Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nghiên cứu hoạt động thuê ngoài logistics 3pl trên thế giới và giải pháp phát triển ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 111 trang )

1

..

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành logistics xuất hiện cách đây chƣa lâu nhƣng đã có những bƣớc phát
triển nhanh chóng, khẳng định vai trị quan trọng của mình đối với nền kinh tế của
mỗi quốc gia. Trên thế giới, hàng loạt các công ty logistics lớn đã ra đời, họ chính là
những nhà cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (Third party logistics – 3PLP),
đóng góp một phần quan trọng vào sự thành cơng của các doanh nghiệp. Việc các
doanh nghiệp lựa chọn hình thức thuê ngoài logistics (logistics outsourcing) hay sử
dụng dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL) ngày càng tăng đã chứng tỏ vai trò của các
3PLP ngày càng lớn mạnh. Việc logistics phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn ở
nhiều quốc gia trên thế giới đã đƣa vị trí của 3PL ngày càng lên cao.
Việt Nam có lợi thế nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế
giới, vì vậy thị trƣờng logistics Việt Nam hứa hẹn sẽ bùng nổ trong thời gian tới.
Theo lộ trình gia nhập WTO, Việt Nam sẽ chính thức mở cửa hồn tồn thị
trƣờng logistics vào năm 2014. Nhƣ vậy, thời gian để ngành logistics nƣớc ta tham
gia vào thị trƣờng chung thế giới khơng cịn bao lâu nữa.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, logistics vẫn còn là một ngành mới so với các ngành
kinh tế khác. Mặc dù đã có sự phát triển vƣợt bậc trong một số năm trở lại đây,
nhƣng rất nhiều doanh nghiệp vẫn chƣa những hiểu biết đúng đắn về logistics cũng
nhƣ tầm quan trọng của logistics, dẫn đến việc hoạt động thuê ngoài logistics tại
Việt Nam vẫn chƣa đƣợc hồn thiện. Thêm vào đó, các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ logistics của Việt Nam cũng chƣa phát triển đến trình độ của các 3PL thực thụ.
Thị trƣờng 3PL hiện nay vẫn đang bị các 3PL nƣớc ngoài chi phối. Trên thực tế
phần lớn công ty logistics Việt Nam chƣa đủ năng lực tham gia sân chơi lớn và
mang tính tồn cầu này.
Các cơng ty logistics lớn trên thế giới tham gia vào thị trƣờng logistics Việt
Nam, tạo sức ép lớn đối với sự tồn tại và hoạt động các doanh nghiệp logistics trong




2

nƣớc. Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện các hoạt động thuê
ngoài logistic tại Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu của đề tài
Thơng qua việc phân tích thực trạng thuê ngoài logistics tại Việt Nam, luận
văn sẽ chỉ ra những ƣu điểm và nhƣợc điểm của hoạt động thuê ngồi hiện nay trên
thị trƣờng Việt Nam. Qua đó, luận văn sẽ đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hoạt động thuê ngoài logistic tại Việt Nam.

3. Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1: Nghiên cứu cơ sở khoa học về thuê ngoài logistics, một số hoạt
động thuê ngoài phổ biến nhất, bao gồm vận tải, giao nhận và lƣu kho, khai báo hải
quan.
Nội dung 2: Nghiên cứu thực trạng thuê ngoài logistics tại Việt Nam giai đoạn
2008-2013.
Nội dung 3: Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các hoạt động logistics đƣợc
thuê ngoài.

4. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp định tính: thu thập tài liệu tại bàn, kết hợp với nghiên cứu thực địa
và phỏng vấn các chuyên gia để hệ thống hóa cơ sở khoa học và thực tiễn về
logistics thuê ngoài.
Phƣơng pháp định lƣợng đƣợc sử dụng để khảo sát, điều tra và phân tích số liệu
nhằm kiểm định thực tiễn giúp đề tài có cơ sở thực tế và tính khả thi cao. Tác giả đã
tiến hành điều tra khảo sát một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn
TP.HCM. Đây là các doanh nghiệp sử dụng thƣờng xuyên các dịch vụ logistics của
các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam. Thông tin thu thập đƣợc xử lý trên

phần mềm phân tích thống kê SPSS, phiên bản 11.5 để cho ra đƣợc kết quả phân
tích định lƣợng khoa học.


3

5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến thuê ngồi logistics, trong những năm gần đây đã có một số
luận văn, khóa luận đƣợc cơng bố, đó là:
Khóa luận tốt nghiệp trƣờng Đại học Ngoại thƣơng – Vũ Thị Hà Nguyên, năm
2009: “Nghiên cứu hoạt động thuê ngoài logistics (3PL) trên thế giới và giải pháp
phát triển ở Việt Nam”.
Luận văn thạc sỹ kinh tế trƣờng Đại học Kinh tế TPHCM – Trần Thị Mỹ
Hằng, năm 2012: “nâng cao chất lƣợng dịch vụ logistic tại các doanh nghiệp giao
nhận vận tải Việt Nam trên địa bàn TPHCM đến năm 2020”.
Tuy nhiên, tình hình phát triển hiện nay của logistics nói chung và th ngồi
logistics nói riêng cũng đã có nhiều biến đổi. Do đó, luận văn sẽ cập nhật những
thơng tin mới nhất về tình hình th ngồi logistics tại Việt Nam. Đồng thời, luận
văn đƣa ra một số giải pháp hoàn thiện hoạt động thuê ngoài logistics tại Việt Nam.

6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kế luận và phụ lục, đề tài luận văn đƣợc kết cấu thành 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về hoạt động thuê ngoài logistics (3PL)
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động thuê ngoài logistics tại Việt Nam
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thuê ngoài logistics
tại Việt Nam.
Em xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Bảo Trung đã chỉ dẫn tận tình
và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.



4

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THUÊ NGOÀI LOGISTICS (3PL)
1.1 Những vấn đề chung về logistics
1.1.1. Khái niệm logistics
Thuật ngữ “logistics” đã xuất hiện từ lâu trên thế giới và đƣợc sử dụng đầu
tiên trong quân đội với nghĩa là nghệ thuật bố trí và di chuyển quân. Sau này, thuật
ngữ logistics dần đƣợc áp dụng sang các lĩnh vực kinh tế và đƣợc lan truyền từ châu
lục này sang châu lục khác, từ nƣớc này sang nƣớc khác, hình thành nên từ logistics
tồn cầu. Nếu nhƣ từ giữa thế kỷ 20, rất hiếm các doanh nghiệp hiểu đƣợc logistics
là gì, thì đến cuối thế kỷ, logistics đƣợc ghi nhận nhƣ một chức năng kinh tế chủ
yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp, cả trong khu
vực sản xuất lẫn trong khu vực dịch vụ. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ trƣớc,
ngƣời ta đã dự báo sẽ xuất hiện logistics tồn cầu và điều đó giờ đây đã thành hiện
thực (Hồng Văn Châu, 2009).
Logistics phát triển rất nhanh chóng, trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều
quốc gia nên có rất nhiều tổ chức và tác giả tham gia nghiên cứu và đƣa ra định
nghĩa về logistics. Do ở các lĩnh vực khác nhau, góc nhìn khác nhau, cách tiếp cận
khác nhau nên định nghĩa về logistics của các tác giả và tổ chức cũng khác nhau.
Dƣới đây là một số định nghĩa về logistics.
Tác giả E. H. Frazelle định nghĩa logistics rất đơn giản là dòng vận động của
nguyên vật liệu, thông tin và tiền giữa khách hàng và nhà cung cấp.
Một định nghĩa đƣợc rất nhiều ngƣời ủng hộ là định nghĩa của Hội đồng quản
lý logistics của Hoa Kỳ (CLM): logistics là quá trình lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện và kiểm soát một cách hiệu quả quá trình lƣu chuyển, dự trữ hàng hóa, dịch vụ
và những thông tin liên quan từ điểm xuất phát đầu tiên đến nơi tiêu thụ cuối cùng
sao cho hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
Theo quan điểm 5 đúng (five rights) thì logistics là quá trình cung cấp đúng

sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho


5

khách hàng tiêu dùng sản phẩm (right items, right place, right time, right condition
right cost). (Douglas M. Lambert, Jame R. Stock, Lisa M.Ellram, 1998).
Dƣới góc độ quản trị chuỗi cung ứng, logistics là q trình tối ƣu hóa về vị trí,
lƣu trữ và chu chuyển các tài nguyên/ yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là
nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, ngƣời bán buôn, bán lẻ đến tay ngƣời tiêu dùng
cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế (Logistics and Supply Chain
Management, Ma Shou, 1999).
Các định nghĩa trên đều khẳng định logistics là một quá trình bao gồm nhiều
hoạt động. Điều này cho thấy logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ mà là
một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên quan mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau, đƣợc thực hiện một cách có khoa học, có hệ thống thông qua các bƣớc
nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, kiểm tra, kiểm sốt và hồn thiện. Đây là
q trình có liên quan đến nhiều hoạt động khác nhau trong cùng một tổ chức, từ
xây dựng chiến lƣợc đến các hoạt động chi tiết, cụ thể để thực hiện chiến lƣợc.
Luật thƣơng mại Việt Nam 2005 đƣa ra khái niệm: “dịch vụ logistics” tại điều
233: Dịch vụ logistics là hoạt động thƣơng mại, theo đó thƣơng nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lƣu kho, lƣu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tƣ vấn khách hàng, đóng gói bao bì,
ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo
thoả thuận với khách hàng để hƣởng thù lao. Dịch vụ logistics đƣợc phiên âm theo
tiếng Việt là dịch vụ lơ-gi-stíc. Định nghĩa này vẫn cịn hạn chế vì chỉ liệt kê một số
công việc của logistics, mặt khác chỉ đề cập đến hàng hóa, trong khi logistics cịn
liên quan rất nhiều đến nguyên vật liệu, bán thành phẩm, năng lƣợng...
Qua các khái niệm và định nghĩa trên, ta thấy dù có sự khác nhau về từ ngữ
diễn đạt, cách trình bày nhƣng trong nội dung, tất cả các tác giả đều cho rằng

logistics chính là hoạt động quản lý dòng lƣu chuyển của nguyên vật liệu từ khâu
mua sắm qua quá trình lƣu kho, sản xuất ra sản phẩm và phân phối tới tay ngƣời
tiêu dùng. Mục đích của logistics là giảm tối đa chi phí phát sinh với một thời gian


6

ngắn nhất trong quá trình vận chuyển của nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng
nhƣ phân phối hàng hóa một cách kịp thời.
Từ đây, ta có thể kết luận logistics là q trình tối ƣu hóa về vị trí và địa điểm,
vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm xuất phát đầu tiên qua các khâu sản
xuất, phân phối cho đến tay ngƣời tiêu dùng cuối cùng, thơng qua hàng loạt các
hoạt động kinh tế. Theo đó, ngƣời kinh doanh logistics, ngƣời cung cấp dịch vụ
logistics chuyên nghiệp là ngƣời đảm nhận toàn bộ các khâu trong q trình hình
thành và đƣa hàng hóa đến tay ngƣời tiêu dùng cuối cùng. Những khâu này phải
thực hiện đồng bộ, phải mở rộng hơn, nâng cao hơn, giúp cho khách hàng yên tâm
lo liệu công việc sản xuất, mua nguyên liệu, bán thành phẩm. Và quan trọng là giúp
cho khách hàng tiết kiệm đƣợc chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trƣờng.
1.1.1. Các giai đoạn phát triển của logistics

1.1.1.1. Quan điểm 3 giai đoạn
Theo nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế và Xã hội Châu Á- Thái Bình Dƣơng
(ESCAP), quá trình phát triển của logistics đƣợc chia thành 3 giai đoạn nhƣ sau:
Giai đoạn 1: Phân phối vật chất
Tất cả các cơng ty đều có hoạt động vận chuyển vào trong công ty (Inbound
movements of freight – Inbound logistics) và hoạt động vận chuyển ra ngồi cơng
ty (Outbound movements of freight – Outbound logistics). Vào những năm 60, 70
của thế kỷ 20, ngƣời ta quan tâm nhiều đến hoạt động logistics đầu ra – outbound
logitisc. Đó là một chuỗi các hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong đó
bao gồm các hoạt động vận tải nhằm đảm bảo việc giao hàng thành phẩm một cách

hiệu quả cho khách hàng. Những hoạt động này bao gồm vận tải, phân phối, bảo
quản hàng hóa, quản lý tồn kho, đóng gói bao bì, phân loại, dán nhãn… hay còn gọi
là phân phối vật chất. Nhƣ vậy, giai đoạn đầu tiên của logistics chính là giai đoạn
phát triển của “Outbound logistics”- một lĩnh vực quan trọng nỗ lực marketing của
công ty để phân phối sản phẩm đến tay khách hàng.


7

Giai đoạn 2: Hệ thống logistics
Đến những năm 80, do giá nguyên liệu tăng cao làm chi phí vận tải tăng
cùng với sự ra đời của khoa học quản lý, phƣơng pháp lập kế hoạch về nhu cầu
nguyên vật liệu và sự phổ biến của hệ thống Kanban và JIT, ngƣời ta đã chuyển
hƣớng quan tâm sang Inbound logistics- logistics đầu vào. Đây là một khái niệm
phát triển nhằm tìm kiếm cách thức củng cố mối quan hệ với nhà cung cấp, tăng
chất lƣợng nguồn lực, giảm chi phí và thời gian vận tải, thúc đẩy việc quản lý
nguyên vật liệu, và đáp ứng các mục tiêu sản xuất mới là sản phẩm chất lƣợng cao
với giá bán cạnh tranh. Logistics đầu vào chỉ giới hạn trong quản lý nguyên vật liệu
cũng nhƣ quản lý nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Có hai loại hình vận tải trong
logistics đầu vào là vận chuyển nguyên liệu mua từ các nhà cung cấp bên ngồi
cơng ty và vận chuyển ngun vật liệu, các bộ phận của sản phẩm giữa các chi
nhánh trong công ty.
Nhƣ vậy, vào khoảng thời gian những năm 80, 90 của thế kỷ 20, các công ty
đã tiến hành quản lý kết hợp cả hai hoạt động “inbound logistics và outbound
logistics”. Đó là giai đoạn phát triển mới của logistics: Logistics hệ thống.
Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng
Sau này, cùng với “Inbound logistics” và “Outbound logistics”, các cơng ty
cịn quan tâm đến “Operation logistics”- là một bộ phận của hoạt động điều hành
trong công ty liên quan đến việc lập hệ thống theo dõi, kiểm tra sản phẩm và lập các
chứng từ liên quan nhằm tăng thêm giá trị cho sản phẩm. Sự kết hợp của ba hoạt

động này hình thành nên một dây chuyền cung ứng bao trùm lên mọi hoạt động từ
nhà cung cấp đến nhà sản xuất và cuối cùng là đến khách hàng tiêu dùng sản phẩm
với mục đích cuối cùng là thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng.
Quản trị dây chuyền cung ứng là giai đoạn phát triển cao của logistics, đòi
hỏi nhà quản trị phải hiểu và quản lý đƣợc chuỗi các hoạt động trên, giám sát và
điều hành cả hệ thống để có thể tăng giá trị cho sản phẩm. Nói cách khác, đó là cách
thức kết nối các mắt xích trong chuỗi với nhau, liên kết trong nội bộ tổ chức và liên


8

kết với các tổ chức khác, để nâng cao tính hiệu quả.

1.1.1.2. Quan điểm 5 giai đoạn
Tác giả Edward Frazelle đã chia quá trình phát triển của logistics thành 5 giai
đoạn là: logistics tại nơi tác nghiệp (workplace logistics), logistics tại nơi sản xuất
(Facility Logistics), logistics trong doanh nghiệp (Corporate logistics), logistics
trong dây chuyền cung ứng (Supply chain Logistics) và logistics toàn cầu (global

Phạm vi và tầm ảnh hƣởng

logistics) (Edward Fraelle 2002).

Logistics toàn cầu

Logistics trong chuỗi
cung ứng
Logistics trong
doanh nghiệp
Logistics tại nơi

sản xuất
Logistics tại
nơi tác
nghiệp

1950

1960

1970

1980

1990

Hình 1.1: 5 giai đoạn phát triển của logistics
Nguồn: Edward Frazelle, Supply Chain Strategy: The Logistics of Supply
Chain Management, tr.6
Giai đoạn 1: Logistics tại nơi tác nghiệp (Workplace Logistics)
Logistics tại nơi tác nghiệp đƣợc hiểu là dòng chuyển động của nguyên vật
liệu tại một điểm làm việc đơn lẻ. Mục tiêu của logistics tại nơi tác nghiệp là sắp
xếp hợp lý sự chuyển động của một công việc riêng biệt, đơn lẻ tại một máy hoặc
theo một dây chuyền lắp ráp. Nguyên tắc và lý thuyết của Logistics tại nơi tác
nghiệp đƣợc phát triển bởi những ngƣời sáng lập ra các nhà máy kỹ thuật công
nghiệp trƣớc và trong chiến tranh thế giới lần thứ 2. Ngày nay, mọi ngƣời thƣờng
gọi logistics tại nơi tác nghiệp là khoa học nghiên cứu về lao động (ergonomics).


9


Giai đoạn 2: Logistics tại nơi sản xuất (Facility Logistics)
Logistics tại nơi sản xuất là dòng chuyển động của nguyên vật liệu giữa các
điểm làm việc tại một nơi sản xuất. Nơi sản xuất có thể là nhà máy, kho hàng, hoặc
trung tâm phân phối. Logistics tại nơi sản xuất thƣờng đƣợc coi nhƣ xử lý nguyên
vật liệu. Nguồn gốc của logistics tại nơi sản xuất và xử lý nguyên vật liệu trong sản
xuất hàng loạt và dây chuyền lắp ráp, những hoạt động rất nổi bật trong những năm
1950 và 1960. Trong khoảng thời gian này và thậm chí đến tận cuối những năm
1970, rất nhiều các tổ chức vẫn duy trì các phịng xử lý ngun vật liệu. Ngày nay,
thuật ngữ xử lý nguyên vật liệu không đƣợc dùng nữa vì nó thƣờng đi kèm với các
hoạt động không gia tăng giá trị.
Trong những năm 1960, xử lý hàng hóa, kho hàng và sự vận chuyển hàng
hóa đƣợc nhóm chung vào nhóm phân phối vật chất; việc thu mua hàng hóa,
marketing, và dịch vụ khách hàng đƣợc nhóm chung vào nhóm logistics kinh
doanh.
Giai đoạn 3: Logistics trong doanh nghiệp (Corporate Logistics)
Vào những năm 1970, khi cấu trúc quản lý và hệ thống thông tin đƣợc cải
tiến, khả năng của các cơng ty có thể đồng hóa và tổng hợp các phòng ban (xử lý
nguyên vật liệu, kho hàng…) theo đúng chức năng (phân phối vật chất và logistics
kinh doanh) đã cho phép logistics thực sự đƣợc ứng dụng lần đầu tiên trong một
doanh nghiệp. Logistics trong doanh nghiệp trở thành một quá trình với mục tiêu
chung là phát triển và duy trì chính sách dịch vụ khách hàng mang lợi nhuận đồng
thời giảm chi phí logistics.
Logistics trong doanh nghiệp là dịng lƣu chuyển của ngun vật liệu và
thơng tin giữa các điểm sản xuất và các quá trình/ quy trình trong một doanh
nghiệp. Với các nhà sản xuất, các hoạt động logistics diễn ra giữa các phân xƣởng
và kho hàng; với các nhà bán buôn, logistics diễn ra giữa các trung tâm phân phối;
và với các nhà bán lẻ, logistics diễn ra giữa các trung tâm phân phối và các kho
hàng lẻ. Logistics trong doanh nghiệp đôi khi đi kèm với cụm từ phân phối vật chất,



10

điều này rất phổ biến vào các năm 1970.
Giai đoạn 4: Logistics trong chuỗi cung ứng (Supply Chain Logistics)
Logistics trong chuỗi cung ứng đƣợc định nghĩa là dòng lƣu chuyển của
nguyên vật liệu, thông tin và tiền giữa các doanh nghiệp với nhau. Đã có rất nhiều
nhầm lẫn xung quanh thuật ngữ logistics và quản lý chuỗi cung ứng. Để phân biệt
hai thuật ngữ này, ta có thể hiểu chuỗi cung ứng là mạng lƣới các điểm sản xuất
(kho hàng, nhà máy, bến cảng…), phƣơng tiện (xe tải, tàu hỏa, máy bay, tàu
biển…) và hệ thống thông tin logistics (logistics information system) đƣợc kết nối
bởi nhà cung cấp của nhà cung cấp của doanh nghiệp và khách hàng của khách
hàng của doanh nghiệp. Cịn logistics là những gì xảy ra trong chuỗi cung ứng. Các
hoạt động logistics (tiếp xúc với khách hàng, quản lý kho, cung ứng, vận tải và lƣu
kho) kết nối và kích hoạt các đối tƣợng trong chuỗi cung ứng.
Giai đoạn 5: Logistics toàn cầu (Global Logistics)
Logistics tồn cầu là dịng lƣu chuyển của hàng hóa, thơng tin và tiền giữa
các quốc gia. Logistics toàn cầu kết nối tất cả các nhà cung cấp và khách hàng trên
tồn thế giới. Các dịng logistics tồn cầu đã tăng lên đáng kể trong vài năm vừa
qua do sự toàn cầu hóa về kinh tế, sự mở rộng của các khối kinh tế và sự truy cập
toàn cầu vào các website mua bán hàng hóa. Logistics tồn cầu cũng phức tạp hơn
nhiều so với logistics trong một quốc gia bởi sự phức tạp, đa dạng về các đối tƣợng
tham gia, ngơn ngữ, tiền tệ, múi giờ, văn hóa...

1.1.2. Phân loại
1.1.2.1. Theo hình thức khai thác logistics
- Logistics bên thứ nhất (First party logistics – 1PL): là việc ngƣời chủ sở
hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng nhu
cầu của bản thân. Theo đó, chủ hàng phải đầu tƣ vào phƣơng tiện vận tải, kho bãi,
nhân công… để quản lý và vận hành hoạt động logistics. Hình thức này thƣờng làm
giảm hiệu quả kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp vì họ sẽ có khơng có đủ kỹ



11

năng, kinh nghiệm chuyên môn để quản lý và vận hành hệ thống.
- Logistics bên thứ hai (Second party logistics – 2PL): ngƣời cung cấp dịch
vụ logistics bên thứ hai sẽ cung cấp dịch vụ cho các hoạt động đơn lẻ trong dây
chuyền logistics nhƣ vận tải, lƣu kho bãi, thanh toán, mua bảo hiểm… để đáp ứng
nhu cầu của chủ hàng. Trong hình thức này 2PL chƣa tích hợp các hoạt động đơn lẻ
thành chuỗi cung ứng đồng nhất.
- Logistics bên thứ ba (Third party logistics-3PL): ngƣời cung cấp dịch vụ
logistics bên thứ ba sẽ thay mặt chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics
cho từng bộ phận nhƣ thay mặt cho ngƣời gửi hàng làm thủ tục xuất khẩu và vận
chuyển nội địa hoặc thay mặt cho ngƣời nhập khẩu làm thủ tục thông quan và vận
chuyển hàng đến địa điểm quy định... Do đó, 3PL bao gồm nhiều dịch vụ khác
nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thơng tin… và có
tính tích hợp vào dây chuyền cung ứng của khách hàng.
- Logistics bên thứ tƣ (Fourth party logistics – 4PL: nhà cung cấp dịch vụ là
ngƣời tích hợp, gắn kết các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất khoa học kỹ
thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và vận hàng các giải pháp
chuỗi cung ứng logistics. 4PL chịu trách nhiệm quản trị dòng lƣu chuyển logistics,
cung cấp giải pháp dây chuyền cung ứng, hoạch định, tƣ vấn logistics, quản trị vận
tải. 4PL hƣớng đến quản trị cả quá trình logistics, nhƣ nhận hàng từ nơi sản xuất,
làm thủ tục xuất, nhập khẩu, đƣa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
- Logistics bên thứ năm (Fith party logistics – 5PL): đƣợc nói tới trong lĩnh
vực thƣơng mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ logistics cung cấp dịch vụ trên cơ
sở nền tảng là thƣơng mại điện tử.

1.1.2.2. Theo quá trình
- Logistics đầu vào (inbound logistics): là các dịch vụ đảm bảo cung ứng các

yếu tố đầu vào (nguyên liệu, thông tin, vốn...) một cách tối ƣu cả về vị trí, thời gian
và chi phí cho q trình sản xuất.


12

- Logistics đầu ra (outbound logistics): là các dịch vụ đảm bảo cung cấp
thành phẩm đến tay ngƣời tiêu dùng một cách tối ƣu cả về vị trí, thời gian và chi phí
nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
- Logistics ngƣợc (reserve logistics): là các dịch vụ đƣợc cung ứng đảm bảo
quá trình thu hồi phế phẩm, phế liệu… các yếu tố ảnh hƣởng đến môi trƣờng phát
sinh từ quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng trở về để tái chế hoặc xử lý.

1.1.2.3. Theo phạm vi
Coycle (2003) đã dựa theo phạm vi hoạt động và chia logistics thành:
- Logistics kinh doanh (Bussiness logistics): là một phần của chuỗi cung ứng
bao gồm việc lên kế hoạch, thực hiện và kiểm sốt các dịng lƣu chuyển, lƣu trữ
hàng hóa, dịch vụ và các thơng tin liên quan từ điểm bắt đầu đến điểm tiêu thụ cuối
cùng để thoải mãn nhu cầu của khách hàng.
- Logistics quân sự (Military logistics): thiết kế và kết hợp trên tất cả các
phƣơng diện để hỗ trợ cho khả năng hành động của các lực lƣợng quân sự và các
trang thiết bị quân sự nhằm đảm bảo sự sẵn sàng, chính xác và hiệu quả cho các
hoạt động này.
- Logistics sự kiện (Event logistics): hệ thống các hoạt động, phƣơng tiện,
nhân lực cần thiết để tổ chức, lên chƣơng trình và triển khai các nguồn lực để một
sự kiện đƣợc diễn ra và kết thúc tốt đẹp.
- Logistics dịch vụ (Service logistics): tập hợp, lên kế hoạch và quản lý các
phƣơng tiện, tài sản, nhân lực và nguyên vật liệu để hỗ trợ và duy trì hoạt động dịch
vụ hoặc kinh doanh dịch vụ.


1.2. Hoạt động thuê ngoài logistics
1.2.1. Khái niệm th ngồi logistics
Cũng nhƣ khái niệm logistics, hiện nay có rất nhiều khái niệm và định nghĩa
về thuê ngoài logistics (outsourcing logistics) hay logistics bên thứ ba (third party


13

logistics – 3PL). Dƣới đây là một số định nghĩa:
Theo CSCMP thì logistics bên thứ ba (3PL) chính là việc thuê ngoài toàn bộ
hay phần nhiều các hoạt động logistics của một doanh nghiệp cho một công ty
chuyên trách thực hiện. Thuật ngữ „3PL” xuất hiện lần đầu tiên vào đầu những năm
1970 ám chỉ những công ty môi giới vận tải đa phƣơng thức (IMC) trong các hợp
đồng vận tải. Khi đó các hợp đồng vận tải thƣờng chỉ đƣợc ký kết giữa hai bên là
chủ hàng và ngƣời chuyên chở. Khi các công ty IMC tham gia vào hợp đồng nhƣ là
bên trung gian chấp nhận vận chuyển hàng hóa cho chủ hàng và chuyển hàng đến
cho cơng ty chuyên chở đƣờng sắt, họ đã trở thành bên thứ ba tham gia vào hợp
đồng, 3PL.
Ủy ban Châu Âu đã định nghĩa 3PL là những hoạt động đƣợc thực hiện bởi
một cơng ty bên ngồi thay mặt một chủ hàng và ít nhất cũng đảm bảo thực hiện
đƣợc việc quản lý nhiều hoạt động logistics. Các hoạt động này đƣợc cung cấp theo
hƣớng tích hợp chứ khơng phải là một loại riêng rẽ. Sự hợp tác giữa chủ hàng và
cơng ty bên ngồi là một mối quan hệ liên tục có chủ định (PROTRANS, 2003).
Cũng nhấn mạnh vào sự phức tạp của 3PL và đề cập đến quan hệ hợp đồng,
Laarhoven đƣa vào định nghĩa 3PL một số hoạt động chi tiết hơn và coi thời gian
tối thiểu thực hiện hợp dồng là một trong những yếu tố quan trọng phân biệt 3PL:
3PL là những hoạt động đƣợc thực hiện bởi một nhà cung cấp dịch vụ logistics thay
mặt cho chủ hàng và bao gồm ít nhất hoạt động quản lý và điều hành lƣu kho và
vận tải. Một số hoạt động khác có thể thêm vào nhƣ quản lý tồn kho, các thông tin
liên quan đến các hoạt động nhƣ theo dõi hàng hóa, những hoạt động gia tăng giá trị

nhƣ lắp ráp và lắp đặt sản phẩm hoặc thậm chí cả chuỗi cung ứng. Tƣơng tự, hợp
đồng cũng yêu cầu bao gồm một số công tác quản lý, hoạt động nghiên cứu hoặc
thiết kế, sự hợp tác giữa chủ hàng và các nhà cung cấp dịch vụ th ngồi logistics
phải kéo dài ít nhất một năm để phân biệt với nhà vận chuyển và lƣu kho truyền
thống.
Qua các định nghĩa và khái niệm ở trên, ta có thể th ngồi logistics chính


14

là việc giao toàn bộ hay một phần trong chuỗi logistics, những hoạt động trƣớc đây
đƣợc thực hiện bên trong doanh nghiệp, cho một nhà cung cấp bên thứ ba bên ngoài
trong dài hạn với việc chuyển đổi các nguồn lực và những mục tiêu cụ thể.

1.2.2 . Khái niệm dịch vụ logistics
Lần đầu tiên khái niệm về dịch vụ logistics đƣợc đƣa ra trong Luật Thƣơng
mại Việt Nam năm 2005 (hiệu lực từ 01/01/2006), tại Điều 233 của Luật Thƣơng
mại qui định dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ
chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói
bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hố
theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhƣng các khái niệm về dịch vụ
logistics có thể chia làm hai nhận định theo phạm vi hẹp và nhận định theo phạm vi
rộng.
► Nhóm nhận định theo phạm vi hẹp: tiêu biểu của nhóm này là định nghĩa
của Luật thƣơng mại 2005 coi dịch vụ logistics gần nhƣ tƣơng tự với hoạt động giao
nhận vận tải hàng hóa. Tuy nhiên, cũng cần chú ý là định nghĩa trong Luật thƣơng
mại có tính mở thể hiện trong đoạn in nghiêng “hoặc các dịch vụ khác có liên quan
đến hàng hoá”. Theo trƣờng phái này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp

các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
thụ. Theo đó, dịch vụ logistics mang nhiều yếu tố vận tải, ngƣời cung cấp dịch vụ
logistics khơng có nhiều khác biệt so với ngƣời cung cấp dịch vụ vận tải đa phƣơng
thức.
► Nhóm nhận định theo phạm vi rộng: theo nhóm định nghĩa này cho rằng
dịch vụ logistics gắn liền với cả quá trình nhập nguyên , nhiên vật liệu làm đầu vào
cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đƣa vào các kênh lƣu thông, phân
phối để đến tay ngƣời tiêu dùng cuối cùng. Nhóm nhận định này góp phần phân
định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ nhƣ dịch vụ vận tải, giao


15

nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tƣ vấn quản lý… với
một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu
trong quá trình hình thành và đƣa hàng hóa tới tay ngƣời tiêu dùng cuối cùng.

1.2.3. Các giai đoạn phát triển của thuê ngoài logistics (logistics bên thứ
ba- 3PL)
Giai đoạn 1: từ đầu thế kỷ 20 đến cuối những năm 1950
Đây là giai đoạn khái niệm 3PL vẫn đang ở giai đoạn sơ khai. Ở giai đoạn
này, các công ty sẽ không sử dụng đến 3PLP trừ khi có lợi thế rõ rệt về giá hoặc có
sự thiếu hụt về phƣơng tiện vận tải.
Đây là giai đoạn đầy biến động của lịch sử thế giới. Hai cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ nhất và lần thứ hai đã làm thay đổi địa lý chính trị giữa các quốc gia,
đồng thời cũng kéo theo sự thay đổi về kinh tế chính trị trên tồn thế giới. Sau Đại
khủng hoảng 1930, kinh tế thế giới dần hồi phục và phát triển trong những năm
1950, thƣơng mại phát triển, sản xuất quốc tế đƣợc mở rộng. Một trong những sự
kiện quan trọng của giai đoạn này là sự thành lập Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ
quốc tế đã thúc đẩy các hoạt động thƣơng mại, giữ tỷ giá hối đối đƣợc ổn định và

sự hợp tác về các chính sách tiền tệ trên toàn thế giới.
Ngay từ những năm đầu 1900, logistics đã đƣợc coi nhƣ là một công cụ của
marketing. Định nghĩa chính thức đầu tiên về logistics đã đƣợc đƣa ra từ những
năm 1927. Quan điểm về logistics của các công ty bấy giờ tập trung vào sự hiệu quả
của phân phối vật chất từ các hoạt động nhƣ vận tải, lƣu kho, kiểm soát tồn kho, xử
lý đơn hàng và đóng gói. Nói cách khác, sự phát triển của khái niệm phân phối vật
chất đƣợc coi nhƣ là một “vấn đề kinh doanh mới” và bắt đầu thu hút sự quan tâm
và tạo ra khái niệm tổng chi phí của logistics. Vì thế, sự thay đổi trên toàn thế giới
và sự dịch chuyển chiến lƣợc của hiệu quả chi phí đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của logistics thông qua hiệu quả của vận tải. Tuy nhiên, quyền sở hữu và chi phí
bảo trì cho phƣơng tiện vận tải tăng lên khi các hoạt động thƣơng mại tăng lên. Bởi
vậy, công ty phải bắt đầu cân nhắc sự thay thế của vận tải thuê ngoài. Đây là giai
đoạn bắt đầu của khái niệm 3PL trong chiến lƣợc của công ty. Tuy nhiên các nhà


16

cung cấp giữ tồn quyền kiểm sốt hoạt động và dịch vụ của họ bị hạn chế trong
dịch vụ cung cấp vận tải. Sự đổi mới kỹ thuật trong thời kì này ở lĩnh vực sản xuất,
mạng lƣới vận tải giữ vai trò xúc tác trong sự phát triển của TPL, bởi vì sự di
chuyển của hàng hóa tăng đáng kể. Quan điểm quản lý chung khơng coi sự đóng
góp của 3PL cho khả năng thu lợi của công ty trừ khi thiếu phƣơng tiện vận tải và
lợi thế về chi phí.
Giai đoạn 2: từ cuối thập niên 50 đến giữa thập niên 60 của thế kỷ 20
Khái niệm 3PL đã trở nên phổ biến, các công ty bắt đầu cân nhắc đến sự thay
thế của 3PL bởi áp lực quản lý hàng tồn kho và cắt giảm chi phí lên khả năng cạnh
tranh và tăng lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, 3PL vẫn còn gây nên một số lo ngại
về sự mất quyền kiểm soát hoạt động logistics của cơng ty.
Thị trƣờng tồn cầu hóa và việc tìm kiếm các nhà cung cấp hiệu quả về chi
phí địi hỏi phải có một chiến lƣợc thay đổi. Để hỗ trợ cho sự phát triển, các công ty

đã chuyển hƣớng hiện đại hóa và đầu tƣ vào cải cách kỹ thuật nhƣ máy tính và sản
xuất tự động. Do vậy, cách tiếp cận chiến lƣợc mới tập trung vào kế hoạch dài hạn,
chiến lƣợc tập thể truyền thống, hoạt động hóa và phân quyền. Tại thời điểm đó,
Peter Drucker miêu tả sự phân phối vật chất nhƣ là quản lý lục địa đen và nâng cao
nhận thức về các chức năng logistics. Kể từ đó, sự quan tâm từ các hiệp hội thƣơng
mại, công ty và học viện về các chức năng logistics đã gia tăng. Xu hƣớng mới của
logistics là quản lý logistics tích hợp và ghi nhận sự khác biệt rõ rệt giữa logistics
đầu vào và logistics đầu ra. Các công ty đã tập trung và phân phối vật chất nhƣ là
một chức năng hợp nhất cho hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động
đƣợc liên kết với các nhà cung cấp logistics bên thứ 3. Có một sự thật đằng sau là
sự tăng trƣởng của thị trƣờng liên quan đến nguồn lực bên trong, vốn và quản lý
kho, xu hƣớng chi phí tổng. Chính những việc này đã khiến cho các công ty không
thể thực hiện cả vận tải, quyền sở hữu kho bãi, bảo trì, kế hoạch và quản lý. Từ đó
dẫn đến sự dịch chuyển sang th ngồi. Do đó, 3PLP đã bắt đầu kích thích các
cơng ty quan tâm nhiều hơn đến lợi ích từ th ngồi logistics.


17

Giai đoạn 3: từ cuối thập niên 60 đến cuối thập niên 70 của thế kỷ 20
Khái niệm 3PL bắt đầu đƣợc các công ty tiếp nhận. Thị trƣờng rộng lớn và
sự thay đổi của luật pháp đã làm tăng sự phức tạp trong phân phối, điều này đòi hỏi
sự hỗ trợ của 3PL, đặc biệt trong lĩnh vực phân phối.
Sự tự do hóa các hoạt động vận chuyển đã thúc đẩy các hoạt động thƣơng
mại phát triển. Thêm vào đó, khủng hoảng dầu mỏ cuối những năm 1960 đã mang
lại những sự thay đổi lớn về kinh doanh và tài chính. Mỹ tách đồng đơ la của mình
ra khỏi hệ thống bản vị vàng, lạm phát tăng vọt, đầu tƣ bị thu hẹp, tỷ lệ thất nghiệp
ở mức báo động. Hơn nữa, Singapore và Hongkong đã đạt đƣợc nhiều tiến bộ từ sự
đầu tƣ kinh tế và quân đội của Anh, Nam Phi đã kiếm đƣợc những khoản lợi nhuận
và sự đầu tƣ lớn từ các nền kinh tế Tây Âu, xuất khẩu tăng ở khu vực Thái Bình

Dƣơng, sự tăng trƣởng trở thành chu kì với cơn sốc giá dầu mỏ khác, sự mở rộng
nền kinh tế công nghiệp, sự phát triển công nghiệp của Hàn Quốc và Nhật Bản.
Cuối cùng, Xô viết và các quốc gia Tây Âu đã đã có nền kinh tế cơng nghiệp hồn
thiện.
Dƣới tác động của những biến động trên, các công ty đã chuyển mơ hình
quản lý truyền thống sang mơ hình hiện đại. Từ đó, các cơng ty đã áp dụng các
chiến lƣợc liên kết, lập kế hoạch danh mục đầu tƣ... Cùng với cuộc cải cách về kỹ
thuật (sản xuất, kỹ thuật tự động...), công nghệ thông tin và chi phí logistics leo
thang, các cơng ty đã tập trung nhiều hơn vào logistics. Phân phối vật chất bắt đầu
đƣợc coi nhƣ là sự thay thế chiến lƣợc, giúp các công ty thích ứng, kiểm sốt với sự
bất ổn của nền kinh tế, góp phần làm doanh thu bán hàng tăng và giảm chi phí vận
tải và chi phí năng lƣợng. Với nguyên lý là cải tiến hoạt động sản xuất, hoạt động
marketing và kết quả tài chính nhờ nâng cao sự thỏa mãn của khách hàng. Do đó,
các cơng ty đã bị thu hút vào sự ra đời của quản lý logistics tích hợp nhằm hỗ trợ
hoạt động kinh doanh của công ty. Để giảm sự thiết hụt vốn, sự dao động của chi
phí và hàng hóa tồn kho, khái niệm “make or by” hoặc phân phối hợp đồng phụ đã
đƣợc các công ty cân nhắc. Các dịch vụ 3PL đã dần dần tăng về quy mô, số lƣợng,
loại dịch vụ và bao phủ toàn lãnh thổ. Hơn nữa, 3PL bắt đầu đƣợc coi nhƣ là một


18

phần của phân phối vật chất và chức năng sản xuất và bán hàng (make and sell).
Các công ty đã coi 3PL nhƣ là một sự thay thế nhằm cải thiện các hoạt động phân
phối, chi phí hiệu quả, đạt đƣợc chi phí và dịch vụ tối ƣu.
Giai đoạn 4: Từ cuối thập niên 70 đến cuối thập niên 80 của thế kỷ 20
Khái niệm 3PL thu hút ngày càng nhiều các cơng ty. Sự tồn cầu hóa và sự
phức tạp của các kênh phân phối đã thúc ép các công ty chuyển qua sự phân phối
qua bên thứ ba.
Đặc điểm chính của giai đoạn này là sự tồn cầu hóa, tiếp nối sau những điều

chỉnh liên tục về luật pháp và kinh tế. Sự phát triển ở các phần cịn lại của các quốc
gia Thái Bình Dƣơng và Australia vì nguồn lực và nhân cơng giá rẻ. Do vây, các
khu vực phi cơng nghiệp hóa đã có một sự tăng trƣởng ấn tƣợng. Ví dụ nhƣ Brazil
đã trở thành nƣớc dẫn đầu về công nghiệp ở Mỹ latinh và vùng Viễn Đơng đã cho
thấy sự phát triển tồn cầu. Hơn nữa, Liên Xô phát triển ấn tƣợng, trao đổi thơng
tin, dịch vụ tài chính, quản lý, quảng cáo, dịch vụ kỹ thuật và chuyên nghiệp cũng
tăng lên. Các công ty bắt đầu coi hệ thống logistics nhƣ là một nguồn tiềm năng của
lợi thế cạnh tranh và làm thế nào để tận dụng đƣợc nó. Sharman đã nhấn mạnh sự
cần thiết phải tái khám phá logistics, nhƣ là kết quả của rút ngắn vòng đời sản
phẩm, tăng các dòng sản phẩm, dịch chuyển chuỗi phân phối, và thay đổi kỹ thuật
(thông qua việc phát triển của xử lý dữ liệu máy tính). Sự phân quyền, vận chuyển
liên hợp, quản lý hàng gửi, các chính sách thƣơng mại làm tăng sự phức tạp của
kinh thƣơng mại và phân phối. Thêm vào đó, sự cải tiến trong viễn thơng và máy
tính đã cải tiến hiệu quả và quản lý chức năng logistics, cho phép sự phát triển của
chức năng phân phối thơng qua kênh tồn cầu phức tạp. Khái niệm logistics đã
đƣợc lan rộng ra khắp chiến lƣợc quản lý và mối liên quan chặt chẽ giữa logistics và
marketing bởi logistics trở thành con đƣờng giành đƣợc nhiều hơn sự thỏa mãn của
khách hàng. Sự phát triển của 3PLP chiếm một vai trị quan trọng trong quản lý
chiến lƣợc, và đóng góp cho hiệu quả của chi phí và dịch vụ.
Giai đoạn 5: từ cuối những năm 80 đến cuối những năm 90 của thế kỷ 20


19

Khái niệm 3PL trở thành yếu tố khác biệt trong lợi thế cạnh tranh của cơng
ty. Xu hƣớng tồn cầu hóa và tầm quan trọng của mối quan hệ hợp tác và đồng
minh nhƣ là một cách để tăng lợi thế cạnh tranh đòi hỏi 3PL nhƣ là chức năng sống
cịn để hỗ trợ cho các nhiệm vụ của cơng ty.
Đặc điểm chính của giai đoạn này là những hoạt động toàn cầu, những thay
đổi lớn về luật pháp và các khối thƣơng mại, chính trị. Sự mở rộng của hiệp ƣớc

GATT, sửa đổi INCOTERMS 1990, sự thống nhất và phát triển của các khối
thƣơng mại đã kéo theo một số thay đổi luật pháp.
Chủ đề bàn luận chính của các cơng ty trong giai đoạn này là việc tìm kiếm
lợi thế cạnh tranh và nguồn lực dựa trên quan điểm năng lực cốt lõi. Do đó, xu
hƣớng mới của logistics là logistics toàn cầu chú trọng vào dự trữ và logistics môi
trƣờng thông qua quản lý nguyên vật liệu tích hợp. Việc áp dụng các hệ thống
chun mơn đã thúc đẩy logistics đóng góp nhiều hơn vào lợi nhuận của công ty.
Tầm quan trọng của liên kết giữa marketing và logistics ngày càng đƣợc khẳng
định. Do đó, xu hƣớng mới cho quản lý logistics là logistics toàn cầu, logistics thuê
ngoài hay hợp tác logistics, marketing logistics “tin cậy - phản ứng nhanh – đổi
mới”, quan hệ kênh dài hạn và thuê ngoài sản xuất.
Nhờ vậy, 3PL giờ đƣợc cho là đã mang đến cho công ty lợi thế chiến lƣợc,
quản lý và kinh tế. Các dịch vụ 3PL tiếp tục tăng cả về quy mô và chủng loại dịch
vụ. Cung 3PL lớn hơn nhu cầu của công ty và xuất hiện dấu hiệu đầu tiên của cuộc
cạnh tranh khốc liệt giữa các 3PLP. Cải tiến và thay đổi dịch vụ 3PL đã góp phần
đáng kể cho việc lập kế hoạch và thực hiện chiến lƣợc của công ty khi các hoạt
động thƣơng mại trên toàn thế giới đạt đỉnh. Bởi sức ép từ cạnh tranh, cung cấp
toàn cầu, mạng lƣới phân phối, tái cấu trúc tập đoàn và sự kỳ vọng tăng cao nên các
kênh phân phối ngày càng trở nên phức tạp hơn.


20

1.2.4. Các hoạt động th ngồi logistics

Hình 1.2: Quy trình chuỗi logistics
Nguồn: Introduction to Logistics System Planning and Control, G.Ghiani,
G.Laporte & R.Musmanno, 2004, tr. 4
Supplier: Nhà cung cấp; Manufacturing plant: Nhà máy sản xuất; Assembly
plant: Nhà máy lắp ráp; CDC: Central distribution Centre (trung tâm phân phối

chính); RDC: Regional distribution Centre (trung tâm phân phối khu vực); Retail
outlets: Đại lý bán lẻ; Port: Cảng
Theo đó, quy trình chuỗi logistics nhƣ sau: nhà cung cấp  nhà máy sản
xuất ra bán thành phẩm từ nguyên liệu thô  nhà máy sản xuất ra thành phẩm từ
bán thành phẩm trung tâm phân phối chính  trung tâm phân phối khu vực, chi
nhánh  các điểm bán lẻ.
Qua quy trình trên, có thể thấy quá trình logistics bao trùm mọi yếu tố tạo
nên sản phẩm từ yếu tố đầu vào cho đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng.
Chuỗi logistics bao gồm rất nhiều các hoạt động nhƣ quản lý nguồn cung (supply
management), quản lý tồn kho (inventory management), quản lý và xử lý đơn hàng
(order management), đóng gói sản phẩm (packaging), vận tải (transportation), giao
hàng kịp thời (just-in-time), quản lý kho bãi (warehouse management), dịch vụ


21

khách hàng (customer services), hệ thống thông tin (IT system)…
Tại Việt Nam, dịch vụ logistics theo quy định tại Điều 233 Luật Thƣơng mại
đƣợc phân loại nhƣ sau:
► Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
● Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp
container;
● Dịch vụ kho bãi và lƣu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh
doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
● Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải
quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
● Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lƣu kho và
quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lƣu kho hàng hóa trong
suốt cả chuỗi logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả
lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng

hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
► Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
● Dịch vụ vận tải hàng hải;
● Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
● Dịch vụ vận tải hàng không;
● Dịch vụ vận tải đƣờng sắt;
● Dịch vụ vận tải đƣờng bộ.
● Dịch vụ vận tải đƣờng ống.
► Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
● Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
● Dịch vụ bƣu chính;
● Dịch vụ thƣơng mại bán buôn;


22

● Dịch vụ thƣơng mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lƣu
kho,
● Thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
● Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
Tuy nhiên, các hoạt động thuê ngoài trong logistics mà nhà cung cấp 3PL
thực hiện chủ yếu ở các hoạt động quản lý vận tải, hoạt động giao nhận, hoạt động
khai báo hải quan và lƣu kho, lƣu bãi. Đây là những hoạt động phổ thơng, th
ngồi giúp doanh nghiệp tận dụng đƣợc hiệu quả từ chun mơn hóa của nhà cung
cấp dịch vụ 3PL, đồng thời giảm thiểu chi phí và nguồn lực cho doanh nghiệp. Các
hoạt động khác nhƣ quản lý hàng tồn, quản lý nguồn cung, theo dõi đơn hàng hay
quản trị sản xuất đòi hỏi nhà cung cấp phải có năng lực lơn, chun mơn cao. Các
doanh nghiệp khơng th ngồi hoặc th ngồi rất ít các dịch vụ này do khơng đảm
bảo về chi phí và nguồn lực hạn chế nên doanh nghiệp khó khiểm sốt đƣợc một
cách hiệu quả, đồng thời rủi ro lại cao nên các hoạt động này khơng đƣợc th

ngồi phổ biến. Dƣới đây là một số hoạt động thuê ngoài logistics chủ yếu:

1.2.4.1 Hoạt động vận tải
Vận tải là khâu trọng yếu nhất của logistics, bởi kết quả của quá trình vận
chuyển và phân phối hàng hóa ảnh hƣởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quản lý vận tải hàng hóa nhằm quản lý công tác vận chuyển và phân phối hàng hóa
đúng thời hạn, an tồn, đảm bảo đủ khối lƣợng và chất lƣợng. Do đó, khi quyết định
lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ vận tải, các doanh nghiệp thƣờng dựa trên các tiêu
chí nhƣ chi phí, thời gian vận chuyển, độ tin cậy, năng lực vận chuyển và an tồn
hàng hóa.
Chi phí vận chuyển là yếu tố quan trọng mà doanh nghiệp cần phải cân nhắc
khi khi lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ vận tải. Trong chi phí vận chuyển, cƣớc vận
chuyển là chi phí lớn nhất và dễ nhận thấy nhất. Ngồi ra, cịn có chi phí tại bến nhƣ
phí thuê bến bãi, phí bốc dỡ, chất xếp hàng hóa… Chi phí vận chuyển tùy thuộc vào


23

từng loại hàng hóa, hình dạng trong khối, khối lƣợng và khoảng cách vận chuyển.
Thời gian vận chuyển: bao gồm tổng thời gian trọn gói từ khi chủ hàng gửi
từ điểm xuất phát đến địa điểm khách hàng yêu cầu, trong đó gồm các yếu tối nhƣ
tốc độ vận chuyển, thời gian bốc dỡ và chất xếp hàng hóa.
Sự nhanh chóng trong vận chuyển thể hiện qua tính ổn định về thời gian và
chất lƣợng dịch vụ chuyên chở hàng hóa trong những điều kiện xác định. Những
yếu tố tác động đến sự nhanh chóng trong vận chuyển là thời tiết, tình trạng giao
thơng, số lần dừng lại trên tuyến, thời gian tập hợp và giao nhận hàng hóa trên
đƣờng. Khả năng sai lệch thời gian vận chuyển là thƣớc đo của sự khơng chắc chắn
của q trình thực hiện vận chuyển hàng hóa. Nếu độ tin cậy thấp, thời gian vận
chuyển không ổn định, lúc nhanh lúc chậm sẽ gây nên tình trạng lúc thừa hàng, lúc
thiếu hàng khiến khách hàng bị thụ động trong kinh doanh.

Năng lực vận chuyển cho biết khối lƣợng hàng hóa và địa bàn hoạt động mà
đơn vị vận tải có thể chuyên chở đƣợc trong một khoảng thời gian nhất định, thể
hiện qua số lƣợng phƣơng tiện vận tải và các thiết bị đi kèm. Năng lực vận chuyển
còn thể hiện ở khả năng tiếp cận đúng địa điểm và vị trí yêu cầu của khách hàng.
An tồn hàng hóa: thơng thƣờng ngƣời vận chuyển sẽ phải chịu trách nhiệm
về những va đập, đổ vỡ hàng hóa trên đƣờng trừ trƣờng hợp bất khả kháng. Do đó,
để giảm thiểu những tổn thất đối với hàng hóa trong q trình vận chuyển, chủ hàng
cần có những bao bì thích hợp cho hàng hóa và xem xét mức độ an toàn trong dịch
vụ vận chuyển của các nhà cung cấp.

1.2.4.2 Hoạt động giao nhận
Theo FIATA, ngƣời giao nhận là “ngƣời lo toan để hàng hóa đƣợc chuyên
chở theo hợp đồng ủy thác và hành động vì lợi ích của ngƣời ủy thác. Ngƣời giao
nhận cũng đảm nhận thực hiện mọi công việc liên quan đến hoạt động giao nhận
nhƣ bảo quản, lƣu kho trung chuyển, làm thủ tục hải quan, kiểm tra thực tế hàng
hóa, bốc dỡ hàng hóa”. Ngƣời giao nhận có thể là chủ hàng (khi chủ hàng đứng ra


24

đảm nhiệm cơng việc giao nhận hàng hóa của mình), chủ tàu (khi chủ tàu thay mặt
chủ hàng thực hiện dịch vụ giao nhận), công ty xếp dỡ hay kho hàng, ngƣời giao
nhận chuyên nghiệp hay bất kỳ ngƣời nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao
nhận hàng hóa. Ngƣời giao nhận có thể thực hiện các dịch vụ giao nhận trong phạm
vi nhƣ thay mặt ngƣời gửi hàng, thay mặt ngƣời nhận hàng, dịch vụ hàng hóa đặc
biệt (giao nhận cơng trình, giao nhận hàng hóa treo trên móc, giao nhận hàng triển
lãm) và các dịch vụ khác.
Theo Hiệp hội giao nhận vận tải quốc tế Canada (CIFFA) thì giao nhận vận
tải là tất cả những việc làm cho dòng chảy của mua bán quốc tế diễn ra tốt đẹp
(Dƣơng Thị Quý, 2009).

Theo điều 163 Luật Thƣơng Mại Việt Nam 1997 ghi nhận giao nhận hàng
hoá là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá nhận
hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và
các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ
hàng, của người vận tải hoặc của người giao nhận khác.
Doanh nghiệp th ngồi thƣờng dựa vào các tiêu chí để lựa chọn ngƣời giao
nhận cho doanh nghiệp mình nhƣ sau:
Giao nhận hàng hóa phải nhanh gọn: Nhanh gọn thể hiện ở thời gian hàng
hóa đi từ nơi gửi đến nơi nhận, thời gian bốc xếp, kiểm đếm giao nhận. Giảm thời
gian giao nhận góp phần đƣa ngay hàng hóa vào đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Muốn vậy, ngƣời giao nhận phải nắm chắc quy trình kỹ thuật, chủng loại hàng hóa,
lịch vận chuyển và bố trí hợp lý phƣơng tiện vận chuyển.
Giao nhận hàng hóa phải chính xác, an toàn: Đây là yêu cầu quan trọng để
đảm bảo quyền lợi của chủ hàng và ngƣời vận chuyển. Chính xác là yếu tố quyết
định chất lƣợng và mức độ hồn thành cơng việc bao gồm chính xác về số lƣợng,
chất lƣợng, hiện trạng thực tế, chính xác về chủ hàng, nhãn hiệu. Giao nhận chính
xác an tồn sẽ hạn chế đến mức thấp nhất sự thiếu hụt, nhầm lẫn tổn thất về hàng
hóa.


25

Bảo đảm chi phí thấp nhất: Giảm chi phí giao nhận là phƣơng tiện cạnh tranh
hiệu quả giữa các đơn vị giao nhận. Muốn vậy, cần phải có sự đầu tƣ thích đáng cơ
sở vật chất, xây dựng và hồn chỉnh các định mức, các tiêu chuẩn hao phí, đào tạo
đội ngũ cán bộ nghiệp vụ.
Việc thuê ngoài hoạt động khai báo hải quan giúp doanh nghiệp tiết kiệm
thời gian, chi phí, đồng thời hạn chế những sai sót có thể xảy ra trong vấn đề tính và
nộp thuế. Mặt khác, các thủ tục thơng quan hàng hóa xuất nhập khẩu phức tạp và đa
dạng, ở mỗi nƣớc có những quy định riêng, khơng áp dụng giống nhau. Vì vậy, nếu

chứng từ không đƣợc chuẩn bị phù hợp và cẩn thận, thì bất kỳ sai lệch dù ở mức độ
nào đều có thể gây nên sự chậm trễ và làm phát sinh thêm chi phí và thậm chí bị
phạt vi phạm. Do đó, doanh nghiệp có thể giải quyết vấn đề này bằng việc thuê
ngoài thủ tục hải quan. Nhà cung cấp dịch vụ sẽ tƣ vấn và hƣớng dẫn thông quan tại
các nƣớc xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp thƣờng đánh giá nhà
cung cấp dịch vụ khai báo hải quan trên các tiêu chí nhƣ kinh nghiệm, chuyên môn
của ngƣời làm thủ tục hải quan, thời gian lập và xử lý chứng từ…

1.2.4.3 Hoạt động lưu kho, bãi
Kho là loại hình cơ sở logistics thực hiện việc dự trữ, bảo quản và chuẩn bị
hàng hóa nhằm cung ứng hàng hóa cho khách hàng. Hoạt động kho liên quan trực
tiếp đến việc tổ chức, bảo quản hàng hóa, dự trữ, chuẩn bị lô hàng theo yêu cầu kinh
doanh của doanh nghiệp. Kho bãi là nơi cất giữ nguyên vật liệu, bán thành phẩm,
thành phẩm trong suốt quá trình chu chuyển từ điểm đầu đến điểm cuối của quá
trình cung ứng và cung cấp thơng tin về tình trạng, điều kiện lƣu trữ và vị trí của
hàng hóa đƣợc lƣu kho. Khi quyết định thuê ngoài kho, bãi, doanh nghiệp cần cân
nhắc những yếu tố nhƣ mức độ sở hữu, mức độ tập trung.
Quyết định về mức độ sở hữu là quyết định của doanh nghiệp giữa việc tự
xây và khai thác kho riêng hay thuê không gian chứa hàng trong một khoảng thời
gian nhất định. Để đƣa ra quyết định doanh nghiệp cần phải cân đối giữa năng lực
tài chính và chi phí kho: nếu xây kho riêng thì phải có đầu tƣ ban đầu lớn về đất đai,


×