Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ và công tác khai thác bảo hiểm nhân thọ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.94 KB, 33 trang )

Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ và công tác
khai thác bảo hiểm nhân thọ.
I. Khái quát về BHNT.
1. Sự ra đời và phát triển của Bảo Hiểm nhân thọ và công tác khai thác bảo
hiểm nhân thọ.
Giống nh các loại hình bảo hiểm khác, Bảo hiểm nhân thọ cũng xuất phát từ
những nhu cầu của cuộc sống. Những nhu cầu hàng ngày bức xúc nhất của con
ngời là những nhu cầu về ăn, mặc ở. khi những nhu cầu này đợc giải toả thì những
nhu cầu khác cao hơn, xa hơn, trong đó có nhu cầu chăm lo cho tơng lai cũng đòi
hỏi phải đợc đáp ứng. BHNT ra đời là để đáp ứng những nhu cầu ấy.
Để đi tới hoàn thiện và phát triển nh ngày nay, BHNT đã trải qua một lịch sử
lâu dài và phức tạp.
Nớc Anh đợc xem là cái nôi của ngành BHNT. Năm 1583 hợp đồng BHNT
đầu tiên trên thế giới ra đời, do công nhân Luân Đôn là ông William Gybbon (một
thuyền trởng) đã nảy ra ý kiến yêu cầu công ty bảo hiểm phi nhân thọ đang bảo
hiểm con tàu và hàng hoá của ông hãy bán bảo hiểm sinh mạng cho mình. Lúc
bấy giờ loại hình bảo hiểm này còn xa lạ và cha một ai biết đến, công ty bảo hiểm
cũng rất ngạc nhiên về lời đề nghị này, song để làm hài lòng khách hàng họ đã
đồng ý, phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong
năm đó, ngời thừa kế của ông đợc hởng 400 bảng Anh.
Năm 1669, Công ty bảo hiểm tơng hỗ đầu tiên là Hội BHNT và hu trí, hội này
do các nhà buôn bán vải thành lập. Nhng chỉ ít năm sau đó đã bị thất bại, chìm
đắm trong nợ nần.
Sản phẩm BHNT trong giai đoạn mới thành lập đợc bán một cách rộng rãi và
không tính toán. Ngời mua bảo hiểm cho nhau và tìm cách hại nhau để kiếm tiến
bồi thờng. Vì lý do đó, năm 1740, Chính phủ Anh đã tập hợp các Công ty bảo
hiểm trên toàn quốc, ra chỉ thị bán bảo hiểm nhất thiết phải căn cứ vào " quyền lợi
bảo hiểm", tức là ngời chủ hợp đồng và ngời đợc bảo hiểm phải có mối quan hệ
ruột thịt, hôn nhân hay bảo hộ hợp pháp.
Trong số các công ty bảo hiểm Anh thời đó, có một công ty tên là Công ty
BHNT Luân Đôn. Với cách kinh doanh cẩn trọng hơn, công ty đã hạn chế đợc số


khách hàng và số tiền mua bảo hiểm. Năm 1725 họ biết hớng dẫn đại lý của họ
tiếp xúc trực tiếp với ngời đợc bảo hiểm, nhận dạng khách hàng và hỏi một câu
hỏi duy nhất về tình trạng sức khoẻ là: " Ông bà có bị bệnh đậu mùa lần nào ch-
a?". Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì đó là thời kỳ xuất hiện một
trận dịch đậu mùa làm cho cả trăm ngàn ngời ở Châu Âu thiệt mạng, còn các công
ty bảo hiểm thì sạt nghiệp vì chi trả.
Tại Mỹ, năm 1759 Hội BHNT tơng hỗ do hội nghị tôn giáo của các nhà thờ
đề nghị đợc thành lập, tuy nhiên họ chỉ hạn chế bán các hợp đồng BHNT cho các
con chiên trong nhà thờ của tín đồ Presbyterian nên không đáp ứng đợc nhu cầu
tham gia của toàn xã hội.
Phải đến khi các Công ty bảo hiểm tơng hỗ của Anh nghiên cứu đợc tỷ lệ
chết thực tế cho từng lứa tuổi khác nhau để biết rủi ro thực tế của từng độ tuổi và
khoa học thẩm định, khoa học tính phí ra đời thì bảo hiểm nhân thọ mới thực sự
hoạt động trên nguyên tắc khoa học và phát triển rộng rãi.
Năm 1774, Vua Anh là Georges III đã chính thức cho phép hoạt động
BHNT. Đến năm 1782, ở Anh đã có 3000 bản hợp đồng BHNT chính thức đợc
phát hành.
Tại Pháp, Công ty BHNT Hoàng gia đợc thành lập năm 1787.
Đầu thế kỷ 19, vào khoảng năm 1809 tại Bắc Mỹ, Công ty BHNT
Pennsylvania thuộc tiểu bang Philadelphia, bắt đầu dùng hồ sơ yêu cầu BHNT cho
khách hàng điền khi muốn mua BHNT, thay vì dùng sổ cái để theo dõi khách
hàng nh thủa ban đầu. Ngoài ra, công ty này yêu cầu khám sức khoẻ khi muốn
mua bảo hiểm. Đây là chuyển biến lớn trong BHNT nói chung.
Năm 1823, Công ty BHNT bệnh viện Massachusettes tại Boston, tiểu
bang Massachusettes đã thiết kế ra quyển sổ tay tính phí. Nhờ quyển sổ tay con
con này mà các Đại lý thời đó có thể đi khắp nơi xa xôi hẻo lánh để bán BHNT.
Quyển sổ tay vẫn còn đợc xem là " bửu bối" của các đại lý ngày nay.
Năm 1844 đánh dấu một bớc quan trọng trong ngành BHNT, khi
chứng kiến việc khách hàng mua bảo hiểm nhân thọ muốn ngng hợp đồng giữa
chừng những không đợc công ty bảo hiểm nào trả tiền cho họ, ông Elizur Wright,

nhà tính phí ngời Mỹ đã cho răng điều này không công bằng. Từ đó ông nghĩ ra
một công thức toán học tính phí giá trị giải ớc để hoàn lại phí cho khách hàng một
cách hợp lý.
Đối với nhà nớc Mỹ, nền kinh tế chỉ có thể phát triển khi các công ty
bảo hiểm tồn tại. Họ chủ trơng rằng mua BHNT phải là một sự mua bán lâu dài,
năm, mời, mời lăm, hai mơi năm, hay suốt cuộc đời của ngời khách hàng. Nếu
mọi khách hàng đều muốn rút tiền về sớm thì công ty bảo hiểm không thể hoạt
động và tồn tại lâu năm, và tình hình kinh tế nớc Mỹ cũng không thể phát triển đ-
ợc. Do đó, họ chấp nhận khái niệm " giá trị giải ớc" của ông Wright và cho áp
dụng cách tính này. Theo đó, nếu khách hàng ngng hợp đồng càng sớm thì số tiền
nhận lại càng ít.
Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential của Anh đợc thành lập năm
1853 và là công ty đi đầu trong công nghiệp bảo hiểm. Và thực tế cho đến nay
công ty này vẫn đang phát triển lớn mạnh trên rất nhiều nớc trên thế giới.
Ngành BHNT thực sự trở thành một nhu cầu lớn tại các nớc đã và
đang phát triển. ở châu á, Nhật Bản là nớc có công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên
hoạt động dới hình thức kinh doanh là Công ty Meji. Sau 7 năm độc quyền ở Nhật
Bản, đến năm 1889, hai Công ty bảo hiểm lớn ra đời là Công ty BHNT Teikoku và
Nippon.
Các Công ty BHNT của Anh và Nhật đóng vai trò quan trọng trong việc
phát triển BHNT ở các nớc Châu á khác. Ví dụ ở Triều Tiên, các Công ty BHNT
của Anh hoạt động ỏ hầu hết trên khắp đất nớc, cho đến năm 1905 thì Nhật Bàn
giành lại hoàn toàn quyền quản lý BHNT trên đất nớc Triều Tiên. Công ty BHNT
SIM đợc thành lập năm 1929, là Công ty duy nhất do ngời Triều Tiên quản lý.
Đến những năm 60, nền công nghiệp BHNT hiện đại của Triều Tiên thực sự bắt
đầu phát triển.
Tại Singapore, các Công ty BHNT của Anh đóng vai trò chính trong việc
phát triển kinh doanh BHNT, Công ty BHNT trong nớc của Singapore ra đời năm
1908, công nghiệp BHNT của Singapore thực sự phát triển vào năm 1965.
Nh vậy, BHNT ở trên thế giới ra đời từ rất lâu và nó trở thành một ngành

dịch vụ không thể thiếu đợc trong cuộc sống của mỗi ngời dân.
Mặc dù BHNT ra đời muộn hơn so với nhiều loại hình bảo hiểm khác nh-
ng nó đã nhanh chóng giữ một vị trí quan trọng trong lĩnh vực bảo hiểm. Thực tế
hoạt động và kết quả triển khai BHNT ở các nớc đã chứng tỏ vị trí quan trọng của
các sản phẩm BHNT trên thị trờng. Hiện nay tham gia BHNT là một nhu cầu tất
yếu của nhân dân các nớc đang phát triển, đặc biết là ở Châu á. Một số nớc có
nền kinh tế phát triển nh Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông... BHNT giữ một vị trí
trọng yếu trong nền kinh tế. Thị phần BHNT trong một số thị trờng tơng đối lớn,
thể hiện ở tỷ lệ doanh thu phí BHNT so với phí thu của toàn ngành bảo hiểm.
Theo thống kê năm 1992 của tạp chí Signa ( Thuỵ Sỹ), doanh thu phí nghiệp vụ
BHNT thế giới là 1466 tỷ USD, trong đó phí BHNT chiếm 52,4%. Tuy nhiên sự
phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu nh ở Châu Mỹ - La Tinh, phí
BHNT rất thấp, chỉ chiếm 21,4%, thì ở Châu Âu đạt tỷ lệ cân đối trong khoảng từ
41,8% - 49%. Tỷ lệ phí BHNT ở Châu Đại Dơng là 52,3% của toàn bộ nghiệp vụ
bảo hiểm.
Tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không ngừng tăng vợt
hơn so với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Tỷ lệ phí BHNT năm 1993 đã lên tới
53% toàn bộ nghiệp vụ. Đến năm 1995 thì tổng số phí BHNT đạt con số kỷ lục là
1236,6 tỷ USD trong tổng số 2143,4 tỷ USD, tơng đơng với 57,7% tổng số phí bảo
hiểm gốc.
Cũng theo thống kê của tạp chí Signa ( Swiss Re) năm 1995. ngời Nhật
Bản chi tiêu nhiều nhất về bảo hiểm : 5008 USD/ ngời, trong đó BHNT chiếm
80,1%, Thuỵ Sỹ theo sau Nhật Bản với 4057 USD/ ngời. Phần lớn các nớc công
nghiệp đạt mức chi bảo hiểm đầu ngời cao, từ 1200- 2400 USD/ ngời. Mức chi
bình quân đầu ngời cho BHNT là hệ quả của sự kết hợp giữa mức sống cao hơn và
tỷ trọng lớn hơn của ngành BHNT trong mối tơng quan với toàn nền kinh tế. Sở dĩ
có đợc kết quả nh vậy là do việc sử dụng rộng rãi BHNT nh là một phơng tiện đầu
t tài chính và dự trữ cá nhân.
Bảng 1: Phí bảo hiểm nhân thọ bình quân đầu ngời ở một số nớc Châu á năm 1995.
Tên nớc Phí bảo

hiểm / ngời
(USD)
Phí BHNT /
ngời (USD)
Phí BHNT/
phí bảo
hiểm (%)
Phí
BHPNH/
ngời (USD)
Phí
BHPNT/
Phí bảo
hiểm (%)
Nhật Bản 5088,3 4075,8 80,1 1012,5 19,9
Hàn Quốc 1337,6 1042,1 77,9 295,5 22,1
Đài Loan 678,5 459,3 67,7 219,2 32,3
Singapore 1190,8 826,1 69,4 364,7 30,6
Hồng Kông 813,8 495,5 60,9 318,3 39,1
Thái Lan 67,6 32,2 47,6 35,4 52,4
( Nguồn: Tạp chí Signa- SwissRe số 268 năm 1995)
Cho đến năm 1998 thì đã có 5 thị trờng BHNT lớn nhất thế giới là Nhật,
Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Theo số liệu thống kê năm 1998 phí BHNT của 5 thị tr-
ờng này đợc thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu phí BHNT của 5 thị trờng lớn nhất thế giới năm 1993.
Tên nớc
Tổng doanh
thu phí bảo
hiểm (USD)
Cơ cấu phí bảo hiểm (%)

Thị phần thế
giới(%)
Nhân thọ Phi nhân thọ
1. Mỹ 522.468 41,44 41,44 42,55
2. Nhật 320.143 73,86 73,86 22,42
3. Đức 107.403 39,38 39,38 6,67
4. Anh 102.360 65,57 65,57 6,62
5. Pháp 84.303 56,55 56,55 4,58
( Nguồn : Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, tháng 8/ 1996)
Kể từ khi ra đời, BHNT phát triển rất nhanh. Theo số liệu thống kê năm
2001, doanh thu phí BHNT đã vợt xa doanh thu phí BHPNT, mức tăng trởng kỷ
lục lại diễn ra ở Châu á và Châu Phi. Cụ thể ta có bảng sau:
Bảng 3: Cơ cấu phí BHNT và BHPNT theo khu vực năm 2001.
STT Khu vực Cơ cấu phí bảo hiểm (%)
BHPNT BHNT
1 Châu á 25 75
2 Bắc Mỹ 57 43
3 Châu Âu 50 50
4 Nam Mỹ 80 20
5 Châu Phi 29 71
6 Các khu vực khác 60 40
7 Toàn thế giới 43 57
( Nguồn: Bản tin thị trờng bảo hiểm năm 2001)
Cụ thể nhìn vào bảng trên ta thấy, ở Châu á doanh thu phí BHNT chiếm
75% trong tổng doanh thu phí, trong khi đó doanh thu phí BHPNT chỉ chiếm tới
25%. Tại Châu phi doanh thu phí BHNT lên tới 71% trong tổng doanh thu phí
toàn ngành bảo hiểm, còn doanh thu phí BHPNT chỉ chiếm tới 29%. Trên góc độ
toàn thế giới nói chung, doanh thu phí BHNT chiếm 57% trong tổng doanh thu
phí toàn ngành bảo hiểm , trong khi đó, doanh thu phí BHPNT chiếm 43%. Điều
này có thể cho chúng ta thấy rõ mặc dù ra đời sau bảo hiểm phi nhân thọ nhng nó

lại có tiềm năng phát triển và có doanh thu lớn hơn hẳn BHPNT trên toàn thế giới.
Nh vậy, ngày nay lợi nhuận và những lợi ích xã hội mà BHNT mang lại
đã tạo cho nó chỗ đứng vững vàng trong nền kinh tế xã hội. Các công ty bảo hiểm
đã có mặt ở hầu hết các nớc trên thế giới và nhiều sản phẩm ngày càng đa dạng và
hoàn hảo hơn. Kỹ thuật tính toán và các phần mềm máy tính ứng dụng cũng nh
các dịch vụ đi kèm sản phẩm ngày càng hoàn thiện.
BHNT từng bớc trở thành nhu cầu thiết thân đối với mỗi ngời dân. Ngời
ta đã thống kê đợc ở Nhật Bản và ở Mỹ cứ 10 ngời dân thì có 9 ngời mua BHNT, ở
Singapore cứ 10 ngời dân thì có 5 ngời tham gia BHNT, ở Indonesia, một nớc có
nền kinh tế xã hội gần giống với Việt Nam, cũng có 10% số hợp đồng BHNT.
Bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ cuối những năm 80, nhng sự
kém phát triển của nền kinh tế và sự không ổn định của đồng tiền trong thời gian
đó đã không cho phép triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Cụ thể:
Năm 1987, Bảo Việt đã tổ chức nghiên cứu đề tài " Lý thuyết về BHNT và
sự vận dụng thực tế vào Việt Nam" đã đợc Bộ Tài Chính công nhận là đề tài cấp
bộ. Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu phân tích các điều kiện triển khai BHNT ở
Việt Nam trong điều kiện kinh tế- xã hội cuối thập kỷ 80. Việc triển khai BHNT ở
Việt Nam phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà vào những năm cuối thập kỷ
80 ở Việt Nam cha có đợc:
- Tỷ lệ lạm phát lúc đó rất cao và cha ổn định.
- Thu nhập của nhân dân thời gian đó rất thấp. Hơn thế nữa, tỷ lệ lạm phát
cao nên thu nhập của đa số nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối
thiểu thờng ngày, phần giành ra để tiết kiệm rất ít.
- Phí bảo hiểm thu đợc vẫn cha có điều kiện đầu t phát triển. Công ty bảo
hỉêm lúc đó cha đợc phép sử dụng phí bảo hiểm đi đầu t, môi trờng đầu t cha phát
triển.
- Cha có những quy định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan
hệ giữa Công ty bảo hiểm và khả năng thanh toán của các công ty này.
Với những phân tích trên, việc vận dụng đề tài này chỉ dừng lại ở mức độ
triển khai bảo hiểm sinh mạng cá nhân có thời hạn 1 năm( bắt đầu triển khai từ

tháng 2/ 1990). So với loại hình bảo hiểm con ngời trớc đây thì phạm vi bảo hiểm
đã đợc mở rộng ( chết do mọi nguyên nhân). Tuy nhiên, thực tế triển khai bảo
hiểm sinh mạng cá nhân cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi không may ngời chủ gia đình bị mất đi, mà
chỉ tính đến trong vòng một năm là không hấp dẫn. Tâm lý ngời tham gia loại
hình bảo hiểm này không thoải mái. Do đó, loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng đ-
ợc nhu cầu tham gia của những ngời già.
- Mọi ngời đều thắc mắc sau 5, 10 năm sau tham gia bảo hiểm mà không có
rủi ro nào thì có nhận lại đợc gì không?
Đến thời kỳ đổi mới, nền kinh tế đã có những bớc phát triển đáng kể, tiền
tệ ổn định, tỷ lệ lạm phát đã đợc kiểm soát, đời sống nhân dân càng đợc nâng cao,
đã tạo điều kiện thuận lợi cho bảo hiểm nhân thọ hình thành và phát triển ở Việt
Nam.
Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế - xã hội Việt
Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Bảo Việt đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu
triển khai BHNT vào cuối năm 1993.
Ngày 20/3/1996, Bộ Tài Chính đã ký quyết định cho phép Bảo Việt triển khai
hai loại hình BHNT đầu tiên ở Việt Nam là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và Bảo
Hiểm trẻ em.
Ngày 22/6/1996, Bộ Tài Chính đã ký Quyết định số 568/QĐ/TCCB cho phép
thành lập công ty BHNT trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện đó đã đánh dấu một bớc
ngoặt mới của ngành BHNT Việt Nam.
Tháng 8/1996 những đơn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đã suất hiện trong
nhân dân, bớc đầu còn bỡ ngỡ nhng nhờ sự hoạt động tích cực của mạng lới đại lý
và nhờ sự đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phơng tiện thông tin đại
chúng, sự hiểu biết của nhân dân về bảo hiểm nhân thọ từng bớc đợc nâng cao.
Bên cạnh đó nhờ sự nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nớc, môi trờng pháp lý
thông thoáng cũng dần đợc hình thành, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu t nớc
ngoài vào Việt Nam.
Trớc đây những năm 1996 đến 1999 chỉ có một mình công ty Bảo Việt trên

thị trờng bảo hiểm Việt Nam, nhng đến nay trên thị trờng bảo hiểm Việt Nam đã
có rất nhiều công ty kinh doanh BHNT. Tính đến thời điểm này, thị trờng BHNT
Việt Nam đã có tất cả là 8 công ty BHNT đang hoạt động trong đó chỉ có một
doanh nghiệp Nhà nớc, một doanh nghiệp t nhân, còn lại là những doanh nghiệp
có 100% vốn đầu t nớc ngoài, cụ thể qua bảng sau:
STT Tên doanh nghiệp Năm thành lập
tại Việt Nam
Xuất xứ Hình thức sở hữu Nguồn vốn điều
lệ
1 BHNT Việt Nam 1996 Việt Nam Nhà nớc 589 Tỷ VN đồng
2 Prudential 1999 Anh 100 % vốn nớc ngoài 65 Triệu USD
3 AIA 2000 Mỹ 100% vốn nớc ngoài 25 Triệu USD
4 Bảo Minh CMG 1999 Việt- úc Liên doanh 10 Triệu USD
5 Manulife 1999 Đức 100% vốn nớc ngoài 10 Triệu USD
6 ACE 2005 Mỹ 100% vốn nớc ngoài
7 Prévoice 2005 Pháp 100% vốn nớc ngoài 10 Triệu USD
8 BHNT Hàn Quốc 2006 Hàn Quốc 100% vốn nớc ngoài
Ngày nay với xu hớng hội nhập, thị trờng bảo hiểm Việt Nam trở nên hấp
dẫn hơn với nhiều các công ty nớc ngoài, những công ty đã có nhiều kinh nghiệm
hoạt động ở nớc ngoài, kèm theo cơ chế tài chính, thù lao linh hoạt, thị trờng
BHNT Việt Nam thực sự bớc vào một giai đoạn mới- giai đoạn sôi động, cạnh
tranh toàn diện và phát triển với tốc độ cao. Sự cạnh tranh thể hiện trên tất cả các
mặt nh thu hút khách hàng, các sản phẩm đổi mới ngày càng đáp ứng thiết thực
hơn với nhu cầu khách hàng, dịch vụ khách hàng, địa bàn hoạt động, thu hút đại
lý, quảng cáo, khuyến mãi... Và thực chất kinh doanh BHNT là một ngành kinh
doanh mang có tơng lai phát triển lớn mạnh thể hiện ở doanh thu của BHNT qua
bảng sau qua các năm:

Bảng 4: Doanh thu phí BHNT toàn thị trờng qua các năm ( tỷ đồng)
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Doanh
thu ( tỷ
đồng)
0,95 17,5 203 492 1292 2786 4615 6446 7800 8012,8

Trong xu hớng hội nhập toàn cầu hiện nay, thị trờng bảo hiểm Việt Nam
nói chung, thị trờng BHNT nói riêng sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn nữa, mạng
lới kinh doanh sẽ phủ kín toàn quốc, lực lợng đại lý, cán bộ ngày càng đông đảo,
mô hình tổ chức và quản lý các quy trình nghiệp vụ ngày một hoàn thiện, chất l-
ợng khai thác bảo hiểm từng bớc đợc nâng cao. Bên cạnh đó cũng sẽ phải đối mặt
với những diễn biến phức tạp ảnh hởng đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Song
thị trờng BHNT Việt Nam là một thị trờng còn nhiều tiềm năng, hứa hẹn nhiều b-
ớc phát triển mới.
2. Vai trò của BHNT.
BHNT có vai trò rất lớn, BHNT không chỉ thể hiện trong từng gia đình và
đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn
về tài chính khi gặp rủi ro, mà còn thể hiện rõ trên phạm vi toàn xã hội. Trên
phạm vi toàn xã hội, BHNT góp phần thu hút vốn đầu t nớc ngoài, huy động vốn
trong nớc từ những nguồn tiền mặt nhàn rỗi trong dân c. Nguồn vốn này không
chỉ có tác dụng đầu t dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm
phát và tạo thêm công ăn việc làm cho ngời lao động góp phần hỗ trợ ngân sách
nhà nớc giải quyết đợc một số khó khăn về kinh phí đảm bảo xã hội và đầu t phát
triển. Cụ thể :
2.1. BHNT góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân, gia đình và là chỗ
dựa tình thần vững chắc cho ngời tham gia bảo hiểm.
Trong cuộc sống, con ngời dù đã có những biện pháp đề phòng hạn chế nh-
ng rủi ro vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Hậu quả của rủi ro thật khôn lờng, nó
không những ảnh hởng đến sức khoẻ, sinh mạng của con ngời mà còn ảnh hởng
đến tình hình tài chính của mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Nhiều cá nhân, gia đình trở
nên khó khăn, túng quẫn khi có một thành viên trong gia đình là trụ cột bị chết

hoặc bị thơng tật toàn bộ vĩnh viễn. Khi đó gánh nặng đè lên gia đình ngoài những
chi phí mai táng, chôn cất, chi phí nằm viện, thuốc men, chi phí phẫu thuật mà
những khoản thu thờng xuyên cũng bị mất đi. Khó khăn hơn là một loạt các nghĩa
vụ và trách nhiệm mà ngời chết cha kịp hoàn thành nh: phụng dỡng cha mẹ, nuôi
dạy con cái ăn học, trả nợ...Dù rằng hệ thống bảo trợ xã hội và các tổ chức xã hội
có thể trợ cấp khó khăn, nhng cũng chỉ mang tính tạm thời trớc mắt, cha đảm bảo
lâu dài về mặt tài chính. Tham gia BHNT sẽ phần nào giải quyết đợc những khó
khăn đó. Qua các sản phẩm của mình thể hiện việc hỗ trợ nh: khắc phục hậu quả
rủi ro, hỗ trợ tài chính khi không còn khả năng lao động, cơ chế bù đắp tài chính
có thể khẳng định rằng BHNT đã, đang và sẽ góp phần tích cực giảm nhẹ những
khó khăn cho cá nhân, gia đình, giảm nhẹ các khoản trợ cấp của Nhà nớc, của xã
hội đối với các cá nhân gặp khó khăn, ngoài ra còn thực hiện xã hội hoá các đảm
bảo xã hội.
Nh vậy, tham gia BHNT là việc ngời đợc bảo hiểm đã chuyển phần rủi ro
của mình sang công ty bảo hiểm, đã giải toả đợc nỗi lo lắng về những thiệt hại
xảy ra đối với mình và yên tâm công tác.
2.2. BHNT góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các
doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ gần gũi, gắn bó ngời lao động với ngời sử
dụng lao động.
Trong sản xuất kinh doanh nếu nh doanh nghiệp bị mất đi những ngời chủ
chốt, những ngời mang lại cho doanh nghiệp những lợi nhuận, những kết quả kinh
doanh thì doanh nghiệp đó có thể rơi vào tình trạng khó khăn, và không đạt đợc
lợi nhuận nh mong muốn. Ngày nay, tuỳ theo đặc điểm ngành nghề kinh doanh
mà chủ doanh nghiệp thờng mua bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tập thể... cho ng-
ời làm công, đặc biệt là những ngời chủ chốt trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo
ổn định cuộc sống và tạo ra sự lôi cuốn, gắn bó ngay cả trong lúc doanh nghiệp
gặp khó khăn, tránh cho doanh nghiệp sự bất ổn định về tài chính, bên cạnh đó
góp phần quan trọng là giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, tránh đợc sự thua
thiệt về tài chính và những tai nạn rủi ro gây nên mà vẫn có chi phí bù đắp.
2.3. BHNT góp phần thu hút vốn đầu t nớc ngoài, tạo kênh huy động và cung

cấp vốn đầu t lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển.
Tại các nớc phát triển trên thế giới, thời gian trớc đây khi BHNT bắt đầu
hình thành thì phí bảo hiểm thu đợc cũng cha thực sự dùng cho hoạt động đầu t,
số tiền này còn nằm trong các ngân hàng rất lớn và nh thế lợi nhuận thu từ việc
đầu t là cha cao, cụ thể ta có thể thấy ở Mỹ trong những năm 1970 số vốn các
công ty BHNT cung cấp chỉ là 9 tỷ USD, trong khi đó cung cấp vốn qua hệ thống
ngân hàng để đầu t là 37 tỷ USD. Nhng chỉ đến năm 2001 số vốn do các công ty
BHNT đầu t là 100,2 tỷ USD, trong khi hệ thống ngân hàng trong nớc chỉ có 95,7
tỷ USD. Còn các nớc ở khu vực Châu á từ khi mở cửa thị trờng bảo hiểm nhân thọ
cho các công ty nớc ngoài đầu t vào thị trờng trong nớc thì vốn của các công ty đã
lớn mạnh hơn rất nhiều.
Tại Việt Nam nguồn vốn đầu t mà các công ty BHNT mang lại ngày càng
tăng lên điều này thể hiện rõ qua bảng 5 sau đây:
Bảng 5: Quỹ đầu t của các công ty BHNT ở Việt Nam cung cấp cho nền kinh tế.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Quỹ đầu t( tỷ đồng) 0,7 15 178 582 1654 4000
( Nguồn: Tạp chí bảo hiểm số 6/ 2002)
( Ghi chú: quỹ đầu t ớc tính vào cuối năm, tơng ứng với quỹ dự phòng
nghiệp vụ, không tính nguồn vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu)
Nhìn vào bảng trên ta thấy rõ quỹ đầu t của các công ty BHNT vào nền kinh tế
ngày càng tăng một cách nhanh chóng. Điều này cũng góp phần to lớn trong việc
phát triển nền kinh tế - xã hội của nớc ta vì đây là một khoản tiền hoàn toàn
không nhỏ, thúc đẩy các hoạt động kinh doanh phát triển thu đợc lợi nhuận lớn
hơn từ các khoản đầu t này. Với chức năng gom nhặt những khoản tiền nhàn rỗi
nằm rải rác trong dân c, BHNT đã hình thành một quỹ đầu t lớn, cung cấp vốn hữu
ích cho nền kinh tế, đặc biệt đó là nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ đắc lực
cho công cuộc CNH-HĐH đất nớc. So với ngành ngân hàng, BHNT Việt Nam tuy
mới có thâm niên hoạt động còn ngắn nhng đã thực sự trở thành một kênh huy
động và phân phối vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Dới hình thức quỹ dự phòng, các
doanh nghiệp BHNT đã tích luỹ đợc số vốn ngày càng lớn, cho phép các doanh

nghiệp BHNT thực hiện những khoản đầu t lớn dới hình thức nh góp vốn liên
doanh, mua cổ phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nớc, gửi tiền tiết kiệm ngân hàng,
cho vay, tham gia các dự án đầu t...Hoạt động tài chính cũng trở thành xơng sống
cho nâng đỡ cho hoạt động kinh doanh BHNT, tạo tiền đề và điều kiện để doanh
nghiệp BHNT tham gia vào thị trờng tài chính, tạo lập các quỹ đầu t. Thực chất,
các doanh nghiệp BHNT đã tham gia vào rất nhiều hoạt động đầu t, là cổ đông lớn
trong nhiều công ty cổ phần đồng thời cũng là thành viên thờng xuyên trong các
cuộc đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc và cũng là những nhà " đầu t" lớn trên
thị trờng chứng khoán.
2.4. BHNT góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn
việc làm cho ngời lao động trên phạm vi toàn xã hội.
BHNT ra đời thực chất đã đem lại rất nhiều hữu ích cho nền kinh tế xã hội,
nó thu gom những đồng tiền trôi nổi trong xã hội, giảm lạm phát, ngoài ra nó còn
tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho ngời lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. BHNT
đã thu hút ngời lao động trong xã hội, tạo ra một lực lợng đông đảo các đại lý
chuyên nghiệp, đại lý bán chuyên và các cộng tác viên. Đến cuối năm 2005, tổng
số đại lý chuyên nghiệp của toàn thị trờng Việt Nam đã lên tới 96.000 nghìn ngời.
Với đặc trng nổi bật hoàn toàn độc lập, tự chủ về thời gian, đòi hỏi tính tự giác
cao, hởng thù lao theo kết quả hoạt động, tự hạch toán độc lập, không yêu cầu quá
cao về bằng cấp, nghề đại lý(t vấn) BHNT cũng đã tạo ra chỗ làm việc cho hàng
triệu ngời với t cách là cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp BHNT, ngoài ra
còn tạo ra việc làm cho các ngành khác có liên quan nh công nghệ thông tin, ngân
hàng, in ấn, quảng cáo.
2.5.BHNT góp phần nâng cao sức khoẻ cho những ngời tham gia BHNT.
Bên cạnh việc phải bảo hiểm cho khách hàng khi có sự cố sảy ra thì các
công ty bảo hiểm cũng thực sự quan tâm đến sức khoẻ của khách hàng, công ty
luôn tìm cách bảo vệ sức khoẻ cũng nh tính mạng của ngời đợc bảo hiểm. Các
công ty bảo hiểm trớc khi chấp nhận bảo hiểm cho khách hàng sẽ đợc kiểm tra
sức khoẻ tại trung tâm y tế do công ty chỉ đinh, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ đợc tham gia
bảo hiểm, việc kiểm tra sức khoẻ này cũng thực sự có ích cho khách hàng, vì qua

đợt kiểm tra này họ có thể biết rõ hơn về tình trạng sức khoẻ của bản thân, mà
dịch vụ này là miễn phí. Hơn nữa trong thời hạn bảo hiểm mỗi công ty đều thực
hiện các chính sách dịch vụ khách hàng, trong đó có thực hiện chính sách, chăm
sóc sức khoẻ thông qua dịch vụ kiểm tra sức khoẻ của phòng chăm sóc sức khoẻ
khách hàng, dịch vụ này thờng đợc tiến hành định kỳ 1 năm/ 1 lần hoặc 2 năm/ 1
lần ( tuỳ theo từng công ty) tại các trung tâm y tế do công ty BHNT chỉ định hoặc
tại phòng chăm sóc sức khoẻ khách hàng của công ty. Ngoài ra, khi khách hàng đ-
ợc bảo hiểm gặp rủi ro ốm đau, phẫu thuật, tai nạn,... công ty BHNT cũng trả một
số tiền để họ phục hồi sức khoẻ một cách nhanh chóng.
2.6. Ngoài ra, BHNT còn có tác dụng kích thích tiết kiệm.
Thông qua các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, mỗi ngời hoàn toàn có thể tiết
kiệm đợc những số tiền một cách có kế hoạch, có mục đích chính đáng nh: tiết
kiệm cho tơng lai sau này, tiết kiệm cho con cái ăn học, tiết kiệm để lo cho tuổi
già,... nh vậy BHNT đã tạo ra một hình thức tiết kiệm linh hoạt, tác động đến nếp
sống, nếp suy nghĩ của mỗi cá nhân, từng gia đình, chủ doanh nghiệp, góp phần
hình thành ý thức, thói quen về việc dành một phần thu nhập để cho một cuộc
sống tơng lai an toàn hơn, một thế hệ tơng lai tốt đẹp hơn, đầy đủ hơn. Thông qua
các hợp đồng bảo hiểm họ hoàn toàn có thể thực hiện đợc điều đó. Trên thực tế,
BHNT cón có vai trò nh một vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng thờng
đợc bán cho các đối tợng đi vay để mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho
mục đích cá nhân khác.
Qua các tác dụng nêu trên, chúng ta thực sự thấy đợc tác dụng to lớn và ý
nghĩa của BHNT, chính vì vậy mà BHNT ngày càng phát triển và trở nên quan
trọng không thể thiếu đợc trong đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức, và
mỗi nền kinh tế.
3. Đặc điểm của BHNT.
3.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BHPNT.
Thật vậy, mỗi ngời mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ (phí bảo hiểm )
cho ngời bảo hiểm, ngợc lại ngời bảo hiểm có trách nhiệm trả một số tiền lớn (số

tiền bảo hiểm) cho ngời đợc hởng quyền lợi bảo hiểm nh đã thoả thuận từ trớc khi
các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm đợc trả khi ngời đợc bảo hiểm đạt
đến một độ tuổi nhất định và đợc ấn định trong hợp đồng. Hoặc số tiền này đợc
trả cho thân nhân và gia đình ngời đợc bảo hiểm khi ngòi này không may bị chết
sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm đợc một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí
bảo hiểm. Số tiền này giúp ngời sống trang trải đợc những khoản chi phí cần thiết
nh thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục cho con cái... Chính vì vậy BHNT vừa
mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro cao. Tính chất tiết kiệm ở đây thể hiện
ngay trong từng cá nhân, từng gia đình một cách thờng xuyên, có kế hoạch và có
kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác
ở chỗ, ngời bảo hiểm đảm bảo trả cho ngời tham gia bảo hiểm hay ngời thân của
họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm đợc một khoản tiền nhỏ. Có
nghĩa là khi ngời đợc bảo hiểm không may gặp rủi ro trong thời hạn bảo hiểm đã
đợc ấn định, những ngời thân của họ sẽ nhận đợc những khoản trợ cấp hay số tiền
bảo hiểm từ công ty bảo hiểm. Điều đó thể hiện rõ tính chất rủi ro trong BHNT.
3.2. BHNT đáp ứng rất nhiều mục đích khác nhau của ngời tham gia bảo
hiểm.
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng đợc một mục
đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tợng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, từ
đó góp phần ổn định tài chính cho ngời tham gia bảo hiểm, thì BHNT đã đáp ứng
đợc nhiều mục đích khác nhau và rất hữu ích cho ngời tham gia bảo hiểm nhân
thọ. Mỗi mục đích thể hiện khá rõ trong từng hợp đồng. Chẳng hạn, hợp đồng bảo
hiểm hu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của ngời tham gia bảo hiểm những khoản trợ cấp
đều đặn hàng tháng, từ đó góp phần ổn định cuộc sống của họ khi già yếu. Hợp
động bảo hiểm tử vong sẽ giúp ngời đợc bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền
bảo hiểm khi họ bị tử vong. Số tiền nay đáp ứng đợc rất nhiều mục đích của ngời
quá cố nh: trang trải nợ nần, giáo dục con cái, phụng dỡng bố mẹ già... Hợp đồng
BHNT đôi khi còn có vai trò nh một vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng
thờng đợc bán cho các đối tợng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình, hoặc

×