Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.15 KB, 28 trang )

Thực trạng phát triển thị trờng chứng khoán
ở việt nam
I. sự cần thiết phát triển TTCK ở việt nam:
Từ năm 1986, Đảng và nhà nớc ta thực hiện chính sách đổi mới nhằm
chuyển nền kinh tế từ hệ thống quản lý tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị tr-
ờng có sự điều tiết của nhà nớc. Công cuộc đổi mới đã kéo theo hàng loạt những
biến đổi tích cực trong đất nớc và đem lại một kết quả quan trọng bớc đầu.
Nhờ đa dạng hoá các hình thức sở hữu và thiết lập một cơ chế kinh tế hỗn
hợp bao gồm: Thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh
tế t bản t nhân. Trong nớc đã hình thành thị trờng vàng và ngoại tệ, nhà nớc đã thi
hành một loạt các chính sách về đầu t nớc ngoài đã đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bớc chuyển sang kinh tế thị trờng.
Đặc biệt trong những năm gần đây, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nớc và doanh nghiệp t nhân - diễn ra nhanh chóng. Cổ phần hoá một bộ phận khu
vực Doanh nghiệp Nhà nớc có liên quan mật thiết đến sở hữu công cộng thuộc
phạm trù quan hệ sản xuất, yếu tố có tính động lực rất mạnh thúc đẩy lực lợng sản
xuất xã hội và củng cố vai trò chủ đạo của khu vực Doanh nghiệp Nhà nớc. Cổ
phần hoá sẽ là đòn bẩy thúc đẩy quá trình phát triển thị trờng vốn, nhất là TTCK.
Cổ phần hoá là khâu then chốt, mũi nhọn của công cuộc đổi mới. Việc cổ phần
hoá phải tìm ra đợc những nguyên nhân thành công hay thất bại để rút ra đợc
những kinh nghiệm cần thiết nhằm tiến tới xây dựng và hoàn thiện cơ chế thích
hợp với điều kiện đất nớc.
Bảng 2: Một số công ty cổ phần và cơ cấu vốn của nó:
TT
Tên công ty
Ngày
chuyển
hình thức
Vốn điều
lệ
(Triệu


đồng)
Cơ cấu vốn
Nhà n-
ớc
(%)
CBCNV
(%)
Cổ
đông
ngoài
(%)
1
Cty cáp và vật liệu BCVT
(TCTBCVT)
1.1.98 120.000 49 10 41
2
Cty bao bì Bỉm Sơn
(TCT Xi măng)
8.1.99 38.000 50 8 42
3
Cty cơ khí xăng dầu
(Bộ thơng mại)
31.12.99 32.000 35 10 55
4
Cty Kinh doanh nhà Gia Định
(Tp HCM)
23.4.99 26.545 40 20 40
5
Cty điện cơ
(TCT Điện Lực)

31,12.98 25.000 40 70 10
6
CTCP bánh kẹo Biên Hoà
(Bộ NNPTNT)
1.11.98 25.000 10 60 30
7
CTCP quốc tế ASEAN
(HN)
30.12.98 20.000 5,46 10,91 83,63
8
CTCP Bình Minh
(TCTmay)
7.12.98 18.000 25 45 30
9
CTCP đồ hộp Hạ Long
(Bộ thuỷ sản)
30.12.98 18.000 40,8 18 41,2
10
CTCP in và bao bì Mỹ Châu
(Bộ NNPTNT)
10.12.98 17.000 45 20 35
11
CTCP Thành Công
(thuộc CTXD số 3 HN)
1.7.98 15.059 37,95 62,05 0
12
CTCP bê tông Biên Hoà
(Bộ Xây dựng)
20.11.98 15.000 70 20 10
13

CTCP thơng mại Thốt Nốt
(Cần Thơ)
1.7.98 15.312 49 21 30
14
CTCP gạch ngói Long Bình
(TpHCM)
28.12.98 15.000 35,83 10 51,17
15
CTCP Văn hoá Tân Bình
(TpHCM)
1.7.98 14.625 40 50 10
16
CTCP Hữu Nghị
(Nghệ An)
30.12.98 14.500 58 19 23
17
Cty xuất nhập khẩu
Nam Hà Nội.
25.5.98 12.800 57 43 0
18
Cty Kỹ nghệ lạnh
(Bộ thuỷ sản)
9.4.99 12.000 20 50 30
19
CTCP xe khách
(Nghệ An)
1.1.99 10.292 50 45 5
20
Cty XNK Tân Định
(tpHCM)

30.1.99 10.000 25 35 40
Nguồn: Tạp chí Tài chính số 1+8/99 (T liệu chơng trình nghiên cứu doanh nghiệp do CVSC quản lý)
Đối với Việt Nam, phát triển TTCK sẽ tạo ra một số thuận lợi cho phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội... Vì TTCK có một số u điểm phù hợp với điều kiện Việt
Nam.
TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn
tiết kiệm vào công cuộc đầu t. Một trong những phơng pháp đầu t phát triển của
bất kỳ một doanh nghiệp nào gọi là vốn từ bên ngoài đợc thực hiện qua việc phát
hành cổ phiếu hoặc vay tín dụng trung và dài hạn - phơng pháp này thực hiện khi
dân chúng có tiền tiết kiệm.
Hiện tại các Ngân hàng thơng mại, kho bạc Nhà nớc đã thực hiện huy động
tiết kiệm trong dân chúng, tức là đã có mục đích tiết kiệm, nhng tiết kiệm ở đây
cha gắn với đầu t, cha tạo nên nguồn vốn dài cho đầu t phát triển. TTCK phát triển
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các cơ sở tài chính, tín dụng huy
động dài hạn nguồn vốn tiết kiệm và để dành trong dân chúng vào quá trình đầu
t. Vì TTCK, một định chế giải quyết đợc các u điểm của các tổ chức tài chính, tín
dụng. Ngời có CK khi cần tiền có thể đa CK ra thị trờng bán lại.
TTCK giúp Nhà nớc thực hiện chơng trình phát triển xã hội. Bất cứ Nhà n-
ớc nào cũng phải có ngân sách để thực hiện chơng trình phát triển kinh tế xã hội.
Để có vốn cho chi tiêu, Nhà nớc phải áp dụng thu thuế, thu thuế là biện pháp quan
trọng nhất để tạo ra vốn cho ngân sách. Nhng thông thờng nguồn thu về thuế
không đủ chi tiêu. Do đó phải có một nguồn thu khác là kỳ phiếu - một hình thức
Nhà nớc vay tiền của dân chúng đã trở nên thông dụng và là một nguồn thu thờng
xuyên. Nhà nớc vay tiền của dân thông qua phát hành kỳ phiếu tại TTCK. Sự phát
triển TTCK sẽ giúp Nhà nớc bán kỳ phiếu một cách dễ dàng. Vì kỳ phiếu của Nhà
nớc cũng là một loại CK chuyển nhợng đợc, khi cần tiền chủ sở hữu có thể đa kỳ
phiếu ra bán tại TTCK.
TTCK là công cụ giảm áp lực lạm phát. Ngân hàng Nhà nớc với vai trò điều
hoà lu thông tiền tệ, khi xuất hiện hiện tợng lạm phát. Ngân hàng sẽ đa ra bán các
loại kỳ phiếu trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lu thông về.

Với chính sách khuyến khích bằng lãi suất và đảm bảo chi trả dân chúng sẽ sẵn
sàng mua kỳ phiếu Ngân hàng và từ đó giảm áp lực lạm phát.
TTCK tạo điều kiện thu hút vốn đầu t từ nớc ngoài. Đầu t vốn vào đâu để
không bị mất vốn và có lợi cao nhất là vấn đề các nhà đầu t nớc ngoài rất quan
tâm. Chính TTCK sẽ là nơi các nhà đầu t nớc ngoài theo dõi và nhận định hoạt
động của các ngành, các doanh nghiệp trong nớc. TTCK còn tạo ra môi trờng
thích hợp để các nhà đầu t nớc ngoài đầu t một cách dễ dàng. Họ chỉ cần bỏ vốn
vào TTCK để mua cổ phiếu, hoặc hợp tác với các doanh nghiệp trong nớc thành
lập công ty cổ phần, rồi đem bán cổ phần trên TTCK.
TTCK tự động hoá mọi nguồn vốn trong nớc. Các cổ phiếu, trái phiếu, kỳ
phiếu tợng trng cho một số vốn đợc mua đi bán lại trên TTCK nh một hàng hoá.
Ngời có vốn không sợ vốn của mình bị bất động vì khi cần họ sẽ bán lại các cổ
phiếu, trái phiếu này để thu tiền về chi tiêu hoặc đầu t vào loại cổ phiếu, trái phiếu
khác. Một khi đầu t vào CK dễ dàng và có lợi đối với mọi tầng lớp dân chúng thì
các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ lĩnh vực bất động hoá để tham
gia vào quá trình đầu t.
TTCK thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng hơn. Nhờ TTCK, các
doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các cổ phiếu, trái phiếu của họ. Ban
quản lý TTCK chỉ chấp nhận những cổ phiếu, trái phiếu của các công ty đủ điều
kiện: Số vốn điều lệ của Công ty là trên 10 tỷ đồng; Công ty có bảng cân đối tài
sản chính xác; Hoạt động kinh doanh có lãi 2 năm liên tục gần nhất tính đến ngày
lập hồ sơ xin phép phát hành; Có phơng án khả thi về sử dụng nguồn vốn thu đợc
từ cổ phần hoá. Với sự tự do lựa chọn của ngời mua cổ phiếu, để bán đợc cổ
phiếu, không có cách nào khác hơn là những nhà quản lý các doanh nghiệp phải
tính toán, làm ăn đàng hoàng hơn và có hiệu quả kinh tế. Hơn nữa luật lệ của
TTCK bắt buộc các doanh nghiệp tham gia TTCK phải công bố công khai các
báo cân đối tài chính. Kết quả kinh doanh hàng quý, hàng năm trớc dân chúng.
Qua đó dân chúng có cơ hội nhận đinh, đánh giá đợc công ty. Việc mua bán cổ
phiếu của công ty một cách tự do khiến ngời có cổ phiếu trở thành sở hữu chủ
công ty, họ có thể kiểm soát công ty một cách dễ dàng qua các cơ quan quản lý

công ty và nhận biết khả năng hoạt động của công ty qua sự chấp nhận của TTCK.
Từ đó thúc đẩy công ty làm ăn đàng hoàng hơn tốt hơn.
II. Những thuận lợi, khó khăn trong việc phát triển
TTCK ở VIệT NAM:
1.Những thuận lợi:
Sự chuyển biến kinh tế ở của nớc ta đợc đánh dấu bằng sự thay đổi căn bản
vào năm 1986 trong đờng lối của chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Cuộc cải cách
đó đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên một thị trờng
CK phát triển ở Việt Nam. Điều quan trọng là nhà nớc đã khẳng định sự đa dạng
hoá các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép giải phóng
mọi năng lực sản xuất kinh doanh huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực
cho công cuộc phát triển đất nớc. Những thành tựu kinh tế đáng khích lệ trong
mấy năm qua khá khả quan, lạm phát đợc giảm xuống còn 17.2% năm 1992 và
5.2% năm 1993 ổn định kinh tế đi đôi với tăng trởng, đầu t nớc ngoài tăng mạnh,
những điều này cho thấy ý tởng phát triển TTCK ở Việt Nam là khả thi. Trong
lĩnh vực phân phối lu thông một thị trờng hàng hoá thống nhất trong phạm vi cả n-
ớc đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chính sách một giá với nới lỏng kiểm soát
hối đoái đã tạo điều kiện cho hàng hoá lu thông thuận tiện giữa các miền trong cả
nớc, lãi suất tín đụng và tiết kiệm đã đợc ấn định trên cở sở tơng quan cung cầu về
vốn trên thị trờng và có tác dụng chống lạm phát. Quy luật cung cầu và quy luật
giá trị đợc phát huy tác dụng vốn có của nó. Tiến trình cải cách đã cho ra đời hàng
loạt các tổ chức kinh tế tài chính tín dụng, nhân hàng cổ phần bên cạnh hệ thống
ngân hàng quốc doanh ngày càng hoàn thiện cùng với sự có mặt của các ngân
hàng liên doanh. Yếu tố này hết sức quan trọng trong việc phát triển TTCK ở Việt
Nam.
Trong quá trình phát triển TTCK ở Việt Nam, chúng ta có một số thuận lợi
cơ bản sau:
- Chúng ta có hệ thống chính trị ổn định sau nhiều năm đổi mới, Việt Nam
đã thu hút đợc những thành quả hết sức phấn khởi. Thu nhập và mức sống của mọi

tầng lớp dân c đợc cải thiện rõ rệt,uy tín của Đảng cộng sản Việt Nam, ngời chỉ
huy mọi thắng lợi ngày càng đợc củng cố, nhân dân cũng nh các nhà đầu t trong
và ngoài nớc cũng vững tin hơn.
- Nền kinh tế nớc ta đang phát triển với tốc độ cao bình quân 8-9% năm
trong nhiều năm qua, theo dự báo mới nhất của ADB thì khả năng tăng trởng kinh
tế trong vài năm tới sẽ cao nhất ASEAN. Đây là tiền đề quan trọng để nẩy sinh ra
nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đủ điều kiện để phát hành CK, tạo ra
sức thu hút mạnh mẽ của TTCK.
- Nền kinh tế ổn định, lạm phát đợc khống chế. Lạm phát đợc kiểm soát
ngày càng chặt chẽ từ hai con số đến một con số vào những năm gần đây. Đó là
môi trờng vĩ mô hết sức thuận lợi để phát triển TTCK.
- Đảng và chính phủ đã có tầm nhìn đúng đắn và quan tâm, thoả đáng về
TTCK. Ngày 28-11-1996 Uỷ ban CK Nhà nớc, đứa con của nền kinh tế thị trờng
Việt Nam đã đợc thành lập với quyết định 75/CP của Thủ tớng Chính phủ. Đây là
hạt nhân quan trọng, cơ bản trong quá trình phát triển TTCK ở Việt Nam.
- Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế
của Đảng và Nhà nớc đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy
động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất và thị trờng vốn thu đó mà phát triển
và là tiền đề cho TTCK.
- Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt ngân hàng thơng
mại, tổ chức tài chính, tín dụng, cơ quan bảo hiểm và một số quỹ - nh hệ thống
ngân hàng cổ phần (hiện có 52 ngân hàng cổ phần, trong đó có 31 ngân hàng
thành thị và 21 ngân hàng nông thôn), hợp tác xã tín dụng, hệ thống ngân hàng th-
ơng mại quốc doanh, và sự có mặt của ngân hàng liên doanh, ngân hàng nớc
ngoài. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng đã làm cho hiệu quả
kinh doanh trong khu vực này ngày càng cao, lãi suất cho vay ngày một giảm.
Đây là chủ nhân và điều kiện quan trọng trong sự phát triển thị trờng vốn và là
tiền đề quan trọng để phát triển TTCK nớc ta.
-Để đạt mục tiêu tăng trởng kinh tế của Quốc hội đề ra tăng GDP bình quân
đầu ngời lên 2 lần vào thời kì 1990-2000, vốn đầu t xã hội cho thời kỳ 1996-2000

là trên 42 tỷ USD. Đây là khối lợng vốn rất lớn và mâu thuẫn gay gắt với khả năng
cung ứng. Đó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển TTCK n-
ớc ta.
-Nớc ta có số lợng hàng hoá, công trái Chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái
phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nớc, trái phiếu
ngân hàng, trái phiếu và cổ phiếu công ty. Đây là những tiền đề, những dấu hiệu
đầu tiên quan trọng cho sự phát triển các công cụ tài chính thuộc TTCK.
-Đảng và chính phủ có quyết tâm rất cao trong việc cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nớc và thực hiện chính sách cổ phần hoá nói chung. Từ nghị quyết hội
nghị TW II, ban chấp hành TW khoáVII; nghị quyết đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá
VII; nghị quyết X của bộ chính trị; nghị quyết đại hội VIII của Đảng, nghị quyết
kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá IX đều đã khẳng định điều đó Chính phủ cũng đã
thành lập ban cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc.
-Chúng ta có nhiều bộ luật và chúng ngày càng đợc bổ sung hoàn thiện nh:
Luật dân sự, Luật công ty, Luật doanh nghiệp t nhân, Luật đầu t nớc ngoài, Luật
khuyến khích đầu t trong nớc, Luật ngân sách, Luật thơng mại, Luật giải thể
doanh nghiệp và hàng loạt các văn bản dới luật nh: Pháp lệnh kế toán thống kê,
Pháp lệnh ngân hàng Đây là điều kiện, môi trờng pháp lý quan trọng cho phát
triển TTCK.
- Hệ thống thông tin cũng đang phát triển khá tốt. Hệ thống tin học cũng
phát triển khá nhanh, hệ thống kiểm toán kể cả kiểm toán nhà nớc và phi nhà nớc,
kiểm toán nớc ngoài đã đợc hình thành và ngày càng phát triển. Đây cũng là đầu
mối quan trọng để phát triển TTCK.
- Nớc ta là nớc phát triển sau nên có thể tận dụng đợc các kinh nghiệm của
các nớc đi trớc.
- Con ngời Việt Nam sẵn sàng chấp nhận rủi ro, dám mạo hiểm, có đức tính
cần cù, tiết kiệm và có ý chí làm giàu; chịu khó, thông minh, nhanh nhậy, ham
học hỏi. Từ đó có thể xây dựng và đào tạo đợc đội ngũ cán bộ tốt, có đủ khả năng
để hoạt động hữu hiệu.
- Ngời dân không còn tiết kiệm chủ yếu bằng vàng nữa( vì giá cả không ổn

định) mà dùng tiền mặt để gửi tiết kiệm, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc, hay
tham gia mua cổ phần.
- Nớc ta là nớc mới phát triển, tài nguyên cha đợc thăm dò và khai thác đầy
đủ. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu t nớc ngoài.
- Nhờ chính sách sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, kinh tế đối
ngoại đang thu đợc những thành quả rất đáng phấn khởi và là nhân tố cực kỳ quan
trọng cho sự phát triển của TTCK.
2. Những khó khăn:
Với nớc ta nền kinh tế cha thật ổn định, mặc dù trong những năm qua
chúng ta đã gặt hái đợc một số thành công nhng hiệu quả của nó còn thấp, tỷ lệ
tích luỹ đầu t còn thấp. Do vậy, việc phát triển TTCK ở Việt Nam còn gặp một số
khó khăn sau:
- Hàng hoá của TTCK Việt Nam hiện đang rất nghèo nàn cả về số lợng và
chủng loại, CK thờng là ký danh, tính thanh khoản kém.
- Công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc, tuy nhà nớc có quyết tâm
cao nhng thực tiễn lại bị ách tắc do nhận thức cha đầy đủ về nó. Một cản trở khác
rất quan trọng là: Mặc dầu việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc rất hợp ý
của Đảng, vừa lòng dân, nhng lại không vừa lòng ban lãnh đạo hiện tại và một bộ
phận ngời lao động kém hiệu quả của doanh nghiệp .
- Số công ty hội đủ các điều kiện để phát hành CK cha nhiều. Nh làm ăn có
hiệu quả, ổn định, chấp nhận phát hành CK ra công chúng rộng rãi, chấp nhận
công khai hoá thông tin. Và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, Công ty
Việt Nam trên thị trờng quốc tế cha cao.
- Hệ thống luật pháp của ta còn thiếu, cha đồng bộ và đang trong quá trình
phát triển và hoàn thiện dần. Bộ luật cho TTCK cha có. Cha có khung pháp lý và
biện pháp hữu hiệu để bảo vệ ngời đầu t.
- Việc thực thi luật pháp ở nớc ta nhiều khi không nghiêm chỉnh, và việc
xử lý các hành vi, vi phạm cha nghiêm minh, việc vận dụng pháp luật cũng hết
sức tuỳ tiện. Ví dụ: Chúng ta đã có pháp lệnh kế toán và thống kê, nhng trong
thực tế không ít doanh nghiệp có đến 2-3 quyết toán, không báo cáo thống kê,

hoặc báo cáo láo, sai thực tế.
- Hệ thống kiểm toán Việt Nam tuy đã đợc hình thành và tiến bộ, nhng vẫn
cha đáp ứng đợc nhu cầu của TTCK kể cả về số lợng và chất lợng nếu nó đợc
mở ra.
- Hệ thống kế toán thống kê tuy đã có những cải tiến, tiến bộ nhng nhìn
chung còn chắp vá, cha xây dựng đợc thành một hệ thống chuẩn mực quốc gia,
phù hợp với thông lệ quốc tế. Chất lợng thông tin cha cao, độ tin cậy còn thấp.
Bên cạnh đó hệ thống thông tin đại chúng, báo chí đôi khi vì một lý do nào đó (có
cả thiếu cẩn thận) đã đa thông tin sai sự thật hoặc thiếu chính xác.
- Thu nhập của đại bộ phận nhân dân lao động thấp, nớc ta là một trong
những nớc có GDP bình quân đầu ngời thấp nhất thế giới bởi vậy khi cổ phần hoá
doanh nghiệp ít ngời có tiền để mua cổ phiếu. Một số bộ phận, một số vùng có
tập quán ăn tiêu xa hoa. Nhân dân vẫn cha quen với CK, cha hiểu luật chơi. Tình
trạng lãng phí của công, tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản XHCN cha đợc đẩy lùi.
- Tập quán thanh toán bằng tiền mặt vẫn phổ biến trong dân chúng và ngay
đối với các doanh nghiệp. Hệ thống thanh toán qua ngân hàng còn yếu. Sự đổ vỡ
của một số ngân hàng, quỹ tín dụng, tiết kiệm, làm mất lòng tin của nhân dân.
- Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành TTCK còn non trẻ, thiếu cả về số lợng
và chất lợng, kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ, cha đợc huấn luyện nhiều.
Những thách thức lớn lao vẫn ở trớc họ.
- Yếu tố khác là niềm tin của nhà đầu t. Niềm tin dó cần đợc tạo dựng, duy
trì và phát triển bằng hàng loạt biện pháp. Cứ đổ vỡ nh quỹ tín dụng, ngân hàng cổ
phần trong thời gian qua thì niềm tin đó còn rất nhiều công sức mới khôi phục đ-
ợc. Đây là thách thức đáng kể đối với công tác xây dựng, phát triển TTCK nớc ta.
III. Những điều kiện cần thiết để phát triển TTCK
ở Việt Nam:
Bất kỳ một thị trờng nào không phải muốn có nó là có đợc ngay mà phải xác
định và tạo ra những điều kiện cho sự ra đời và phát triển của nó. ở đây ta xem
xét đến vấn đề: Điều kiện để TTCK phát triển ở Việt Nam là gì ?
Thói quen bao giờ cũng hình thành thông qua một quá trình. Quá trình đó

ngắn hay dài, phần lớn phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội cùng với trình độ
nhận thức của các bên tham gia thị trờng. Thị trờng chỉ ra đời và phát triển khi
nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó đã trở thành thúc bách đối với nhiều ngời
mua tiềm tàng trong xã hội, còn ngời bán thì đã nắm bắt đợc tín hiệu đó và đã có
những lô hàng hoá sẵn sàng bán thăm dò.
Đối với TTCK Việt Nam ở một đất nớc mà t tởng tiểu nông sản xuất nhỏ và
ăn chắc đã từng ngự trị trong suốt chiều dài lịch sử. Việc mọi ngời bỏ tiền ra mua
những chứng chỉ có giá, dù với hy vọng sau một thời gian sẽ thu đợc lợi nhuận
hay lãi suất so với số tiền bỏ ra hôm nay không phải là vấn đề hấp dẫn ngay trong
nay mai. Họ chỉ quan tâm tới những tấm gơng giàu lên chỉ vì tham gia thị trờng
này là bao nhiêu so với những ngời gặp rủi ro chỉ vì dám đặt chân vào vùng kinh
tế lạ lùng ấy.
Vì vậy, phát triển TTCK Việt Nam cần có các điều kiện:
1. Điều kiện về kinh tế tài chính:
Đây là nền tảng đảm bảo cho khả năng có các CK đợc đa ra mua bán trên thị
trờng. Nó đợc quyết định bởi các chính sách kinh tế và các định chế kinh tế tài
chính của Nhà nớc.
Hiến pháp 1992, chúng ta đã xác định chế độ kinh tế của nhà nớc là: Nhà n-
ớc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc theo định hớng Xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần với các hình thức đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, t
nhân.
Trên thực tế nớc ta hiện nay có hàng chục nghìn doanh nghiệp quốc doanh
đang hoạt động theo chế độ tự chủ là chính, có khoảng 700 doanh nghiệp đã đợc
cổ phần hoá(kể cả những doanh nghiệp cổ phần hoá theo luật công ty) và rất
nhiều doanh nghiệp t bản t nhân, Nhà nớc. Trong đó có nhiều doanh nghiệp cổ
phần hoá có khả năng và đợc phép phát hành CK, tạo hàng hoá cho TTCK.
Về tăng trởng và ổn định kinh tế vĩ mô. TTCK với t cách là vốn dài hạn có
thể phát triển trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, hệ thống tiền tệ, tỷ giá ổn
định và hệ thống các thị trờng vốn ngắn hạn đã đợc thiết lập, hoạt động trôi chảy

và có hiệu quả. Bởi vậy, duy trì tốc độ tăng trởng kinh tế cao, khống chế lạm phát
ở mức một con số, ổn định tỷ giá và triển khai hệ thống thị trờng tiền tệ, thị trờng
hối đoái là bớc đi đầu tiên nhng rất quan trọng trong việc phát triển TTCK Việt
Nam. Hệ thống thị trờng vốn ngắn hạn, đặc biệt là thị trờng tín phiếu kho bạc là
cơ sở để hình thành lãi suất ngắn hạn của thị trờng. Lãi suất này là tiêu chuẩn cho
lãi suất dài hạn đối với các loại trái phiếu cũng nh giá cổ phiếu trên thị trờng CK.
Mặt khác phát triển thị trờng vốn ngắn hạn sẽ tạo ra môi trờng thuận lợi cho
Chính phủ thực hiện và điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả, qua đó ổn định
kinh tế và duy trì mức tăng trởng cao.
Chính sự tăng trởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những điều
kiện cần thiết để phát triển TTCK. Mấy năm qua, tăng trởng kinh tế của Việt Nam
đạt vào khoảng 8% năm, đó chính là kết quả của việc điều hành kinh tế vĩ mô của
Chính phủ và sự cố gắng của tất cả các ngành, các cấp địa phơng. Nhng xuất phát
điểm của Việt Nam còn thấp, nếu chúng ta duy trì đợc mức tăng trởng 8-10% năm
thì trong vòng 15 năm thu nhập bình quân đầu ngời sẽ tăng lên gấp đôi.
Nếu xuất phát từ sự phân tích công thức phân bổ GDP:
C + I +G + X - IM = C + S + T (1)
Trong đó:
C - Tiêu dùng
I - Đầu t

×