Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.35 KB, 91 trang )

Khoá luận tốt nghiệp 1
PHẦN MỞ ĐẦU

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nền kinh tế Việt Nam đang khởi
sắc, vững bước đi lên sánh vai cùng các nước, cùng hoà vào xu thế hội nhập
chung của thế giới. Hơn 20 năm mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế đất
nước tuy là quãng đường không dài nhưng nó đánh dấu bước ngoặt trọng đại,
những biến chuyển, đổi thay sắc nét. Mục tiêu phát triển kinh tế của chúng ta là
tốc độ cao và ổn định. Để làm được điều này cần phải có một lượng vốn tương
đối lớn đảm bảo cho quá trình trên được thực hiện một cách thông suốt, chính
vì lẽ đó mà thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan. Xây
dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu đã được Đảng và chính
phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 - thế kỷ 20 nhằm huy
động một kênh dẫn vốn mới cho đầu tư và phát triển, tạo ra một bước phát triển
mới cho thị trường tài chính Việt Nam nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói
riêng.
Việc khai trương đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh đi vào hoạt động (từ tháng 7/2000) và Trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội (tháng 3 năm 2005) đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình
cải cách kinh tế ở Việt Nam, khẳng định quyết tâm phát triển kinh tế thị trường
của Đảng và Chính phủ trong tiến trình đổi mới. Sau 7 năm đưa thị trường
chứng khoán Việt Nam vào hoạt động, với mục tiêu ban đầu là đưa vào vận
hành một trung tâm chứng khoán tập trung với qui mô thích hợp, phát triển từ
thấp đến cao và không gây mất ổn định kinh tế xã hội, thị trường chứng khoán
Việt Nam đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình.
Khoá luận tốt nghiệp 2
Trong quản trị tài chính hiện đại, nghiệp vụ quản lý rủi ro giữ một vị trí
trung tâm, nó là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động đầu tư tại các tổ chức
tài chính. Tuy vậy, lĩnh vực này chỉ mới thực sự phát triển từ thập kỷ 90 trở lại
đây nhờ sự phát triển vượt bậc của công nghệ - kỹ thuật, đặc biệt là sự xuất
hiện của các công cụ tính toán với tốc độ cao đã cho phép giải quyết các bài


toán đầu tư và tính toán rủi ro phức tạp. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, cơ hội
đầu tư được mở rộng song rủi ro và thách thức đi kèm cũng không nhỏ. Đã có
không ít vụ đổ bể tài chính của các ngân hàng, các tập đoàn kinh tế lớn diễn ra
tại nhiều quốc gia trên thế giới từ các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ,
Nhật, Anh, Đức… đến các nước đang phát triển như Thái Lan, Malaysia, Hàn
quốc. Thực trạng này đã khiến các nhà hoạch định chính sách quốc gia và các
tổ chức tài chính quan tâm đặc biệt đến quản lý rủi ro. Trong quản lý rủi ro tài
chính hiện đại nếu chỉ đơn thuần dựa vào các chính sách định tính thì chưa đủ
mà quan trọng hơn là phải hình thành và phát triển một hệ thống các phương
pháp khoa học nhằm lượng hoá mức độ rủi ro và tổn thất tài chính có thể xảy ra
trong những điều kiện nhất định của thị trường và của nền kinh tế để từ đó đưa
ra các giải pháp quản lý rủi ro hữu hiệu.
Lý thuyết và thực tiễn của nghiệp vụ quản lý rủi ro đã được đúc kết qua
nhiều năm phát triển của thị trường chứng khoán tại nhiều nước. Việc nghiên
cứu, khai thác những kiến thức này nhằm áp dụng có chọn lọc vào thị trường
chứng khoán non trẻ của Việt Nam sẽ bước đầu giúp ích cho việc đẩy mạnh
phát triển loại nghiệp vụ này, góp phần vào sự phát triển một thị trường chứng
khoán Việt Nam ổn định và hiệu quả. Đó cũng là lý do để tôi lựa chọn đề tài:
“Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị
trường chứng khoán Việt Nam”.
Khoá luận tốt nghiệp 3
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận này gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán và nghiệp vụ quản lý
rủi ro.
Chương này giới thiệu những nội dung cơ bản nhất liên quan đến thị
trường chứng khoán và nghiệp vụ quản lý rủi ro, những khái quát chung về tình
hình thị trường chứng khoán Việt Nam và một số động thái của chỉ số Vn-
Index thời gian qua.
Chương 2: Một số mô hình toán và chỉ báo kỹ thuật ứng dụng trong
nghiệp vụ quản lý rủi ro cho thị trường chứng khoán.

Nội dung chương này đưa ra một số dạng của mô hình Garch và các chỉ
báo kỹ thuật giúp cho nhà quản lý, người đầu tư có được những công cụ để
nhận định chính xác hơn mức độ rủi ro của thị trường.
Chương 3: Áp dụng mô hình phân tích rủi ro vào thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Chương 2 đã trình bày các công cụ toán về mặt lý thuyết còn trong
chương này sẽ tập trung vào ứng dụng các công cụ đó cho thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Khoá luận tốt nghiệp 4
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VÀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ RỦI RO
1.1 VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.1 Những lý luận chung
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài
chính là một tất yếu khách quan. Thông qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài
chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong
nền kinh tế, trên cơ sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh
tế. Thị trường tài chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả những người có vốn
và những người cần vốn. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động,
hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp, ảnh
hưởng tới hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền
kinh tế.
Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng
khoán (TTCK) được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua
bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ
thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn
định trước.
Hình thức sơ khai của thị trường này đã xuất hiện cách đây hàng trăm
năm. Vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước
phương Tây, trong các chợ phiên hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại

các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt
động này là các thương gia chỉ trao đổi với nhau bằng lời nói về các hợp đồng
Khoá luận tốt nghiệp 5
mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá hay giấy tờ nào. Đến
cuối thế kỷ 15, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên
với những quy ước xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này
dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Sở giao dịch chứng khoán đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1531
tại thành phố Anvers (thuộc nước Bỉ). Toà nhà của Sở giao dịch Anvers có ghi
dòng chữ rất ấn tượng “Phục vụ khách hàng thuộc mọi dân tộc và tiếng nói
khác nhau”. Có thể coi đó là lời tuyên ngôn đầu tiên của sự ra đời và phát triển
của TTCK trên thế giới với nội dung hàm chứa như sau: mọi người đều có thể
tham gia vào TTCK với những cách thức, toan tính khác nhau và thị trường này
hoạt động không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà có tính chất quốc tế.
Từ thời điểm lịch sử đó, TTCK lần lượt được thiết lập ở các nước Châu
Âu như: Hà Lan, Anh, Đức, Pháp và mãi đến thế kỷ 19 thị trường chứng khoán
mới ra đời ở Mỹ với sự khai trương của Sở giao dịch chứng khoán NewYork (Sở
giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới hiện nay với chỉ số Dow – Jone nổi
tiếng). Đến nay, TTCK đã được thiết lập ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị
trường và có thể nói sự phát triển của TTCK gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường. Không có một nước nào có nền kinh tế phát triển mà không có
sự hoạt động của TTCK. Thị trường này được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu
tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển
kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Ngày nay, vai trò của thị trường này ngày càng
thể hiện rõ nét trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán,
tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay, đó là:
Khoá luận tốt nghiệp 6
“Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi

các loại chứng khoán”.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá và có khả năng chuyển
nhượng hay bút toán ghi sổ, xác định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư). Nó cho phép
chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc
quyền sở hữu trong một thời hạn nào đó. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau
giữa các loại chứng khoán và tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch
mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary
Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock
Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over – The Counter
Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future
Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng
khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển
từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hóa thông
thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc
biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử
dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể
hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng
khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường
chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng
hoá.
Các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán cũng rất đa dạng như: cổ
phiếu, trái phiếu (trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ), các loại chứng
khoán phái sinh.
Khoá luận tốt nghiệp 7
- Cổ phiếu:
Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng
chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài
sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn
thanh toán là vô hạn.

Với tư cách là người sở hữu một phần công ty, cổ đông được hưởng các
quyền đối với công ty với mức độ tương ứng tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ, đồng thời
khi công ty làm ăn thất bại cổ đông cũng phải gánh chịu thiệt hại với một tỷ lệ
tương ứng. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên
thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật.
Cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến nhất cho các nhà đầu tư, tổ
chức trên thế giới. Tuy nhiên do biến động cao về thu nhập và giá nên rủi ro của
đầu tư cổ phiếu cũng cao.
Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có
hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Cổ phiếu thường (hay cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu thông thường):
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, thu nhập do
việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức (hay lợi tức cổ phần). Cổ tức biến
động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận và chính sách phân phối lợi nhuận của
công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, không chỉ
phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như: môi trường
kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo quy luật cung cầu.
Khi công ty bị phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản, cổ đông nắm
giữ cổ phiếu thường chỉ được nhận những gì còn lại sau khi công ty trang trải
Khoá luận tốt nghiệp 8
xong tất cả các nghĩa vụ như thuế, nợ và cổ phiếu ưu đãi. Tuy nhiên, cổ phiếu
thường được hưởng quyền mua cổ phiếu mới và quyền bỏ phiếu.
Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: Thanh khoản cao,
tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro bao gồm: biến động giá, không ổn
định về thu nhập cổ tức, rủi ro phá sản và rủi ro kinh tế khác, các rủi ro ngoại hối
và thanh toán khác nếu cổ phiếu là bằng ngoại tệ.
+ Cổ phiếu ưu đãi: Cổ phiếu ưu đãi được phân thành cổ phiếu ưu đãi
biểu quyết và cổ phiếu ưu đãi tài chính.
Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết là các cổ phiếu dành cho các cổ đông sáng
lập, tuỳ theo công ty có thể quy định 1 cổ phiếu ưu đãi biểu quyết có quyền biểu

quyết bằng bao nhiêu lần một cổ phiếu thường trong Đại hội cổ đông hay quyết
định những vấn đề quan trọng của công ty. Tuy nhiên cổ đông có cổ phiếu ưu đãi
biểu quyết phải nắm giữ cổ phiếu này trong một thời gian nhất định, không được
chuyển nhượng, trao đổi.
Cổ phiếu ưu đãi tài chính tương tự như cổ phiếu thường nhưng có một số
hạn chế như cổ đông sở hữu cổ phiếu này không được tham gia bầu cử, ứng cử
vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty. Nhưng bù lại, họ được hưởng
ưu đãi về tài chính theo một mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm,
được ưu tiên chia cổ tức và được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty sau
khi thanh lý, giải thể trước cổ phiếu thường.
Thị giá của cổ phiếu ưu đãi phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu
kho bạc và tình hình tài chính của công ty.
Việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ tức mà
quan trọng hơn chính là chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường (lãi vốn). Khi cổ
Khoá luận tốt nghiệp 9
phiếu của công ty được nhiều người mua chứng tỏ thị trường tin tưởng vào hiện
tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và ngược lại.
- Trái phiếu:
Trái phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
phải trả cho người nắm giữ chứng khoán đó một khoản tiền xác định, vào những
thời hạn cụ thể và theo những điều kiện nhất định. Trái phiếu là chứng khoán nợ,
người mua trái phiếu là trái chủ, là chủ nợ của các tổ chức phát hành, có quyền
đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có
quyền tham gia vào hoạt động của tổ chức phát hành. Trái phiếu có thể phát
hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ.
Trái phiếu bao gồm trái phiếu công ty và các loại chứng khoán Chính
phủ.
- Các loại chứng khoán phái sinh (derivatives):
Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng
khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái

sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán. Nó phát
triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. Có thể phân
loại chứng khoán phái sinh thành các loại như sau: Quyền mua trước, chứng khế,
hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn…
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện
kinh tế - chính trị, xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ
sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán
trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập TTCK với những đặc thù riêng
biệt. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh (HoSTC) ngày
Khoá luận tốt nghiệp 10
20/07/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Năm
năm sau đó sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HaSTC) cũng đi vào hoạt động
đánh dấu bước phát triển mới của TTCK Việt Nam.
1.1.2 Lý thuyết thị trường hiệu quả
Khi nói đến thị trường chứng khoán chúng ta không thế không nhắc đến
Lý thuyết thị trường hiệu quả bởi đây là lý thuyết cốt lõi của thị trường này. Giả
thiết giá chứng khoán phản ánh các triển vọng của công ty thì những biến động
có chu kỳ của nền kinh tế sẽ có thể được thể hiện trong các biến động của giá cả
chứng khoán đó. Nhận định này đã được Maurice Kendall kiểm tra trong năm
1953. Ông đã phát hiện một điều ngạc nhiên là không thể dự đoán được biến
động của giá chứng khoán. Giá cả thay đổi ngẫu nhiên, giá cả có thể lên xuống
bất kỳ trong bất kỳ ngày giao dịch nào. Sau nhiều tranh cãi về sự diễn giải kết
quả nghiên cứu này trên thị trường chứng khoán, người ta thấy rằng sự biến động
ngẫu nhiên của giá chứng khoán chính là bằng chứng của một thị trường hoạt
động tốt, hiệu quả, chứ không phải là hiện tượng bất thường của chứng khoán.
Giá chứng khoán biến động dựa vào các thông tin mới (không dự đoán
được) cũng biến động theo chiều hướng không dự đoán được. Đây chính là cốt
lõi của lập luận rằng giá chứng khoán là một chuỗi ngẫu nhiên không thể dự
đoán trước. Nếu giá chứng khoán có thể được dự đoán, đó là bằng chứng của

một thị trường không hiệu quả, vì khả năng dự đoán cho thấy rằng không phải tất
cả các thông tin trên thị trường đã được phản ánh trong giá chứng khoán. Trên
cơ sở này, nhận định giá chứng khoán đã phản ánh toàn bộ thông tin trên thị
trường gọi là Giả thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis –
EMH).
Khoá luận tốt nghiệp 11
Thông thường, dựa trên sự khác nhau của khái niệm “tất cả thông tin”
trên thị trường được phản ánh vào giá chứng khoán, người ta phân ra ba cấp độ
của EMH.
EMH cấp thấp: giả định giá cả chứng khoán đã phản ánh các thông tin
có thể thu thập thông qua nghiên cứu số liệu giao dịch như biến động giá, khối
lượng, lãi suất trong quá khứ. EMH cấp độ này cho thấy việc phân tích xu hướng
là không có giá trị gì. Số liệu chứng khoán trong quá khứ được công bố rộng rãi
và không mất tiền mua. Nếu những số liệu này có thể đưa ra các dấu hiệu tin cậy
về xu thế giá chứng khoán trong tương lai thì tất cả các nhà đầu tư đã sử dụng
dấu hiệu này. Cuối cùng, các dấu hiệu này sẽ mất giá trị vì chúng đã được phổ
biến trên toàn thị trường.
EMH cấp trung: tất cả các thông tin công khai trên thị trường liên quan
đến triển vọng của một công ty luôn được phản ánh trong giá chứng khoán.
Những thông tin này bao gồm: các thông tin trong quá khứ, các số liệu cơ bản
của dây chuyền sản xuất của công ty, chất lượng quản lý, cơ cấu bảng tổng kết
tài sản, các bằng sở hữu sáng chế, dự đoán thu nhập và các phương thức kế toán.
Nếu nhà đầu tư có thể có các thông tin này từ nguồn công cộng thì thông tin đó
đã được phản ánh trong giá chứng khoán.
EMH cấp cao: Giá chứng khoán của công ty luôn phản ánh mọi thông
tin liên quan đến công ty, thậm chí ngay cả các thông tin chỉ có người nội bộ
công ty được biết. Cấp độ này của EMH tương đối cực đoan. Nhiều học giả cho
rằng các quan chức của công ty được tiếp cận các thông tin quan trọng, có đủ
thời gian để kiếm lời từ việc mua bán theo các thông tin đó. Những người nội bộ
công ty, họ hàng, người thân hay bạn bè của họ nếu giao dịch dựa trên các thông

tin nội bộ đều bị coi là vi phạm pháp luật.
Khoá luận tốt nghiệp 12
Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động được
gần 7 năm, Đảng và Chính Phủ ta đang tích cực xây dựng một thị trường chứng
khoán trong sạch và lành mạnh. Tuy nhiên thị trường của chúng ta vẫn còn đang
trong quá trình hoàn thiện nên hiện chỉ được đánh giá là thị trường hiệu quả cấp
thấp tức là tất cả những thông tin trong quá khứ đều được phản ánh vào giá
chứng khoán.
1.1.3 Động thái chỉ số giá Vn – Index
Mỗi một thị trường đều có một chỉ số chung đại diện, ở Việt Nam chỉ số
đó là chỉ số thị trường Vn-Index. Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét 9 giai
đoạn phát triển chính của thị trường chứng khoán Việt Nam trong gần 7 năm
thông qua những biến động của chỉ số giá chứng khoán chung.
Đồ thị 1.1: Chỉ số Vn-Index gần 7 năm hoạt động
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1 117 233 349 465 581 697 813 929 1045 1161 1277 1393 1509
(Nguồn: TTGDCK Tp.HCM)
Khoá luận tốt nghiệp 13
1.1.3.1 Giai đoạn 1: Thời kỳ từ 28/07/2000 đến 25/06/2001 (từ 100 điểm
lên 571.04 điểm)
Đồ thị 1.2: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 1

0

100
200
300
400
500
600
1 13 25 37 49 61 73 85 97 109 121 133
(Nguồn TTGDCK Tp.HCM)
Đây là giai đoạn đầu của quá trình phát triển thị trường chứng khoán ở
Việt Nam. Trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/07/2000 chỉ có 2 loại cổ phiếu
giao dịch là REE (công ty cổ phần cơ điện lạnh) và SAM (công ty cổ phần Cáp
và Vật liệu viễn thông). Đến phiên giao dịch thứ 4, có thêm 3 loại cổ phiếu mới
được niêm yết là công ty cổ phần giấy Hải Phòng – HAPACO (HAP), (công ty
cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương Sài Gòn – Transimex (TMS) và công ty
cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (LAF).
Trong giai đoạn này có một số đặc điểm chính sau:
- Biên độ dao động giá được điều chỉnh: Ở phiên thứ nhất là 5%, đến
phiên thứ 2 được điều chỉnh còn 2%, và đến ngày 13/06/2001 lại là
7%
- Lượng hàng hoá trên thị trường Niêm yết còn quá ít.
Khoá luận tốt nghiệp 14
- Nhà đầu tư trên thị trường chưa có những hiểu biết đầy đủ, đúng đắn
về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Thông tin của các công ty niêm yết nói riêng và của thị trường chứng
khoán nói chung còn thiếu tính minh bạch, chính xác và kịp thời.
- Ngày 02/04/2001 (phiên giao dịch thứ 102) giới đầu tư nước ngoài
chính thức gia nhập TTCK Việt Nam.
Việc Ủy ban chứng khoán Nhà nước liên tục điều chỉnh biên độ dao
động giá (2 lần trong vòng chưa đầy 1 năm) đã có những tác động rất khác nhau
đến xu hướng biến động của thị trường. Lần đầu tiên từ 5% xuống còn 2%. Với

biên độ nhỏ như vậy, nhà đầu tư biết chắc rằng mình sẽ không bị lỗ tối đa 2%
lại cộng với lượng hàng hoá ít ỏi trên thị trường đã làm cho giá liên tục tăng trần.
Chỉ số giá Vn-Index tăng liên tục và đạt 145.83 điểm tại phiên giao dịch ngày
04/11/2000. Đến 13/06/2001, lần điều chỉnh biên độ dao động giá thứ 2 từ 2%
lên 7%. Đây là lần mở rộng biên độ dao động giá đầu tiên trong lịch sử chứng
khoán Việt Nam, việc mở rộng biên độ lần này dựa trên tình hình thực tế của thị
trường. Khi biên độ mở rộng, các nhà đầu tư sẽ phải thận trọng và cân nhắc kỹ
hơn đến mức giá khi ra quyết định đầu tư. Điều này có ảnh hưởng mạnh tới diễn
biến giao dịch trên TTCK.
Trong giai đoạn này TTCK Việt Nam chỉ có vỏn vẹn 5 cổ phiếu, điều
này cho thấy mất cân bằng về cung – cầu một cách nghiêm trọng. Minh chứng rõ
ràng nhất là các phiên giao dịch “khối lượng chào bán với giá thấp nhất nhỏ hơn
rất nhiều so với khối lượng chào mua với giá cao nhất”. Các nhà đầu tư phải
tranh nhau mới có thể mua được chứng khoán. Thời kỳ này ai có tiền đầu tư vào
chứng khoán thì chắc chắn có lãi.
Khoá luận tốt nghiệp 15
Tuy nhiên, đầu tư trên TTCK lúc này hầu hết dựa vào tin đồn. Các giao
dịch diễn ra chủ yếu theo “hiệu ứng đám đông” hay còn gọi là “hiệu ứng bầy
cừu”. Những thông tin trên thị trường còn thiếu tính minh bạch, trung thực và
kịp thời. Các nhà đầu tư còn ít hiểu biết về thị trường do đó những thông tin về
lợi nhuận, chi phí, chiến lược phát triển của công ty trong tương lai, các chỉ số
tài chính như: EPS, P/E … ít được quan tâm.
Ngày 2/4/2001 ghi nhận một sự kiện đặc biệt đó là một nhà đầu tư nước
ngoài mang quốc tịch Anh đã mua được 100 cổ phiếu TMS với giá 65.000đ/cp
thông qua công ty chứng khoán ngân hàng Á Châu. Dù ít ỏi nhưng đã chứng tỏ
TTCK Việt Nam bắt đầu thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước
ngoài.
1.1.3.2 Giai đoạn 2: Thời kỳ từ 25/06/2001 đến 11/03/2002 (từ 571.04
đến 180.73)
Đồ thị 1.3: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 2


0
100
200
300
400
500
600
1 10 19 28 37 46 55 64 73 82 91 100
(Nguồn: TTGDCK Tp.HCM)
Khoá luận tốt nghiệp 16
Ngày 25/06/2001 đánh dấu mức kỷ lục của chỉ số Vn-Index từ khi thị
trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Sau đó là sự xuống dốc không phanh của
chỉ số giá Vn-Index ở giai đoạn tiếp theo.
Sự sụt giảm giá mạnh này có thể do các nguyên nhân sau:
- Sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của UBCKNN, Ủy ban có
thông báo “mỗi nhà đầu tư được mua tối đa 10.000 cổ phiếu/phiên”,
trên mỗi cổ phiếu nhà đầu tư chỉ được đặt một lệnh mua với số lượng
tối đa là 2.000 đơn vị.
- Thông tin về việc nhà đầu tư mua chứng khoán thì phải nắm giữ
chứng khoán đó trong vòng ít nhất 6 tháng mới được phép bán.
- Thị trường vàng, bất động sản, ngoại hối tăng giá đã thu hút đầu tư
vào lĩnh vực này trong khi TTCK kém hấp dẫn hơn.
- Ủy ban chứng khoán Nhà nước quyết định điều chỉnh biên độ dao
động giá từ 7% về 2%(ngày 10/10/2001)
- Nhà đầu tư chưa có hiểu biết sâu về chứng khoán và TTCK.
Sau khi UBCKNN không thành công trong việc “xì hơi quả bóng giá
chứng khoán” bằng công cụ biên độ dao động giá (từ 2% lên 7%) có lẽ công cụ
khống chế lượng mua cổ phiếu là phương thức “làm dịu” cơn sốt cổ phiếu này.
Thông báo có hiệu lực từ ngày 22/06/2001.

Bên cạnh việc giới hạn số lượng được phép mua thì trên thị trường còn
có thông tin về việc phải nắm giữ chứng khoán ít nhất 6 tháng mới được phép
giao dịch. Điều này như một “gáo nước lạnh” dội vào một thị trường đang
“nóng”. Nó tác động rất lớn đến nhà đầu tư và tính thanh khoản của các cổ phiếu
trên thị trường. Lúc này, nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến lựa chọn loại cổ
Khoá luận tốt nghiệp 17
phiếu nào để đầu tư khi biên độ dao động giá là 7% mà còn phải cân nhắc đến
rủi ro nắm giữ cổ phiếu đó trong vòng 6 tháng.
Trước những thông tin trên, ngày 27/06/2001 cả 5 loại cổ phiếu giao dịch
tại sàn Tp.HCM đều giảm giá mạnh. Sự kiện này làm cho chỉ số Vn-Index lần
đầu tiên giảm tới mức 7% trong 1 phiên giao dịch. Lượng lệnh đặt bán được ghi
nhận cao gấp 10 lần lượng lệnh đặt mua chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụt
giảm giá một cách ồ ạt như trên.
Trong khi đó thị trường vàng, bất động sản, ngoại hối tăng giá thu hút
đầu tư. Thêm vào đó là sự hạn chế trong hiểu biết về chứng khoán và TTCK của
các nhà đầu tư, tâm lý hoang mang lo sợ bị mất vốn đã khiến cho các cổ phiếu
được chào bán ồ ạt. Chỉ số Vn-Index liên tục giảm qua các phiên. Đây là phản
ứng tất yếu của thị trường đối với những can thiệp trên của UBCKNN.
Đến ngày 5/10/2001 chỉ số giá Vn-Index là 203.12 điểm. Tại đây đã có
sự tăng giá trở lại của các cổ phiếu niêm yết, điều này làm cho chỉ số giá Vn-
Index có xu hướng đổi chiều. Sở dĩ có điều này do UBCKNN bắt đầu lo lắng về
tình trạng giá cổ phiếu liên tục chạm sàn sẽ ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư,
ảnh hưởng dây chuyền đến hoạt động bình thường của các công ty Niêm yết,
công ty chứng khoán. Ủy ban quyết định rút ngắn biên độ dao động giá về 2%
thay vì 7%. Ngoài ra trong nội dung sửa đổi Nghị định 48/CP, Uỷ ban Chứng
khoán nhà nước đã lấy ý kiến đóng góp của các bộ, ngành và các cơ quan liên
quan về việc cho phép cán bộ, công nhân viên của công ty chứng khoán được
phép tham gia mua bán chứng khoán. Các thông tin trên như một cú hích vào thị
trường “Bear Market” này.
Khoá luận tốt nghiệp 18

1.1.3.3 Giai đoạn 3: Thời kỳ từ 11/3/2002 đến 24/10/2003 (từ 180.73
điểm xuống 130.9 điểm)
Đồ thị 1.4: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 3

0
50
100
150
200
250
1 34 67 100 133 166 199 232 265 298 331 364 397
(Nguồn: TTGDCK Tp.HCM)
Sau một thời gian các cổ phiếu niêm yết liên tục rớt giá, thị trường tiếp
tục đi xuống và có phần trầm lắng. Trong giai đoạn này có các đặc điểm sau:
- Lãi suất tiền gửi của các ngân hàng tăng (trên 8,2%/năm). Thị trường
vàng, thị trường bất động sản ngày càng trở lên hấp dẫn.
- Đấu thầu hàng trăm tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, phát hành trái phiếu
Chính phủ ra thị trường quốc tế (500 triệu USD).
- Nhà đầu tư thiếu thông tin về các tổ chức niêm yết và thị trường, “tù
mù” về biên độ dao động giá.
- Kể từ ngày 20/5/2003, TTGDCK đã thực hiện giảm lô giao dịch từ
100 cổ phiếu xuống 10 cổ phiếu, áp dụng lệnh ATO, tăng số lần khớp
lệnh lên 2 lần/phiên và giảm tỷ lệ ký quỹ xuống 70%.
Khoá luận tốt nghiệp 19
- Bộ Tài chính vừa ra quy định, nhà đầu tư là cá nhân, tổ chức nước
ngoài bị đánh thuế chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam bằng 5% số
thu nhập từ TTCK Việt Nam.
Giai đoạn này của TTCK Việt Nam được giới phân tích gọi là “Thị
trường ngủ gật”. Thật vậy, sau một chuỗi các can thiệp của UBCKNN nhằm kìm
hãm giá chứng khoán thì dư âm của những tác động đó vẫn còn kéo dài đến thời

kỳ này.
Sự “chờ đợi và cầm chừng” bao trùm toàn bộ thị trường. Nhà đầu tư chờ
đợi sự điều chỉnh, sửa đổi của Nghị định 48/NĐ-CP đang ở khâu cuối cùng, chờ
đợi biên độ dao động giá sẽ là 5% hay vẫn giữ 2% như trước đây. Các nhà đầu tư
Việt Nam chờ đợi động thái từ những nhà đầu tư nước ngoài.
Trong khi TTCK đang “ngủ gật” thì các ngân hàng thương mại quốc
doanh cũng như cổ phần lại điều chỉnh tăng lãi suất nhằm thu hút các nguồn tiền
nhàn rỗi trong dân chúng. Sự biến động của thị trường vàng trong nước và trên
phạm vi quốc tế theo chiều hướng tăng nhanh và khá đều cũng tạo nên xu hướng
đầu tư mới. Thị trường bất động sản mặc dù đã có những biện pháp để “hạ sốt”
nhưng vẫn là môi trường đầu tư hấp dẫn đối với những nhà đầu tư có vốn lớn.
Đây là thời kỳ đen tối của TTCK Việt Nam, các cổ phiếu liên tục rớt giá,
nhiều cổ phiếu giảm đến 70% giá trị. Sau khi giảm giá thì các cổ phiếu bị “đóng
băng”, nhiều cổ phiếu không giao dịch trong nhiều phiên. Vào ngày 24/10/2003
(phiên 244) chỉ số giá Vn-Index tụt xuống chỉ còn 130.9 điểm.
Khoá luận tốt nghiệp 20
1.1.3.4 Giai đoạn 4: Thời kỳ 24/10/2003 đến 1/4/2004 (từ 130.9 điểm lên
279.71 điểm)
Đồ thị 1.5: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 4

0
50
100
150
200
250
300
1 11 21 31 41 51 61 71 81 91 101
(Nguồn: TTGDCK Tp.HCM)
Đây là giai đoạn TTCK Việt Nam có những thay đổi lớn cả về khung

pháp lý và tình hình giao dịch trên thị trường.
- Ban hành Nghị định 144/CP, sau một thời gian dài chờ đợi Thủ tướng
Chính phủ chính thức ban hành vào cuối tháng 11/2003. Nó được
xem là một bước tiến lớn nhằm tạo ra hành lang pháp lý an toàn,
thông thoáng và phù hợp với thực tiễn phát triển của thị trường.
- Biên độ dao động giá là 5%
- Cuối tháng 1/2004 Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển Ủy ban
chứng khoán nhà nước (SSC) về Bộ Tài chính.
- Công bố chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010
- Tình hình giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh, nhất là
sau khi có Quyết định 146 của Chính phủ cho phép nâng tỷ lệ nắm
Khoá luận tốt nghiệp 21
giữ của người nước ngoài tại một tổ chức niêm yết từ 20% lên 30%.
Đến nay, tất cả các cổ phiếu trên sàn đều có sự tham gia sở hữu của
các nhà đầu tư nước ngoài, với tỷ lệ nắm giữ cao nhất là 30% và thấp
nhất là 0,31%.
- Sự ra đời Công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tiên là Công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán VFM. Đây là liên doanh giữa Công ty
Dragon Capital (chiếm 30% vốn) và ngân hàng Sacombank (chiếm
70% vốn). Theo kế hoạch, trong đợt đầu VFM sẽ huy động tối thiểu
từ 100 tỷ lên 150 tỷ đồng để thành lập quỹ VietFund 1 (VF1). Tiền
mà các quỹ huy động được sẽ được đầu tư vào thị trường chứng
khoán tối đa 60%
- Hiệp hội kinh doanh chứng khoán (VASB) đã chính thức được thành
lập trong tháng 12/2003. Việc ra đời hiệp hội này được xem là cần
thiết trong bối cảnh lúc đó, giúp tạo thêm cầu nối cho các công ty
chứng khoán cũng như các doanh nghiệp có được tiếng nói chung, tạo
thêm sức mạnh cho hoạt động kinh doanh chứng khoán và niềm tin
cho công chúng đầu tư.
- Tổ chức tuần lễ chứng khoán, đây được xem là sự kiện có quy mô tổ

chức lớn nhất và dài ngày nhất kể từ khi TTCK mở cửa và đi vào vận
hành, đồng thời cũng là nỗ lực kích cầu của cơ quan quản lý.
Có thể nói, đây là thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ của TTCK sau giai đoạn
“ngủ gật” trước đó. Với hàng loạt các biện pháp của Chính phủ, của Bộ Tài
chính, của Ủy ban chứng khoán nhà nước đã giúp các nhà đầu tư có niềm tin vào
TTCK Việt Nam. Thêm vào đó là sự làm ăn có hiệu quả của các công ty niêm
yết, chỉ số P/E của thị trường chứng khoán còn thấp so với các TTCK trong khu
Khoá luận tốt nghiệp 22
vực và trên thế giới. Sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt
Nam của Nhà nước (nới lỏng quyền sở hữu từ 20% lên 30% và được quyền đầu
tư vào tất cả 22 cổ phiếu đang niêm yết) đã đem lại bộ mặt hoàn toàn mới cho
TTCK Việt Nam trong giai đoạn này.
1.1.3.5 Giai đoạn 5: Thời kỳ từ 1/4/2004 đến 26/8/2005 (từ 279.71 điểm
xuống 249.74 điểm)
Đồ thị 1.6: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 5

0
50
100
150
200
250
300
1 31 61 91 121 151 181 211 241 271 301 331
(Nguồn: TTGDCK Tp.HCM)
Nhìn chung thời kỳ này TTCK không có những đột biến, mọi hoạt động
đều diễn ra cầm chừng. Ở giai đoạn này có một vài đặc điểm đáng chú ý:
- Lãi suất huy động trái phiếu Chính phủ hấp dẫn người dân.
- Lãi suất ngân hàng xấp xỉ 8,4% trong khi cổ tức trả trung bình của các
công ty niêm yết là 5-6%.

- Thị trường chứng khoán đang bị thao túng bởi bàn tay của các nhà
đầu cơ cổ phiếu. Họ là những nhà đầu tư lớn, có kinh nghiệm và khả
năng tài chính dồi dào nên dễ dàng giữ giá để mua vào.
Khoá luận tốt nghiệp 23
- Thị trường chứng khoán vẫn chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu
tư nước ngoài. Ủy ban chứng khoán nhà nước và Bộ Tài chính chưa
muốn mở rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài.
Đến giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài đã mua hết tỷ lệ 30%
của mình. Việc nới rộng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài
không những thu hút được thêm luồng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt
Nam, mà còn tác động tích cực đến thái độ của nhà đầu tư trong nước
đến TTCK.
- Cổ phiếu các công ty cổ phần chưa tham gia niêm yết trên sàn giàu
tiềm năng hấp dẫn các nhà đầu tư như Vinamilk, Bảo Minh…
- Giá xăng dầu thế giới tiếp tục tăng cao, ngành xăng dầu trong nước
cũng đã có những điều chỉnh nhất định. Điều này tác động không nhỏ
đến chi phí sản xuất kinh doanh của các công ty hoạt động trong các
lĩnh vực liên quan đến xăng dầu.
- Hàng hoá trên thị trường còn hạn chế và kém chất lượng. Các công ty
cổ phần còn e dè trong việc quyết định niêm yết cổ phiếu trên sàn
giao dịch.
- Thông tin về hoạt động của các công ty niêm yết còn chưa minh bạch,
chưa đầy đủ. Còn nhiều công ty báo cáo chậm và bưng bít thông tin.
Các thông tin đến với nhà đầu tư chủ yếu là tin đồn, thiếu tính chính
xác.
Khoá luận tốt nghiệp 24
1.1.3.6 Giai đoạn 6: Thời kỳ từ 26/8/2005 đến 25/4/2006 (từ 249.74 điểm
lên 632.69 điểm)
Đồ thị 1.7: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 6


0
100
200
300
400
500
600
700
1 15 29 43 57 71 85 99 113 127 141 155
(Nguồn: TTGDCK Tp.HCM)
Bước sang thời kỳ mới, TTCK Việt Nam từ một thị trường trầm lắng đã
có những chuyển biến tích cực và lập được kỷ lục mới đáng ghi nhận. Trong giai
đoạn này có những diến biến chính sau:
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2005 của các công ty
niêm yết thực sự thuyết phục giới đầu tư.
- Sau hơn một năm chờ đợi cuối cùng ngày 29/9/2005 Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định 238/2005/QĐ-TTg cho phép nhà đầu tư
nước ngoài được nâng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu niêm yết/đăng ký giao
dịch và chứng chỉ quỹ từ 30% lên 49%. Thông tin này đã kích thích
các nhà đầu tư trên thị trường.
Khoá luận tốt nghiệp 25
- Một loạt các doanh nghiệp lớn chào bán chứng khoán ra công chúng.
Đáng kể là cuộc chào bán cổ phần của các doanh nghiệp ngành điện
(Vĩnh Sơn – Sông Hinh, Nhiệt điện Phả Lại, Thuỷ điện Thác Bà…),
doanh nghiệp ngành dầu khí, viễn thông….bất ngờ là hầu hết lượng
chào bán đều được người mua đón nhận.
- Ngày 19/1/2006 Công ty cổ phần sữa Việt Nam chính thức tham gia
giao dịch trên TTCK Việt Nam. Đây là một công ty có tổng số vốn
lên đến 1.590 tỷ đồng. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ, cổ phiếu
VNM được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Với

tỷ trọng gần bằng nửa TTCK Việt Nam, cổ phiếu VNM có tầm ảnh
hưởng lớn gần như quyết định đến xu thế của thị trường. Thật không
quá khi nói rằng VNM đang “bơm sữa vào TTCK Việt Nam”. Từ khi
giao dịch lần đầu ngày 19/1/2006 giá cổ phiếu VNM là 53.000đ/cổ
phiếu hiện nay đã là 102.000đ/cổ phiếu. Cùng với sự tăng trưởng này,
VNM đóng vai trò như một đầu tàu kéo chỉ số giá Vn-Index đi lên.
- Trong thông báo ngày 2/2/2006, các nhà phân tích của Merrill Lynch
đã xếp cổ phiếu của Việt Nam trong nhóm “cổ phiếu nên mua trong
10 năm”. Ngay sau thông báo này của công ty Merrill Lynch về
TTCK Việt Nam, giá cổ phiếu của các công ty niêm yết đã gia tăng
nhanh chóng.
- Tài khoản chứng khoán tăng gấp đôi. Hiện toàn quốc có khoảng
52.000 tài khoản đầu tư chứng khoán đã được mở, dự kiến đến cuối
năm nay con số này có thể tăng 3 lần.

×