620 HTX (1993) Tính đến năm 1994 cả nớc chỉ
còn 1648 HTX CNTTCN và tổ hợp, [14, số 2 (25), trang 10].
Sau 15 năm đổi mới và nhất là 5 năm sau Đại hội lần thứ nhất Liên minh
HTX Việt Nam, toàn quốc đã có 1438 HTX CNTTCN tồn tại và đang có xu hớng
phát triển tốt. Tên tuổi các HTX CNTTCN nh Đoàn Kết (Thái Bình), Cơ khí 2/9
(Bắc Giang), Dệt - may Duy Trinh (Quảng Nam), Gốm sứ Thái Dơng (Đồng Nai),
Mây - tre - lá Ba Nhất (TP Hồ Chí Minh), Thống Nhất (Tiền Giang) ngày càng đ-
ợc biết đến nhiều hơn ở trong nớc, thậm chí còn n cả trên thị trờng quốc tế (Ba
Nhất, Thái Dơng).

×