Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.84 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
1. Tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam. (Từ 2007 – 2010): nên đưa số
liệu thực tiễn vì e thấy phần này lý thuyết hơi nhiều, ví dụ: các bảng biểu so
sánh, sơ đồ hình biến động chứng khoán-phần này nhóm có thể lấy số liệu
của nhóm bạn Quý-dã báo cáo môn Thị trường Tiền tệ
1.1. Tình hình niêm yết chứng khoán:
Thị trường chứng khoán VN bắt đầu hoạt động từ năm 2000, khởi thuỷ là sự
kiện thành lập Trung tâm chứng khoán TP. Hồ Chí Minh ngày 11 tháng 7 năm
1998 theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg và thực hiện phiên giao dịch đầu
tiên vào ngày 28 tháng 07 năm 2000. Trong khi đó, trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội thành lập vào ngày 08 tháng 03 năm 2005. Tiếp sau là các sự kiện
thành lập Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh ngày 11 tháng 05 năm
2007 theo Quyết định số 599/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ và Sở giao
dịch Hà Nội trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
Khởi thuỷ, thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ có 2 mã Cổ phiếu niêm yết là
SAM và REE, đến năm 2005, số công ty niêm yết đã lên 32 công ty, cho đến
nay, số lượng đã vượt qua con số 300, gồm các loại chứng khoán và chứng chỉ
quỹ tổng trên cả 2 sàn niêm yết, với giá trị lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Tuy có
những tình hình phát triển khả quan như vậy về số lượng, nhưng về mặt giá trị
thì tuy có gia tăng nhưng đã gây ra những biến động thăng trầm có những lúc
đến không ngờ, và nếu không thoát khỏi thị trường kịp thời trong những lúc
giảm điểm kịp thời thì các nhà đầu tư cũng sẽ gặp những rủi ro về vốn của
mình.
1.2. Tình hình giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động được 10 năm, trải qua nhiều thăng
trầm, nhưng có thể nói những diễn biến trong giai đoạn từ 2007 đến 2010 là đầy
biến động nhất và nhiều sự kiện nhất. Tuỳ theo giá trị về vốn chủ sỡ hữu mà các
công ty có thể niêm yết Cổ phiếu của mình ở những thị trường Hà Nội, vốn
dưới 80 tỷ hay là TP. Hồ Chí Minh, vốn trên 80 tỷ.
Tình hình giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua,
d0a85c biệt là từ những năm 2007 đến 2010 cực kỳ sôi động, các công ty đại


chúng, các tập đoàn tài chính, đặc biệt là lĩnh vực Ngân hàng và Bảo hiểm cũng
thay nhau lên sàn. Đến thời điểm hiện nay, ở mỗi sàn giao dịch, tổng giá trị giao
dịch lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Ngày trước, các công ty niêm yết chủ yếu là
những công ty vừa cổ phần hoá, tham gia niêm yết vì sự kêu gọi từ phía Nhà
nước; còn bây giờ Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh liên tục thông
báo nhận hồ sơ niêm yết từ nhiều công ty từ các đô thị lớn đến các tỉnh xa, từ
công ty tư nhân cho đến các công ty có gốc là doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay cũng còn những hạn chế
nhất định. Có những ý kiến cho rằng cơ sở pháp lý và điều kiện quản lý hiện
nay chưa thực sự giúp thị trường đủ lớn mạnh và được như mong muốn của
những công ty niêm yết, đó là làm sao để doanh nghiệp, kể cả ngân hàng, khi
cần vốn có thể tìm đến thị trường chứng khoán. Đến ngày hôm nay, thị trường
chứng khoán vẫn chủ yếu là giao dịch cổ phiếu có sẵn, còn những giao dịch gọi
vốn qua thị trường để thay thế nguồn vốn ngân hàng thì vẫn chưa nhiều, do đó
chúng ta cần có những giải pháp căn cơ hơn để giải quyết vấn đề cốt yếu này để
thị trường phát triển và tăng quy mô của thị trường lên, đáp ứng đúng mục tiêu
huy động vốn của thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.3. Tình hình biến động chỉ số VN-Index:
Theo đà thăng trầm của tình hình niêm yết và tình hình giao dịch trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, (thì chỉ số VN-Index, chỉ số giao dịch chứng khoán Việt
Nam tại sàn TP. Hồ Chí Minh và chỉ số HASTC-Index, chỉ số tại sàn giao dịch
Hà Nội, cũng có những biến động không ngừng và hầu như hai chỉ số này luôn
luôn biến động cùng chiều với nhau.) phần tô vàng sửa thành Chỉ số HNX-
index tại sàn Hà Nội và chỉ số HOSE-index tại sàn TPHCM, hai chỉ số này hầu
như luôn biến động.
Có thể nhìn lại diễn biến chỉ số VN- Index trong mười năm qua để thấy hết
thăng trầm. Chỉ non 01 năm sau khi mở cửa thị trường, vào tháng 06-2001, chỉ
số này đã leo lên 571 điểm. Ở giai đoạn tốt đẹp này, với sự chào đón nồng nhiệt
của công chúng đầu tư trong điều kiện hiếm hàng (do có ít công ty niêm yết), thị
trường nóng lên là không có gì khó hiểu. Chính cái bẫy tăng nóng, tình trạng

thiếu đáp ứng nhiều mặt, cùng sự thoả mãn, thất vọng và sợ hãi đan xen vào
thời kỳ sơ khai này đã kéo thị trường xuống đáy sâu chưa đầy hai năm sau đó.
Hậu quả là VNI-Index rớt liên tục xuống còn 139 điểm vào tháng 4-2003. Vào
giai đoạn bỉ cực này, có lúc cả cổ phiếu tên tuổi cũng bị đẩy xa về phía dưới
mệnh giá. Từ đó, thị trường rơi vào giai đoạn ngủ đông cho đến hết năm 2005.
Sau đó, thị trường lại ấm lên vào năm 2006, rồi sốt cao, đỉnh điểm là chỉ số
VNI-Index cao nhất từ trước đến nay 1.170 điểm vào tháng 03-2007, một chỉ số
kỷ lục mà mãi cho đến nay vẫn chưa tìm thấy được. Sự hưng phấn quá trớn này
làm cho mọi người cứ nghĩ đó là xu thế, là quy luật, để rồi đoán non đoán già
rằng VNI-Index sẽ còn vượt lên trên 2000 điểm! Thật may là điều đó đã không
xảy ra. Thay vào đó là giai đoạn điều chỉnh dài ngày, ảm đạm suốt năm 2008, và
chỉ dừng lại ở cái đáy sâu 235 điểm vào tháng 2-2009.
Thị trường trong những gia đoạn ảm đạm đã tụt đốc không phanh, có thể quy
cho một số tác động kinh tế, bởi lúc này, khách quan trên thế giới đã xảy ra cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới do Mỹ châm ngòi, tạo ra những tác động tiêu cực
trên toàn thế giới về kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Tuy
vậy, điều đáng nói ở đây chính là thực tế lúng túng trong cách ứng phó và các áp
đặt mang tính hành chính từ phía các nhà quản lý thị trường, được cho là đã gây
nên tình trạng thị trường có lúc như bị mất lửa. Bảng điện tử đỏ đều suốt tháng,
bi quan lây lan bao trùm, tình trạng tháo lui khỏi thị trường diễn ra tràn lan…
Thế nhưng, vào thời điểm vắng lặng làm cho không ít nhà đầu tư rời bỏ thị
trường với nỗi lo “sập sàn” thì thị trường như bừng tỉnh lại. Trong vòng bảy
tháng, từ tháng 3 đến 10-2009 thị trường đã tăng ngoạn mục từ 235 đến 633
điểm. Không ít nhà đầu tư đã tận dụng cơ hội này để kiếm lại những gì đã mất
trước đó.
Có thể nói tóm lại rằng, thị trường chứng khoán lắm thăng trầm nhưng cũng
không kém cuốn hút. Chỉ tính ba năm gần đây thôi đã có bốn thời đoạn vui
buồn kịch tính: hoành tráng 2007, sóng gió 2008, thử thách 2009 và ẩn số 2010.
Hy vọng rằng, với những nỗ lực không ngừng nghỉ và tâm huyết của các nhà
quản lý, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có những bước phát triển tốt hơn

trong tương lai.
2. Các mặt hạn chế của TTCK Việt Nam – nguyên nhân.
2.1. Các mặt hạn chế:
Tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng thị trường chứng khoán
Việt Nam còn non trẻ nên còn có một số hạn chế sau:
+ Sự tăng trưởng của thị trường chưa bắt nguồn từ động cơ tích cực khi
nhà đầu tư còn chạy theo phong trào, thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư dài
hạn. Số lượng nhà đầu tư còn hạn chế so với tiềm lực dân số và tiềm năng về
vốn của nền kinh tế, số lượng nhà đầu tư nước ngoài chưa nhiều và nhà đầu tư
có tổ chức còn rất hạn chế. Các nhà đầu tư trong nước đa số hiểu biết chưa thật
đầy đủ về cơ chế hoạt động của TTCK, tầm nhìn chiến lược còn ngắn hạn. Mặt
khác còn do sự thiếu trung thực trong việc cung cấp thông tin của các công ty,
đã làm cho không ít nhà đầu tư không còn đủ tin cậy để sử dụng các thông tin
này trong việc ra quyết định. Từ đó xuất hiện một số nhà đầu tư “chơi chứng
khoán” như đánh bạc, họ sẵn sàng dốc hầu bao của mình ra để thử vận may.
Hậu quả là, theo ước tính của một số chuyên gia kinh tế thì ít nhất có 0,5 triệu
người/hộ gia đình; và nhiều nhất là 1 triệu người/hộ gia đình (số liệu này không
tưởng khi trong hộ gia đình mà có đến 0,5 triệu hay là 1 triệu) đã lâm vào tình
trạng phá sản do đầu tư chứng khoán theo kiểu đánh bạc.
+ Tính thanh khoản thị trường thấp dẫn đến mất cân đối cung – cầu, làm
cho giá cả biến động thất thường. Tính thanh khoản của chứng khoán là khái
niệm thể hiện khả năng chuyển đổi dễ dàng từ tiền sang chứng khoán và ngược
lại. Thị trường có những lúc không thể hiện đúng giá trị của nó. Giá chứng
khoán bị thổi phồng theo tin đồn mà không phải căn cứ vào tình hình tài chính
thực sự của công ty, đương nhiên sẽ nhanh chóng bị xẹp xuống khi có tin đồn
xấu. Thị trường thiếu những công ty hoạt động thực sự hiệu quả, có tầm nhìn
chiến lược dài hạn, các “blue chip” khá ít ỏi đã khiến cho thị trường có tính
thanh khoản kém, khó ổn định trước những cơn bão tài chính.
Biên độ giao dịch chứng khoán hiện nay trên các sàn có sự chênh lệnh khá lớn
(HOSE với biên độ 5%, HNX với 7% và Upcom là 10%). Điều này sẽ dẫn đến

tình trạng đầu cơ gia tăng khi thị trường có biến động mạnh.
+ Hệ thống các tổ chức trung gian hỗ trợ cho hoạt động của thị trường còn
nhiều hạn chế. Khung pháp lý của thị trường còn nhiều bất cập khi mà luật
chứng khoán đã ban hành song chưa đầy đủ ở một số hành vi như: giao dịch
khống, giao dịch tín dụng, giao dịch các sản phẩm phái sinh. Các hành vi tiêu
cực xảy ra trong các hoạt động kinh doanh đầu tư chứng khoán bị xử phạt theo
luật chứng khoán là chưa thích đáng với mức độ gây hại của nó. Theo thống kê
của Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM trong năm 2007 có các hành vi tiêu cực
sau:
Có 135 công ty chứng khoán vi phạm khi đặt lệnh: Hủy lệnh trong cùng
đợt khớp lệnh, đặt mua vượt quá tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài…
Giao dịch của các cổ đông lớn không báo cáo.
Giao dịch của những người liên quan không công bố thông tin.
Nhân viên công ty chứng khoán mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại
công ty chứng khoán khác.
Nhiều người mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán khác
nhau.
Trong năm 2008 thì số trường hợp vi phạm là 137.
Đã có một số vụ thao túng thị trường và giao dịch nội gián. Điển hình là vụ
thao túng thị trường đối với các cổ phiếu của Công ty kỹ nghệ khoáng sản
Quảng Nam (MIC), Công ty cổ phần Vincom (VIC), Công ty cổ phần
Vinpearland (VPL), vụ thao túng thị trường đối với cổ phiếu của các công ty cổ
phần xi măng Cần Thơ (CCM), vụ giao dịch nội gián đối với cổ phiếu của các
công ty, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm thủy sản Bến Tre (FBT), Công ty
cổ phần phát triển nhà Thủ Đức (TDH), Công ty cổ phần khoáng sản Hà Nam
(KSH).
Tuy nhiên mức xử phạt hiện hành theo Nghị Định 36/2007/NĐ-CP chỉ dừng lại
ở mức xử phạt hành chính tối đa là 70 triệu đồng. Điều này thật sự chưa hợp lý
vì lý do việc thu lợi từ việc vi phạm nhiều hơn so với mức đóng phạt hành
chính. Điều này chưa đủ sức răn đe.

2.2. Nguyên nhân.
Thứ nhất: Hàng hóa trên thị trường tuy có tăng về số lượng nhưng chưa đa
dạng về chủng loại. Thị trường niêm yết hiện nay chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và
chứng chỉ quỹ, chưa có công cụ phái sinh. Điều này không làm tăng tính đa
dạng trong hoạt động đầu tư. Thiếu công cụ phòng ngừa hạn chế rủi ro khi thị
trường có biến động lớn.
Thứ hai: Các công ty niêm yết phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa
có sự tham gia của các tập đoàn kinh tế lớn nên khả năng cạnh tranh chưa cao
nên chưa làm yên lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra công tác quản trị, chế độ kế
toán của các công ty niêm yết có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế
điều này gây trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Thông tin chưa minh bạch,
chính xác điều này gây mất niềm tin đối với nhà đầu tư.
Thứ ba: Nguồn nhân lực cho hoạt động của thị trường còn hạn chế cả về
số lượng và chất lượng. Phần lớn nhân lực trong lĩnh vực chứng khoán chưa
được đào tạo chính quy và đúng chuyên môn mà từ các lĩnh vực chuyển sang
nên còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cũng như nội dung
đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực chứng khoán còn rất nhiều hạn chế. Hiện
tại, Ủy ban chứng khoán nhà nước là cơ quan duy nhất được phép đào tạo và
cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán, do vậy việc đào tạo gì, cấp bằng gì, chất
lượng ra sao không có ai phản biện nên khó nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực này. Ngoài ra việc thanh tra, giám sát hoạt động của công ty chứng khoán
còn lỏng lẻo và chưa triệt để nên sai phạm của các công ty này diễn ra thường
xuyên làm xói mòn niềm tin vào thị trường.
Thứ tư: Số lượng công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam so với quy
mô thị trường tương đối nhiều, tuy nhiên còn thiếu về nhiều mặt. Hạ tầng kỹ
thuật của các công ty chứng khoán chưa được đầu tư đúng mức, cho nên các
công ty chứng khoán tuy nhiều nhưng chất lượng hoạt động chưa cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu của thị trường. Phần mềm Giao dịch chứng khoán tại Sở giao
dịch chứng khoán TP. HCM là phần mềm chuyển giao từ Thái Lan trước đây,
khi có sự cố phải mời các chuyên gia Thái Lan sang khắc phục, gây tốn nhiều

chi phí và không mang tính chuyên nghiệp mất nhiều thời gian để chuyên gia
Thái Lan sửa lỗi. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến nhiều lần
“sập sàn” do quy mô giao dịch tăng đột biến những năm 2007. Tính chuyên
nghiệp của thị trường chưa cao. Điều này thể hiện ở thị trường chưa minh bạch,
kiến thức chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với nhà đầu tư còn hạn
chế, pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán chưa ổn định…
Thứ năm: Hiện trung tâm lưu ký quản lý tài khoản trực tiếp của công ty
chứng khoán mà chưa quản lý cụ thể đến từng nhà đầu tư. Điều này không kiểm
soát được việc nhà đầu tư mở một lúc nhiều tài khoản qua nhiều công ty chứng
khoán khác nhau. Quan trọng hơn chính vấn đề này nhiều công ty chứng khoán
có cơ hội vi phạm như dùng đòn bẩy tài chính, bán chứng khoán ngày T, T+1,
T+2, phân bổ chứng khoán của công ty chứng khoán cho nhà đầu tư không
chính xác, điều này gây nên sự những nhiễu và bất lợi cho nhà đầu tư nhỏ.
3. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán Việt Nam. (phần này nên nêu
một cách khái quát các định nghĩa, chứ không nên nêu cụ thể trách nhiệm
và quyền hạn, chỉ cần có sơ đồ minh họa cơ cấu tổ chức là được)
3.1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập ngày
28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính
phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Với vị thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về chứng
khoán và TTCK, UBCKNN có vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị các
điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng thời tổ chức và quản lý nhà nước về
chứng khoán và TTCK với mục tiêu chính là tạo môi trường thuận lợi cho việc
huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức,
an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của các nhà đầu tư.
UBCKNN là cơ quan thuộc Chính phủ, có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của một cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK; quản lý
nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Với Nghị

định số 90/2003/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 12/8/2003 thay thế
Nghị định số 75/CP, UBCKNN có các nhiệm vụ, quyền hạn:
• Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được Thủ
tướng Chính phủ phân công ký các văn bản quy phạm pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
• Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, các
chương trình, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm và các dự án quan trọng
của UBCKNN; tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, chương trình, kế
hoạch sau khi được phê duyệt;
• Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn,
quy trình, quy phạm chuyên môn nghiệp vụ và định mức kinh tế - kỹ thuật
được áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định của pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
• Cấp, gia hạn, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép phát hành, niêm yết,
kinh doanh và dịch vụ chứng khoán, hành nghề kinh doanh chứng khoán
theo quy định của pháp luật;
• Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt
động hoặc giải thể Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng
khoán, các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức;
• Tổ chức, quản lý Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch
Chứng khoán và các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức, các trung
tâm lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán;
• Quản lý các hoạt động liên quan đến thị trường chứng khoán của tổ
chức phát hành chứng khoán, tổ chức niêm yết chứng khoán, tổ chức kinh
doanh chứng khoán và tổ chức phụ trợ theo quy định của pháp luật;
• Thanh tra, kiểm tra và giám sát các đối tượng tham gia hoạt động
trên thị trường chứng khoán và xử lý các vi phạm về chứng khoán và thị
trường chứng khoán theo quy định của pháp luật;
• Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng thuộc thẩm quyền theo quy
định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc

lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo yêu cầu của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ;
• Hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tổ chức hiệp hội chứng khoán
thực hiện mục đích, tôn chỉ và điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra thực
hiện các quy định của Nhà nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật của hiệp hội chứng khoán theo quy
định của pháp luật;
• Tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường chứng
khoán; đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức của
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các đơn vị trực thuộc, nhân viên kinh
doanh chứng khoán và các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán;
• Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức về chứng khoán
và thị trường chứng khoán cho các tổ chức và cho công chúng;
• Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán theo quy định của pháp luật;
• Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính
của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình
cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
• Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền
lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán
bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước;
• Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách
được phân bổ theo quy định của pháp luật;
• Thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và
các cơ quan nhà nước có thẩm quyề theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của UBCKNN theo Nghị định 90/2003/NĐ-CP của Chính phủ:

×