Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM & LÝ THUYẾT PHÂN TÍCH DANH MỤC ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.07 KB, 31 trang )

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM & LÝ THUYẾT
PHÂN TÍCH DANH MỤC ĐẦU TƯ
I/ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán,
chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó
có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung. Tính tập trung ở đây là muốn nói
đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất.Hình
thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán (Stock
exchange). Tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch được tập
trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào
quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.TTCK phi tập trung còn gọi
là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường OTC, các giao dịch được
tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc giả
và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình
thành theo phương thức thoả thuận.
Như vậy xét về mặt hình thức thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các
hoạt động trao đổi, mua bán và chuyển nhượng chứng khoán, qua đó làm thay
đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
2. Lịch sử hình thành
Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu được Đảng và
chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu của thập kỉ 90 (thế kỉ 20)
nhằm xác lập một kênh huy động vốn cho việc đầu tư phát triển kinh tế.
Trước định hướng đó, nghị định 28/cp do chính phủ bán hành 07/05/1996
quy định việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Nhưng sau 2 năm thực hiện chỉ có 10 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, một
kết quả quá khiêm tốn. Do vậy để thúc đầy quá trình cổ phần hoá, ngày
29/06/1998 chình phủ bán hành nghị định 44/1998/NĐ-CP thay thế nghị định
28/CP quy định trong vòng 5-10 năm nữa cổ phần hoá phần lớn các doanh
nghiệp hoạt động trong ngành nghề không phải là ngành kinh tế trọng điểm. Với
ý tưởng tạo ra thị trường chứng khoán để tạo ra môi trường thuận lợi cho quá cổ


phần hoá.
Mặt khác nền kinh tế Việt Nam sau những năm đổi mới đã có những bước
phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7-7,5% năm.
Do vậy nhu cầu vốn cho phát triển là một vấn để cần phải giải quyết, trong khì
đó nguồn tín dụng cung cấp cho nên kinh tế của các ngân hàng chi chiếm một tỉ
trọng nhỏ.
Vì vậy sự hình thành thị trường chứng khoán không chỉ tạo môi trường cho
quá trình cổ phần hoá mà còn tạo một kênh huy động vốn hiệu quả cho sự phát
triển của nền kinh tế.
Trước yêu cầu đó, ngày 28/11/96 chính phủ bán hành nghị định 75/CP về
thành lập UBCK. Ngày 4/7/1998 chính phủ bán hành nghị định 48/1998/NĐ-CP
về chứng khoán và thị trường chứng khoán...Và ngày 20/07/2000 trung tâm
giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động đánh dấu sự
phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam.
3. Chức năng
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng
khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động
sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua
TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các
nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ
các nhu cầu chung của xã hội.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công
chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú.
Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ
rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK các nhà đầu tư
có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại
chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc
tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính

linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu
quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng
cao.
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt
động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác,
giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh
chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải
tiến sản phẩm.
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén
và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền
kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu
tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh
tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế
vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để
tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra,
Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào
TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh
tế.
4. Nguyên tắc hoạt động
Thị trường chứng khoán hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc
trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai.
Nguyên tắc trung gian: Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán
trên thị trường chứng khoán đều đuợc thực hiện thông qua các trung gian, hay
còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của
khách hàng và huởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các
dịch vụ khác nhu cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc đầu
tư...
Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thoả thuận

với nhau để mua bán chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của
mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh.
Nguyên tắc đấu giá: Giá chứng khoán đuợc xác định thông qua việc đấu
giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị trường
đều không thể can thịệp vào việc xác định giá này. Có hai hình thức đấu giá là
đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động.
Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và
trực tiếp đấu giá.
Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới đuợc nhập
vào hệ thống máy chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ
xác định mức giá sao cho tại mức giá này, chứng khoán giao dịch với khối
luợng cao nhất.
Nguyên tắc công khai: Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán
đều phải đảm bảo tính công khai. Sở giao dịch chứng khoán công bố các thông
tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố
công khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất
thuờng xảy ra đối với công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, nguời quản lý,
cổ đông đa số. Các thông tin càng đuợc công bố công khai minh bạch, thì càng
thu hút đuợc nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng khoán.
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán đuợc hình
thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở
hầu hết các nuớc trên thế giới hiện nay, mỗi nuớc chỉ có một Sở giao dịch chứng
khoán duy nhất (tưy nhiên, nguời dân mọi miền đất nuớc đều có thể tiếp cận thị
trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới các điểm
dân cư).
Một số nuớc rộng lớn còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử
để lại thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những chứng khoán riêng biệt.
5. Cơ cấu thị trường chứng khoán
Căn cứ vào sự chu chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được
chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông
qua việc nhà đầu tư mua chứng khoán mới phát hành. Như vậy, thị trường sơ
cấp là kênh huy động vốn cho nhà đầu tư hay nói cách khác nó thực hiện quá
trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoán tiền nhàn rỗi tạm thời trong
dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn. Giá chứng khoán trên
thị trường sơ cấp là do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay
trên chứng khoán.
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các
chứng khoán đã phát hành. Giá cả trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc
cạnh tranh tự do, giá cả trên thị trường chứng khoán là do cung cầu quyết định.
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát
hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục
đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm,
hưởng chênh lệch giá. Hay nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào người
phát hành chứng khoán mà chuyển vận giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên
thị trường với nhau.
Như vậy, thị trường thứ cấp không cung cấp dịch vốn cho các doanh
nghiệp, thì có lợi gì? Không có thị trường thứ cấp, thì không có thị trường sơ
cấp: nếu chứng khoán phát hành ra mà không lưu chuyển được trên thị trường
thứ cấp, thì nhà đầu tư cũng không quan tâm đến việc mua, nắm giữ chứng
khoán phát hành (nhất là cổ phiếu, một loại chứng khoán vô thời hạn). Cổ phiếu
của một tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán khi được mua bán nhiều
là phản ánh lòng tin của người đầu tư vào tổ chức đó; do đó khi tổ chức niêm
yết muốn tăng vốn, họ có thể tiếp tục phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đợt
mới. Vì vậy, thông thường, khi thị trường đang lên (chỉ số giá cổ phiếu đang ở
xu hướng tăng), thì các công ty dễ dàng phát hành với khối lượng lớn. Khi thị
trường đang xuống, thì các công ty rất khó phát hành chứng khoán. Ngược lại,
nếu tổ chức phát hành các cổ phiếu có chất lượng cao ở thị trường sơ cấp thì

việc mua bán trên thị trường thứ cấp mới sôi động, nếu phát hành cổ phiếu
không có chất lượng thì cổ phiếu đó không giao dịch được trên thị trường thứ
cấp.
6. Các chủ thể tham gia
6.1. Sở giao dịch chứng khoán (trung tâm giao dịch chứng khoán)
Đây là cơ quan tổ chức thị trường .
6.2. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá của
thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phuơng là nhà phát hành các trái phiếu
chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành và các công cụ tài chính như các
trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng ... phục vụ cho hoạt động của họ
6.3. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là người kinh doanh chứng khoán thông qua các công ty môi
giới chứng khoán mua bán chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại:
nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia
mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời.
- Các nhà đầu tư có tổ chức hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường
xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn. Một số nhà đầu tư chuyên
nghiệp chính là các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu lương và
cácquỹ bảo hiểm xã hội khác. Điểm nổi bật của của các tổ chức này là nó có thể
đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đàu tư được thực hiện bởi các
chuyên giả có kinh nghiệm.
6.4. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thị trường
- Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán vói một trong cac nghiệp vụ sau: bảo lãnh phát hành, môi

giới, tự doanh, quản lí quỹ đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. Công ty chứng
khoán là người trực tiếp mua bán chứng khoán trên trung tâm giao dịch chứng
khoán ( sở giao dịch chứng khoán )
- Các ngân hàng thương mại: tại một số nước ngân hàng thương mại có thể
sử dụng vốn để tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư chúng
khoán. Tuy nhiên các ngân hàng chỉ được đầu tư chứng khoán trong những giới
hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước biến động của giá chứng khoán.
6.5. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
- Các cơ quan quản lí nhà nước
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu kí và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
7. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của thị trường chứng khoán. Theo Markowitz: tài
sản tài chính là các chứng từ thể hiện quyền của người sở hữu các tài sản đó đối
với các nguồn thu nhập tương lai của chủ thể phát sinh hành. Như vậy chứng
khoán được coi là một tài sản tài chính.
Trong quá trình phát triển của thị trường, hàng hoá ngày càng đa dạng,
phong phú, và người ta chia chứng khoán thành 4 loại chính sau: cổ phiếu, trái
phiếu, các công cụ chuyển đổi và các công cụ phái sinh.
Cổ phiếu là một chứng khoán vốn xác nhận các quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp của một cổ đông đối với một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài
chính có thời hạn thanh toán vô hạn.
- Cổ phiếu thường: Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường có quyền tham gia
kiểm soát, theo dõi, quản lí công việc của công ty thông qua cơ chế đại diện và
biểu quyết.
- Cổ phiếu ưu đãi: Cổ đông nắm giữ không được tham gia vào bán bầu
cử, ứng cử vào bán kiểm soát công ty, cổ đông thường nhận mức cổ tức cố định,

được hưởng những ưu đãi về tài chính, có quyền nhận lãi trước cổ phiếu
thường, được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty trong trường hợp
công ty thanh lí hoặc giải thể.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay)
một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải
hoàn trả khoản cho vay bán đầu khi nó đáo hạn.
Có nhiều cách phân loại trái phiếu: theo lãi suất thì có trái phiếu discount
bonds, trái phiếu coupon bonds; theo tổ chức phát hành có trái phiếu công ty,
trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình.
Chứng khoán chuyển đổi là loại chứng khoán tùy theo những điều kiện
cụ thể mà cho phép ngưòi nắm giữ nó đổi lấy một chứng khoán khác. Thông
thường là cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu thường và trái phiếu
được chuyển thành cổ phiếu thường.
Các nhà đầu tư có kinh nghiệm có thể sử dụng những chứng khoán chuyển
đổi để làm rào chắn rủi ro trước những dao động của giá thị trường
Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được phát hành trên cơ
sở các loại chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích giảm
thiểu rủi ro, bảo toàn nguồn vốn đầu tư và thu lợi nhuận. Có 4 loại chứng khoán
phái sinh cơ bản là Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Quyền chọn và Hợp
đồng hoán đổi.
II/ Lý thuyết về phân tích và quản lí danh mục
1. Khái niệm
Danh mục đầu tư là một nhóm các tài sản như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc
một số tài sản khác như bất động sản, quyền chọn,.. do một nhà đầu tư hoặc một
tổ chức nắm giữ. Trên thị trường chứng khoán thì danh mục đầu tư ở đây nghĩa
là việc nắm giữ các tài sản là các chứng khoán.
Hay có thể nói danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện việc đầu
tư bằng cách chọn lựa vị thế đối với các tài sản, và tập hợp các vị thế này gọi là
một danh mục đầu tư.

Có nhiều cách để thể hiện một danh mục đầu tư nhưng cách thuận lợi nhất
là thể hiện dưới dạng tỉ trọng các tài sản đầu tư trong danh mục. Ví dụ có danh
mục P:
( )
1 2
, ,...,
w w w
n
với
n
1
1
w
i
i=
=

,
w
i
là tỉ trọng của tài sản thứ i.
Phân tích và quản lí danh mục đầu tư là dựa vào thái độ đối với rủi ro
của nhà đầu tư, phân tích biến động chứng khoán từ đó điều chỉnh vị thế các tài
sản trong danh mục. Hai yếu tố quan trọng phải xem xét đó là lợi suất, và độ rủi
ro của danh mục mà nhà đầu tư chấp nhận. Bởi vì có thể với cùng một tài sản
nhưng thái độ với tài sản đó của nhà đầu tư không giồng nhau, hay cùng với
một danh mục nhưng thái độ với rủi ro của từng nhà đầu tư là khác nhau.
Theo luật chứng khoán thì chỉ có công ty quản lí quỹ mới thực hiện nghiệp
vụ quản lí danh mục đầu tư. Tùy theo những thoả thuận với khách hàng, công ty
có thể lập các danh mục đầu tư, công ty sẽ hưởng phí danh mục quản lí, lãi và lỗ

của danh mục đầu tư sẽ khách hàng gánh chịu trong thoả thuận vói công ty bán
đầu.
Theo định nghĩa về danh mục đầu tư của William: danh mục đầu tư là việc
nắm giữ các chứng khoán trong một thời gian định trước, thường từ 12 tháng
đến 5 năm. Như vậy danh mục đầu tư là việc nắm giữ chứng khoán trong một
khoảng thời gian dài nhằm kiếm được lợi nhuân cao nhất với mức độ rủi ro thấp
nhất. Tuy nhiên môi trường kinh tế là bất định, luôn có sự biến động về lợi suất
và rủi ro cũng như các cơ hội kiếm lời, do vậy phải điều chỉnh danh mục để
giảm thiểu rủi ro, tăng lợi suất kì vọng, đồng thời tận dụng được cơ hội trên thị
trường.
Việc phân tích một danh mục đầu tư không chỉ giới hạn trong việc uỷ thác
về quản lí danh mục tức là các công ty quản lí quỹ sẽ dựa vào đó lập các danh
mục đầu tư, mà còn có vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho các nhà đầu tư
lựa chọn và tự điều chỉnh danh mục đầu tư của mình.
Như vậy việc phân tích và quản lí danh mục là việc thiết lập mối quan hệ
giữa rủi ro và lợi suất kì vọng thu được,
2. Nguyên lí đa dạng hoá
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá danh mục, nhà đầu tư phải đánh giá hai
thành phần quan trọng của danh mục đó là rủi ro và tỉ suất lợi nhuân. Tất cả các
quyết định điều chỉnh danh mục đều được cân nhắc dưói góc độ rủi ro và tỉ suất
lợi nhuận kì vọng của danh mục đó. Các nhà đầu tư đều muốn cùng một mức độ
rủi ro của danh mục thì lợi suất kì vọng của danh mục là lớn nhất hoặc cùng với
một mức lợi suất nhất định thì mức độ rủi ro là nhỏ nhất. Ta biết mối quan hệ
giữa lợi suất và rủi ro: Rủi ro càng lớn thì lợi suất vọng càng cao. Do đó tùy vào
mục tiêu đầu tư của từng nhà đầu tư mà chọn cho mình một danh mục chứng
khoán vói lợi suất thịch hợp.
Trước hết tìm hiểu rủi ro là gì? Rủi ro được xem như là khả năng xuất hiện
những khoản thịệt hại không lường trước. Những chứng khoán nào có khả năng
xuất hiện các khoản lỗ lớn được xem như là có rủi ro lớn hơn những chứng
khoán có khả năng xuất hiện khoản lỗ thấp hơn. Nói cách khác rủi ro thể hiện sự

biến đổi không chắc chắn của các tỷ suất lợi nhuận liên quan đến một chứng
khoán hay một tài sản nào đó. Rủi ro danh mục được thể hiện bằng độ biến
động của danh mục đó, thể hiện sự biến động trong tương lai kết quả thu được
của việc đầu tư.
Lợi suất của một tài sản hay của một danh mục thể hiện phần trăm thay
đổi giá trị của tài sản (danh mục) tại thời điểm xem xét với giá trị của tài sản
(danh mục) bán đầu. Lợi suất của tài sản (danh mục) thế hiện đầy đủ các thông
tin và đặc điểm của tài sản (danh mục) và lợi suất của tài sản thì không phụ
thuộc và quy mô của việc đầu tư.
Một danh mục đầu tư là sự kết hợp các vị thế của các tài sản tài chính với
nhau. Điều đó thể hiện một nguyên tắc trong đầu tư tài chình là “ không bỏ tất
cả trứng vào cùng một giỏ”. Sự đa dạng hoá đầu tư sẽ giảm thiểu rủi ro danh
mục bằng cách kết hợp đầu tư nhiều lơại chứng khoán mà các chứng khoán này
có giá hoặc lợi suất biến động không cùng chiều với nhau.
Như vậy rủi ro có thể loại trừ được bằng cách đa dạng hoá danh mục đầu
tư. Mỗi tài sản tài chính đều tiềm ẩn hai loại rủi ro: rủi ro hệ thống và rủi ro phi
hệ thống.
- Rủi ro hệ thống là loại rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các tài
sản trên thị trường. Vì thế người ta gọi nó là rủi ro thị trường. Một số nguyên
nhân có thể dẫn đến rủi ro phi hệ thống như là thay đổi trong lãi suất, thay đổi
trong sức mua, thay đổi trong kì vọng của nhà đầu tư về triển vọng của nền kinh
tế...
- Rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một
nhóm nhỏ các tài sản, nghĩa là loại rủi ro này chỉ liên quan đến từng doanh
nghiệp cụ thể. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro phi hệ thống này như
năng lực và quyết định quản trị, đình công, nguồn cung ứng nguyên vật liệu,
những tác động về cạnh tranh của nước ngoài, mức độ sử dụng đón bẩy tài
chính và đón bẩy kinh doanh...
Tổng rủi ro = Rủi ro hệ thống + Rủi ro phi hệ thống
Sự kết hợp giữa những tài sản rủi ro này sẽ tạo nên rủi ro cho danh mục.

Rủi ro phi hệ thống có thể loại trừ được bằng các đa dạng hoá, còn rủi ro thị
trường thì không thể loại bỏ được. Điều đó thể hiện qua đồ thị sau:
Rủi ro hệ thống
Rủi ro phi hệ thống
σ
N
Thực tế chứng minh khi tăng số lượng chứng khoán trong một danh mục
thì rủi ro của danh mục giảm xuống, nhưng việc giảm này chỉ đạt đến một điểm
nhất định chứ không thể giảm mãi được. Như vậy danh mục khi tăng số tài sản
lên thì nó đã giảm thiểu rủi ro phi hệ thống, còn rủi ro hệ thống là rủi ro do thị
trường tác động không thể giảm thiểu được.
Tớm lại: Một danh mục đầu tư chính là quá trình đa dạng hoá đầu tư nhằm
giảm thiểu rủi ro để đạt mức lợi suất kì vọng lớn nhất. Một danh mục gọi là đa
dạng hoá toàn phần khi triệt tiêu được toàn bộ rủi ro phi hệ thống.
3. Một số mô hình lí thuyết áp dụng trong phân tích danh mục đầu tư
Theo nguyên lí đa dạng hóa: Rủi ro càng lớn thì lợi suất kì vọng càng cao.
Sau đây là một số mô hình lí thuyết thể hiện mối tương quan này, và được áp
dụng trong quá trình thành lập một danh mục đầu tư.
3.1. Mô hình Markowitz
Đa dạng hoá danh mục đầu tư có thể làm giảm thiểu rủi ro phi hệ thống.
Harry Markowitz đã chỉ ra một cách chính xác bằng cách lựa chọn những cổ
phần không di chuyển cùng chiều với nhau thì nhà đầu tư có thể làm giảm độ
lệch chuẩn tỷ suất lợi nhuận sinh lời như thế nào. Trong đầu tư tài chính, nhà
đầu tư luôn hướng đến lợi ích cao nhất. Markowitz đã đưa ra mô hình phân tích
ảnh hưởng của các yếu tố thị trường các tài sản tài chính và cho phép giải bài
toán trong trường đầu tư các tài phẩm trong một cặp đầu tư (portfolio). Mô hình
xem xét quan hệ giữa lợi tức tối ưu trung bình và độ rủi ro được đo bằng
phương sai của lợi tức vì vậy có thể gọi mô hình này là mô hình mean-variance.
Giả thiết
Giả thiết nhà đầu tư là e ngại rủi ro.

Giả sử danh mục P có với
n
1
W'U=1
w
i
i=
=

,
w
i
là tỉ trọng của tài sản thứ i.
1
1
....
1
u
 
 
 
=
 
 
 
Với
n
1
1
w

i
i=
=

.
Trong danh mục không có bán khống tức là
w
i
>0.
Lợi suất của tài sản i:
2
( , )
i i
i
N
r r
σ
:
với
1,i N∀ =
Hiệp phương sai của tài lợi suất tài sản i, j là
ij
( , )
i j
Cov
r r
σ
=
với
, 1,i j N

∀ =
Kí hiệu: ma trận hiệp phương sai lợi suất của N tài sản là
1,
1,
ij
i N
j N
V
σ
=
=
=
 
 
Với
2
i
σ
là phương sai của lợi suất tài sản i
Do V là ma trận đối xứng không âm nên tồn tại ma trận nghịch đảo
1
V


ma trận đối xứng và xác định dương.
Lợi suất của danh mục
p
r
=
N

i
i
i I
w r


=W’
R
Phương sai của danh mục
2
N N
p i j ij
i j
w w
σ σ
=
∑∑
=W’VW
( với
R
, W là các véc tơ cột)
Trường hợp 1: Danh mục chỉ gồm những tài sản phi rủi ro
Mô hình : Tìm W sao cho
2
p
σ
Min
Min(W’VW)
điều kiện:
p

r
=
N
i
i
i I
w r


=W’
R

n
1
W'U=1
w
i
i=
=

Thực chất của bài toán là với một mức lợi suất trung bình xác định trước,
tìm danh mục có rủi ro là nhỏ nhất. Danh mục này gọi là danh mục biên duyên.
Tập các danh mục biên duyên sẽ cho ta một đường biên hiệu quả.
Lời giải
Tìm cực tiểu hàm L(w,
1
,
2
)= W'VW +2
1

(
p
r
-W'
R
) + 2
2
(1-W'U)
Điều kiện cần:
2VW - 2
1
R
- 2
2
U =0 (1)
W'
R
=
p
r
(2)
W'U=1 (3)
Điều kiện đủ
Ma trận Hessian border: H
b
=
'R
R






0 0
0 0 U'
U 2V
Dễ dàng kiểm tra điều kiện đủ luôn thoả mãn đối với mọi nghiệm nhận đợc
từ điều kiện cần (tính chất của V).
Vì V xác định không âm nên tồn tại V
-1
.
từ (1) ta có: W =V
-1

1
R
+ V
-1

2
U (4)
Thay vào (2) và (3) ta có:
1
R
' V
-1
R
+
2
R

'V
-1
U =
p
r
.

1
R
' V
-1
U +
2
U' V
-1
U =1
Đặt : c=
R
' V
-1
R
; b=
R
'V
-1
U; a =U' V
-1
U
Ta có:
1

2
p
a b
ac b
r


=

;
2
2
p
c b
ac b
r


=

(5)
Thay nghiệm của (5) vào (4) ta có:W =V
-1
2
p
a b
ac b
r



R
+ V
-1
2
p
c b
ac b
r


U
Nhóm lại theo
p
r
ta có: W =
1 1
2 2
( ) ( )
p
V aR bU V cU bR
ac b ac b
r


+

(6)
Mi quan h gia li sut kỡ vng ca danh mc vi phng sai danh mc

×