Dinh dưỡng với nhiễm khuẩn và
miễn dịch ở trẻ em
Chế độ dinh dưỡng đầy đủ và cân đối giúp trẻ phát triển tốt
Trẻ em có tình trạng dinh dưỡng không bình thường ở nước ta còn ở mức
khoảng 20%. Chủ yếu là suy dinh dưỡng và béo phì. Dinh dưỡng không bình
thường, sức đề kháng kém, trẻ rất dễ mắc bệnh. Viêm phổi, tiêu chảy và một số
bệnh nhiễm khuẩn khác lại làm cho tình trạng suy dinh dưỡng thêm nặng nề khó
khắc phục. Vì vậy cần có một chế độ dinh dưỡng đầy đủ và cân đối để giúp trẻ
phát triển thể chất bình thường và trí tuệ tốt.
Thức ăn có chứa các thành phần dinh dưỡng cần thiết đó là protid, glucid,
vitamin, các chất khoáng và nước. Nếu thiếu một trong các chất này có thể gây ra
nhiều bệnh tật thậm chí tử vong.
Một mặt thiếu dinh dưỡng làm giảm sức đề kháng của cơ thể. Mặt khác các
nhiễm khuẩn làm suy sụp thêm tình trạng suy dinh dưỡng sẵn có. Hai điều này là
một vòng xoắn luẩn quẩn.
Ảnh hưởng của tình trạng dinh dưỡng đối với tiến triển các bệnh nhiễm
khuẩn không giống nhau như trong bệnh lao, bệnh tiêu chảy nhiễm khuẩn ảnh
hưởng này rất lớn, còn trong bệnh uốn ván, bại liệt thì ảnh hưởng rất ít.
Đối với miễn dịch thì thiếu protein – năng lượng ảnh hưởng trực tiếp đến hệ
thống miễn dịch đặc biệt là miễn dịch qua trung gian tế bào, các chức phận diệt
khuẩn của bạch cầu đa nhân trung tính, bổ thể và bài xuất các globulin miễn dịch
nhóm IgA. Ở trẻ suy dinh dưỡng, tuyến ức giảm về thể tích và có biến đổi hình
thái. Các mảng Peyer ở ruột non cũng bị teo đét cùng với giảm các nang lympho
bào. Các lympho T (trưởng thành ở tuyến ức) có vai trò miễn dịch qua trung gian
tế bào và các lympho B (trưởng thành ở tủy xương) chịu trách nhiệm về miễn dịch
dịch thể nghĩa là tạo ra các kháng thể đặc hiệu của các kháng nguyên tấn công cơ
thể. Nếu trẻ suy dinh dưỡng thì số lượng lympho T luân chuyển giảm sút và quá
trình trưởng thành của chúng bị rối loạn. Khi có giảm đáp ứng miễn dịch dịch thể
vẫn cần tiêm chủng cho các trẻ này đặc biệt là bị sởi và ho gà.
Vai trò của một số vitamin đối với miễn dịch:
Vitamin A: Cần cho phát triển bình thường của cơ thể, cho chức năng của
tế bào võng mạc, biểu mô hàng rào quan trọng bảo vệ cơ thể khỏi sự xâm nhập của
vi khuẩn từ bên ngoài vào. Chức năng của Retinoid trong việc kiểm soát, biệt hóa
tể bào là quan trọng trong hệ miễn dịch. Hai loại trong hệ miễn dịch mắc phải là
thể dịch và tế bào đều bị ảnh hưởng của vitamin A và các chất chuyển hóa của
chúng.
Vitamin C: Khi thiếu thì sự nhạy cảm đối với các bệnh nhiễm khuẩn tăng
lên. Một số nghiên cứu cho thấy khi cơ thể đủ vitamin C thì các globulin miễn
dịch IgA, IgM đều tăng, tính cơ động và hoạt tính các bạch cầu tăng, kích thích
chuyển dạng các lympho bào và giúp tạo thành một trong các thành phần của bổ
thể: yếu tố C3.
Vitamin nhóm B: Đáng chú ý là vai trò của folat và pyridoxin.
Thiếu folat: làm chậm sự tổng hợp các tế bào tham gia vào các cơ chế miễn
dịch nhất là miễn dịch qua trung gian tế bào. Thực nghiệm trên động vật thấy
tuyến ức bị teo nhỏ và số lượng các tế bảo cũng giảm khi thiếu folat. Trên lâm
sàng thiếu folat thường kèm thiếu sắt là hai yếu tố gây thiếu máu dinh dưỡng.
Thiếu Pyridoxin: làm chậm trễ các chức phận miễn dịch cả dịch thể lẫn
trung gian tế bào.
Vai trò của một số chất khoáng đối với miễn dịch:
Sắt (Fe): Cần thiết cho tổng hợp ADN. Fe còn tham gia vào nhiều enzym
can thiệp vào quá trình phân giải các vi khuẩn bên trong tế bào. Khi thiếu Fe tính
nhạy cảm với nhiễm khuẩn tăng nhưng Fe cần được kết hợp với các protein đúng
mức mới hấp thu được nếu không Fe tự do sẽ là yếu tố thuận lợi cho vi khuẩn phát
triển. Vì vậy khi bổ sung Fe cần chú ý cả mặt protein – năng lượng của khẩu phần.
Chỉ nên bổ sung Fe vào ngày thứ 5 hoặt thứ 7 của quá trình hồi phục dinh dưỡng.
Fe ảnh hưởng tới miễn dịch qua trung gian tế bào nhiều hơn miễn dịch dịch thể vì
thế ở trẻ thiếu Fe vừa phải việc tiêm chủng phòng bệnh vẫn cótác dụng.
Kẽm (Zn): Hệ thống miễn dịch đặc biệt nhạy cảm với tình trạng Zn của cơ
thể. Khi thiếu Zn tuyến ức nhỏ đi, các chức năng của hầu hết các tế bào miễn dịch
bao gồm cả tế bào T, tế bào B và đại thực bào đến giảm thymulin một hormon của
tuyến ức có chứa Zn. Trên chuột thực nghiệm nếu thiếu Zn có biểu hiện thiểu sản
lách và tuyến ức, giảm sản xuất các globulin miễn dịch bao gồm cả IgA, IgM và
IgG. Hiện tượng hoạt hóa đại thực bào và hiện tượng thực bào bị suy giảm được
nhận thấy cả ở súc vật thực nghiệm và trẻ em bị thiếu Zn.
Thiếu Zn đơn thuần ít gặp mà hay kèm theo thiếu protein – Fe và các
vitamin.
Đồng (Cu): Trẻ em thiếu đồng bẩm sinh (bệnh Menkes) thường chết do
nhiễm khuẩn nhất là bệnh viêm phổi.
Selen (Se): Là thành phần thiết yếu của glutathion – peroxydase là men
góp phần giải phóng sự hình thành các gốc tự do, đó là một chất chống oxy hóa
mạnh. Thiếu Se cùng với thiếu vitamin E sẽ làm giảm sản xuất kháng thể.
Sự liên quan giữa các chất khoáng và miễn dịch cần chú ý:
- Còn nhiều chất khoáng khác như Mg, Co, I2, Ni (Manhê, Coban, Iốt,
Niken) và phần lớn các kim loại nặng cũng có vai trò đáp ứng miễn dịch nhưng
các chất này vừa cần thiết vừa thiết yếu nhưng thừa sẽ gây độc.
- Sự thiếu tuyệt đối các chất này ít gặp trừ bị bẩm sinh.
- Thiếu Zn và Fe được quan tâm hơn cả trong chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng.
Như vậy các nhiễm khuẩn có thể làm rối loạn tình trạng dinh dưỡng hoặc
làm trầm trọng hơn một tình trạng suy dinh dưỡng mới bắt đầu. Ngược lại các rối
loạn dinh dưỡng có thể gây rối loạn các cơ chế miễn dịch, làm nguy cơ nhiễm
khuẩn cao hoan. Cho nên một chiến lược toàn diện về sức khoẻ cộng đồng kết hợp
phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn với phòng chống bệnh do thiếu dinh dưỡng
mới có hiệu quả cao.