Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.48 KB, 31 trang )

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT
NAM
I. Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt
Nam
Trên con đường hội nhập và phát triển, Việt Nam đang đứng trước một
đòi hỏi rất lớn về vốn đầu tư xã hội trong khi thị trường tài chính thì chưa
hoàn thiện còn thị trường vốn vẫn còn sơ khai. Trong khi đó, những người dân
đang nắm trong tay một số lượng tiền nhàn rỗi lớn lại tỏ ra không mấy mặn
mà với việc đầu tư. Họ thường chọn các phương pháp để dành phi kinh tế như
lấy tiền mặt để đi mua vàng, USD, bất động sản… những thứ mà họ có thể
kiểm soát được. Nếu có đầu tư thì chủ yếu họ sẽ đầu tư vào lĩnh vực thương
mại, dịch vụ chứ không phải sản xuất. Theo như kết quả điều tra cho thấy,
hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư là khoảng hơn 4 - 6 tỷ USD, chiếm
tới 40% - 50% khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Thế nhưng phần đông
công chúng khi có tiền dư thường gửi tiết kiệm ở ngân hàng, ở Hà Nội là 53%,
TP Hồ Chí Minh là 30%, hiện nay số dư tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân cư
khoảng 4 tỷ USD. Số những người cất tiền ở nhà là 15%
1)
. Ngoài ra một bộ
phận rất lớn công chúng đầu tư vào bất động sản, gây nên những cơn sốt nhà
đất hoặc nếu chưa tìm được phương án đầu tư hợp lý thì đưa tiền vào tiêu
dùng. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói
riêng đang đứng trước tình trạng thiếu vốn gay gắt. Khả năng huy động vốn
của các doanh nghiệp vẫn còn rất thấp, phương pháp huy động vốn nghèo nàn
chủ yếu trông chờ từ vốn ngân sách và các khoản tín dụng ưu đãi từ ngân
hàng. Kể từ khi Luật doanh nghiệp ra đời đã tạo ra môi trường hoạt động
thông thoáng cho các doanh nghiệp nhưng mức độ phát triển còn nhiều hạn
chế, quy mô còn nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và các khoản vay qua
1


)
Theo Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2002
1
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp, việc tiếp cận được
với nguồn vốn ngân hàng là rất khó khăn do cơ chế ngân hàng có những đòi
hỏi hết sức khắt khe. Thực tế cũng cho thấy rằng tín dụng ngân hàng không
thể thoả mãn được hết nhu cầu về vốn của các chủ thể kinh tế. Không chỉ có
các doanh nghiệp, mà nhà nước cũng có nhu cầu về vốn rất lớn để phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vốn
tín dụng của chính phủ chủ yếu dựa trên nguồn vốn ODA, thông qua các đợt
phát hành công trái, trái phiếu chính phủ hay huy động qua hệ thống ngân
hàng thương mại.
Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng
tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập ra các Quỹ đầu
tư chứng khoán là rất cần thiết. Sự phát triển của loại hình Quỹ đầu tư chứng
khoán sẽ giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai trò
thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự hiện diện của Quỹ đầu tư mang lại những
lợi ích cho các thị trường tiếp nhận nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là các thị
trường mới nổi.
Quỹ đầu tư cung cấp nguồn vốn dài hạn và ổn định. Nguồn vốn và chiến
lược đầu tư dài hạn của Quỹ đầu tư góp phần tăng cường khả năng huy động
những nguồn vốn dài hạn và ổn định, giảm mức độ phụ thuộc của người sử
dụng vốn vào các nguồn tài chính có tính biến động cao như nguồn tín dụng
ngắn hạn do hệ thống ngân hàng cung cấp.
Một tính chất của Quỹ đầu tư là đầu tư gián tiếp nên làm giảm lo ngại
của chính phủ về vấn đề sở hữu tập trung, thâu tóm doanh nghiệp của người
nước ngoài đối với các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, các Quỹ đầu tư (Quỹ

đóng) thường được các chính phủ cho phép tham gia đầu tư trước khi thị
trường chứng khoán được mở cửa cho những người đầu tư trực tiếp.
2
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Quỹ đầu tư đóng góp vào sự phát triển thị trường vốn. Những người quản
lý thường mang theo mình những kỹ năng điều hành và phân tích đầu tư
chuyên nghiệp. Người quản lý quỹ thường đòi hỏi những chuẩn mực cao trong
hoạt động lưu ký, thanh toán bù trừ, công bố thông tin và giám sát thị trường.
Kết quả là cơ sở thị trường được củng cố vững chắc.
Quỹ cung cấp các phương tiện đầu tư đa dạng. Trước sự phát triển của
nền kinh tế cùng với mức độ tích luỹ tài sản tài chính, người đầu tư có xu
hướng phát sinh nhu cầu về các phương tiện đầu tư tài chính đa dạng. Để đáp
ứng nhu cầu này, các công ty quản lý quỹ đầu tư phát triển những sản phẩm
đầu tư tài chính đa dạng và linh hoạt về thời gian đáo hạn, tính sinh lợi và mức
độ an toàn. Sự đa dạng và linh hoạt của các phương tiện đầu tư này giúp cho
việc huy động nguồn vốn trong xã hội trở nên triệt để hơn.
Chứng chỉ quỹ làm tăng tính thanh khoản của thị trường. Sự tham gia của
những nguồn vốn mới từ bên ngoài vào một thị trường chứng khoán thường
làm tăng mức cầu về chứng khoán, gia tăng tính thanh khoản của các chứng
khoán và như vậy sẽ thu hút được các nhà đầu tư Việt Nam mà cho đến nay
chỉ quen giữ hoặc gửi tiền của mình vào các tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng
và nhờ đó các doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ dàng hơn.
Ngoài ra, Quỹ đầu tư chứng khoán còn cung cấp cơ hội cho nhà đầu tư vươn
ra thị trường nước ngoài hoặc tái đầu tư khoản cổ tức và thặng dư vốn vào
quỹ.
Sự hiện diện của các Quỹ đầu tư kích thích tăng trưởng đối với các doanh
nghiệp. Các quỹ cung cấp những nguồn vốn rủi ro cao và kỹ năng quản lý
khoa học, đem lại những cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao.

Trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, sự cần thiết
của Quỹ đầu tư còn thể hiện ở một số điểm sau:
3
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
- Thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu mới
thành lập trong đó hầu hết các công ty chưa đủ uy tín và sức mạnh để hấp dẫn
được các nhà đầu tư cá nhân. Do đó, khi công chúng đầu tư chưa tích cực
tham gia vào thị trường thì vai trò của các nhà đầu tư có tổ chức như công ty
chứng khoán, công ty bảo hiểm, Quỹ đầu tư… là hết sức quan trọng đối với sự
ổn định của thị trường. Trên thị trường sơ cấp, những người đầu tư có tổ chức
đóng vai trò tích cực trong việc tham gia, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát
hành, phân phối chứng khoán, giúp các chủ thể phát hành huy động vốn một
cách hiệu quả, tạo thêm hàng hoá cho thị trường. Trên thị trường thứ cấp, với
kỹ năng phân tích đầu tư chuyên nghiệp và nguồn vốn lớn, dài hạn người đầu
tư có tổ chức góp phần kiểm soát sự biến động giá chứng khoán do sự mất cân
đối cung cầu, tạo sự ổn định cần thiết trên thị trường thứ cấp.
- Quỹ đầu tư là một phương tiện đầu tư hiệu quả đối với những người
không được trang bị những kỹ năng đầu tư chuyên nghiệp. Trong khi đại bộ
phận người đầu tư có kiến thức về đầu tư chứng khoán còn rất hạn chế thì vai
trò của Quỹ đầu tư càng trở nên có ý nghĩa. Việc tiếp cận đối với những nguồn
thông tin đa dạng cộng với những chiến lược đầu tư khoa học trong hoạt động
của quỹ khiến cho nguồn vốn đầu tư gián tiếp qua quỹ trở nên an toàn hơn.
Mặt khác, chức năng chuyển đổi nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội thành
nguồn vốn đầu tư trên phạm vi rộng làm cho Quỹ đầu tư trở thành phương tiện
rất hiệu quả trong việc huy động vốn nhàn rỗi rộng rãi trong công chúng, phát
huy nội lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Đồng thời, kỹ năng
nghiên cứu, phân tích đầu tư chuyên nghiệp của quỹ sẽ góp phần hướng dẫn
thị trường, nâng cao trình độ hiểu biết cũng như kỹ năng đầu tư chứng khoán
của công chúng, giúp nâng cao tính xã hội hoá của hoạt động đầu tư.

- Việc cho phép người nước ngoài đầu tư thông qua Quỹ đầu tư có thể
giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực có thể phát sinh nếu mở cửa thị trường
cho người nước ngoài đầu tư trực tiếp ngay trong giai đoạn đầu. Những ảnh
4
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
hưởng tiêu cực này có thể là việc người nước ngoài thâu tóm quyền kiểm soát
công ty, hay sự rối loạn trên thị trường chứng khoán do sự dịch chuyển đột
biến của các luồng tài chính. Thêm vào đó, trước sự giảm sút của nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thì việc cho phép đầu tư gián tiếp
của nước ngoài thông qua các Quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể
được coi là một giải pháp hữu hiệu tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, đồng thời là bước đi phù hợp của Việt Nam trong việc tiếp cận thị
trường vốn quốc tế. Quỹ đầu tư là phương tiện thuận tiện, đơn giản và linh
hoạt cho phép người nước ngoài đóng góp và tham gia vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế Việt Nam.
Tóm lại, trong điều kiện hiện nay sự ra đời và hoạt động của các quỹ đầu
tư chứng khoán là một tất yếu khách quan quyết định đến sự ra đời và vận
hành của thị trường chứng khoán, góp phần tạo lập thị trường vốn, mở ra một
kênh huy động vốn trung - dài hạn phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và phát triển đất nước.
II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam
Sau khi có các cơ sở pháp lý về thị trường chứng khoán tại Việt Nam, cụ
thể là sau khi Nghị định 48/1998/NĐ-CP, cùng với một số văn kiện quan trọng
khác, Uỷ ban chứng khoán nhà nước Việt Nam (SSC) đã ban hành quy định
Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty
quản lý quỹ. Mới đây, vào ngày 28/11/2003, Nghị định 144 về chứng khoán
và thị trường chứng khoán ra đời, thay thế hoàn toàn cho Nghị định 48. Về cơ
bản, những quy định về Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ trong
Nghị định 144 vẫn chưa có gì thay đổi so với Nghị định 48.

Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty
quản lý quỹ định nghĩa Quỹ đầu tư chứng khoán như sau “Quỹ đầu tư chứng
khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư, được uỷ thác cho công
5
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư vào chứng khoán tối thiểu 60% giá trị tài sản
của quỹ”. Theo định nghĩa trên thì quỹ phải đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản
của mình nhưng lại không có quy định tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán niêm yết
hay không niêm yết. Mặt khác, trong Nghị định 144 thì thuật ngữ “chứng
khoán” được hiểu là các chứng khoán niêm yết. Như vậy, Quỹ đầu tư chứng
khoán không thể đầu tư với tỷ lệ giới hạn 60% vào chứng khoán được vì hiện
nay hàng hóa niêm yết trên thị trường chứng khoán còn quá ít, điều này làm
cho các Quỹ đầu tư không thể dễ dàng tồn tại. Bên cạnh đó, định nghĩa về Quỹ
đầu tư chứng khoán như trên là quá hẹp, không có lợi trong việc phát triển
một thị trường chứng khoán năng động, hiệu quả.
Cũng theo tinh thần của quy chế, chỉ có hai loại quỹ căn bản được đề cập,
đó là Quỹ đầu tư chứng khoán đóng (Quỹ đóng) và Quỹ đầu tư chứng khoán
mở (Quỹ mở). Như thế, các hình thái quỹ khác không hoặc chưa được thành
lập, thiếu hẳn các loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán đa dạng khác. Theo định
nghĩa của quy chế, một quỹ được gọi là đóng khi người đầu tư không thể bán
lại chứng chỉ đầu tư cho quỹ đó trong suốt thời gian tồn tại của quỹ. Tổng trị
giá chứng chỉ quỹ đầu tư bán được trong đợt phát hành lần đầu tối thiểu đạt
5 tỷ VNĐ và số người sở hữu chứng chỉ tối thiểu là 100 người. Ngược lại, với
Quỹ mở, người đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ đầu tư cho quỹ mà họ đã
mua và số lượng chứng chỉ quỹ đầu tư bán được trong đợt phát hành lần đầu
đạt tối thiểu 15% tổng số chứng chỉ xin phép phát hành tối đa. Số lượng chứng
chỉ phát hành được hạn chế theo một mức tối đa quy định trong điều lệ quỹ đã
được phê duyệt. Như vậy, tổng vốn huy động của Quỹ mở bị giới hạn trước,
không giống như cơ chế huy động và quản lý vốn của một Quỹ tương hỗ mà ta

đã biết. Đối với Quỹ mở, công ty quản lý quỹ phải thường xuyên duy trì tỷ lệ
tài sản lưu hoạt ghi trong điều lệ quỹ. Tài sản lưu hoạt là phần tài sản có của
quỹ bao gồm tiền mặt và các tài sản khác có khả năng chuyển đổi thành tiền
mặt trong 15 ngày. Tỷ lệ này tối thiểu phải bằng 20% tổng giá trị tài sản của quỹ.
6
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Tham gia trong quá trình hoạt động của quỹ chủ yếu có công ty quản lý
quỹ và ngân hàng giám sát. Công ty quản lý quỹ đứng ra quản lý quỹ, phát
hành chứng chỉ đầu tư, cử người điều hành, quản lý hoạt động và chịu trách
nhiệm về hiệu quả và pháp lý của quỹ. Ngân hàng giám sát đảm nhận việc bảo
quản, lưu ký các chứng khoán mà quỹ nắm giữ để kinh doanh, lưu giữ các hợp
đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan tới tài sản của quỹ, đồng thời giám sát
hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Thành viên
hội đồng quản trị công ty quản lý quỹ, người điều hành công ty quản lý quỹ và
những người điều hành quỹ không được là cổ đông của ngân hàng giám sát.
Theo nội dung của quy chế, công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư là hai
thực thể được cơ cấu và tổ chức khác nhau. Công ty quản lý quỹ cùng lúc có
thể khai sinh và quản lý nhiều quỹ độc lập nhau, đồng thời có sự độc lập cả về
tài sản, các nghĩa vụ tài chính giữa công ty quản lý quỹ và một Quỹ đầu tư nào
đó. Người điều hành quỹ là người được công ty quản lý quỹ chỉ định để trực
tiếp điều hành hoạt động của một quỹ. Trong khi công ty quản lý quỹ được tổ
chức và hoạt động như một doanh nghiệp, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có hội
đồng quản trị và hệ thống hành chính nhân sự… thì Quỹ đầu tư là một tập hợp
có điều lệ và tài sản độc lập nhưng không có bộ máy điều hành riêng gắn trực
tiếp với nó. Quỹ đầu tư không là pháp nhân mà chỉ có đại hội những người
đầu tư do công ty quản lý quỹ hoặc ngân hàng giám sát triệu tập có điều kiện
và tuỳ thuộc vào tình huống được nêu trong quy chế. Các Quỹ đầu tư khi được
tổ chức theo SSC thì thực chất có thể xem là các sản phẩm của công ty quản lý
quỹ đầu tư. Tuy nhiên, theo định nghĩa của quy chế, chúng lại được xem là tài

sản uỷ thác cho công ty quản lý quỹ để quản lý. Đồng thời, quyền lợi và nghĩa
vụ đối với một quỹ của công ty quản lý quỹ nào có thể được chuyển nhượng
cho một công ty quản lý quỹ khác nếu được SSC chấp thuận.
Một số quy định về cơ cấu vốn và điều kiện đầu tư của công ty quản lý
quỹ và Quỹ đầu tư được nêu trong quy chế như sau:
7
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
- Một Quỹ đầu tư chứng khoán, cả Quỹ đóng và Quỹ mở, phải đầu tư tối thiểu
60% tổng giá trị tài sản của chúng vào chứng khoán.
- Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ đầu
tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành
và không được đầu tư quá 10% tổng giá trị tài sản của một quỹ vào chứng
khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành.
- Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của quỹ để cho
vay và bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào, và không được phép vay để tài trợ
cho hoạt động của quỹ trừ trường hợp vay ngắn hạn để trang trải cho các chi
phí cần thiết.
- Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ để
đầu tư trực tiếp vào bất động sản quá 10% giá trị tài sản của quỹ.
- Một quỹ không được nắm giữ quá 10% tổng vốn cổ phần của một công ty
không niêm yết, đồng thời không được sử dụng quá 5% tổng giá trị tài sản của
quỹ để đầu tư vào riêng tại một công ty không niêm yết nào đó.
- Một quỹ không được nắm giữ quá 30% tổng giá trị tài sản của các công ty
trong cùng một tập đoàn hay một nhóm công ty có quan hệ sở hữu lẫn nhau.
- Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của các quỹ do
mình quản lý để mua quá 49% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của
một tổ chức phát hành (đã tham gia thị trường chứng khoán) hoặc một công ty
không niêm yết.
Nếu theo các điều kiện trên ta có thể thấy rằng nó sẽ gây khó khăn cho

các Quỹ đầu tư trong quá trình hoạt động. Mục tiêu của các quỹ là hỗ trợ cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà hầu hết các doanh nghiệp này đều có mức
vốn dưới 10 tỷ VND. Điều này dẫn đến tỷ lệ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp
trên tổng nguồn vốn của quỹ là quá thấp và cũng vì vậy mà quỹ đầu tư vào
8
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
nhiều doanh nghiệp khác nhau. Kết quả là chi phí quản lý cao, dẫn đến các
công ty sẽ thu được lãi thấp.
Về việc giải thể của quỹ. Quỹ chỉ được giải thể trong trường hợp kết thúc
thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ quỹ, hoặc trong trường hợp phải giải thể
quỹ nhằm bảo vệ lợi ích người đầu tư. Việc giải thể phải xin phép Uỷ ban
chứng khoán nhà nước và chỉ được chấp thuận khi phương án giải thể quỹ phù
hợp với quyền lợi người đầu tư. Trong trường hợp công ty quản lý quỹ phá
sản, tài sản thuộc quỹ là của người đầu tư và không được tính là tài sản của
công ty quản lý quỹ. Không ai được sử dụng vốn hay tài sản của của quỹ để
thanh toán những khoản nợ của công ty quản lý quỹ.
Tóm lại, mặc dù quy chế công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư còn quy định
nhiều điều bất cập nhưng sự ra đời của nó mang một ý nghĩa rất lớn, là một
cột mốc quan trọng và là sự quyết tâm lớn của Uỷ ban chứng khoán nhà nước
Việt Nam. Ý nghĩa của nó thể hiện ở chỗ nó thúc đẩy hoạt động đầu tư tài
chính nước nhà vào buổi đầu còn bỡ ngỡ, nhất là quá trình cổ phần hoá, hợp
nhất các định chế về mặt luật cho các loại công ty và đặc biệt là sự hình thành
của thị trường chứng khoán.
III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt
Nam
Sau khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, đặc biệt là kể từ khi Luật
đầu tư nước ngoài được ban hành vào tháng 2 năm 1998, hàng loạt công ty
đầu tư nước ngoài đã bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Cùng với làn sóng đầu tư
đó, trước năm 1993 khi có thông tin về sự hình thành của thị trường chứng

khoán Việt Nam, một số Quỹ đầu tư cũng đã được thành lập. Đây là các quỹ
đầu tư tư nhân thành lập ở nước ngoài nhưng được phép vào hoạt động có hạn
chế ở Việt Nam.
- Tháng 10 năm 1991 : Vietnam Fund
9
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
- Tháng 06 năm 1992 : Vietnam Keppel Fund (The Vietnam Investment
Fund Ltd.)
- Tháng 08 năm 1993 : Beta Vietnam Fund
- Tháng 07 năm 1994 : Vietnam Frontier Fund
- Tháng 07 năm 1994 : Vietnam Enterprise Investment Fund
- Tháng 09 năm 1994 : Templeton Vietnam Opportunities Fund
- Tháng 10 năm 1994 : Lazard Vietnam Fund
Tất cả các quỹ này đều được niêm yết ở Dublin, Ireland do lệnh cấm vận
Việt Nam của Mỹ trước tháng 9 năm 1994. Sau khi dỡ bỏ lệnh cấm vận,
Templeton Vietnam Opportunities Fund được thành lập và niêm yết ở New
York Stock Exchange.
Cuối năm 1994, mặc dù số vốn các quỹ huy động chưa được đầu tư hoàn
toàn nhưng giá giao dịch của các quỹ trên tất cả các thị trường chứng khoán
đều được giao dịch ở mức Premium. Đây là thời gian các quỹ phát triển rất
mạnh mẽ do thực tế năm 1993, 1994 là những năm cao điểm của đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam. Việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận là một trong những lý do
chính đem lại sự thành công vang dội này. Chính vì vậy, cổ phiếu của các quỹ
đều được giao dịch ở mức Premium.
Bảng 2.1 : Hoạt động của các quỹ vào tháng 11 năm 1994
Nguồn: Reports by Baring Securities, Merril Lynch
Tên quỹ
Vốn huy động
(triệu USD)

Giá cổ phiếu
(USD)
Mức Premium/
Discount
TTCK
Dạng quỹ
Vietnam Fund
75 15 + 40.6% Dublin Đóng
Vietnam Keppel Fund
12.5 - - - Đóng
Beta Vietnam Fund
68.3 52.5 + 4.6% Dublin Đóng
Vietnam Frontier Fund
27.5 5.5 +10.2% Dublin Đóng
10
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Vietnam Lazard Fund
58.8 - - - Đóng
Templeton Vietnam Fund
117 - + 6.1% NYSE Đóng
Tất cả các quỹ trên nhìn chung đều được gọi là các Quỹ nội địa vì tất cả
vốn của chúng đều được đầu tư vào một quốc gia riêng lẻ. Phương pháp đầu tư
thông thường của các quỹ là mua cổ phiếu của các công ty không được niêm
yết, các công ty được cổ phần hoá hay tham gia vào sự hình thành của các
công ty mới như là những cổ đông sáng lập. Do ở Việt Nam vào năm 1993,
1994 không có thị trường chứng khoán nên các Quỹ đầu tư không có sự lựa
chọn nào hơn là đầu tư vào những công ty không niêm yết. Vì vậy, sự thành
thạo chuyên môn của họ trong việc điều hành các danh mục đầu tư bị hạn chế
và các quỹ buộc phải đầu tư vào những công ty không được niêm yết một cách

hấp tấp. Phụ thuộc vào kỹ năng quản lý, khả năng tiếp cận, các quỹ sẽ đầu tư
vào những lĩnh vực khác nhau. Nhìn chung, tới năm 1998 các quỹ đầu tư vào
những lĩnh vực sau:
- Bất động sản: toà nhà văn phòng, khách sạn, tổ hợp giải trí…
- Vật liệu xây dựng
- Dệt may
- Dược
- Sản phẩm nông nghiệp, chế biến thực phẩm
- Vận tải công cộng
- Sản xuất than thép
- Ngân hàng, tài chính
- Dịch vụ y tế và giáo dục
- Xây dựng
- Thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông
11
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Tiêu chuẩn để quyết định đầu tư vào một dự án là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ
IRR (ít nhất là 20%), tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng cao, thời kỳ hoàn vốn ngắn
(5 năm hoặc ít hơn, ngoại trừ các dự án đầu tư vào bất động sản) bởi vì thời
gian hoạt động của các quỹ thông thường 10 năm là cao nhất. Dự án còn phải
có triển vọng được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong thời gian này,
khi chưa có thị trường chứng khoán Việt Nam thì cổ phiếu của một số dự án
đã được niêm yết ở thị trường chứng khoán Hồng Kông hay Singapore. Quá
trình để đưa ra quyết định đầu tư bằng cách chọn lựa và đánh giá mỗi dự án
trước khi chúng được đưa ra hội đồng thẩm định đầu tư của mỗi quỹ là một sự
chuẩn bị với sự thận trọng ở mức cao nhất và rất chuyên nghiệp. Những đánh
giá đầu tư như vậy không chỉ liên quan tới bản thân quỹ mà còn phải cần đến
dịch vụ của kiểm toán, công ty luật để giúp quỹ đưa ra những quyết định đúng
đắn nhất. Quá trình này thông thường phải mất 6 tháng để đưa ra quyết định.

Trong thực tế, mỗi quỹ phải xem xét 300 tới 400 dự án để chọn ra khoảng 30
dự án làm thành một danh sách đầu tư tiềm năng. Từ danh sách này, hội đồng
quản trị của quỹ sẽ lựa chọn ra khoảng 15 đến 20 dự án để đầu tư.
Với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, một vài quỹ đã điều chỉnh cả những
quy định của thể chế tài chính để có thể đầu tư vào các công ty tiềm năng trên
thị trường Việt Nam. Khi chưa có những văn bản luật nào cho phép sự tham
gia của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng địa phương, các quỹ đã táo bạo
đầu tư vào những ngân hàng cổ phần tư nhân. Nhiều quỹ đã sử dụng thoả
thuận khoản vay có thể chuyển đổi để có thể đầu tư sớm vào ngân hàng ACB,
ngân hàng Maritime hay ngân hàng AP…
Khi đầu tư vào Việt Nam, các quỹ phải đối mặt với nhiều rào cản làm
hạn chế đầu tư. Với hành lang pháp lý còn nhiều bất cập, những hạn chế trong
việc chuyển đổi tiền tệ, rủi ro tỷ giá đi liền với sự quan liêu và gánh nặng hành
chính ở mọi cấp… đã làm giảm giá cổ phiếu của quỹ. Thêm vào đó, khủng
hoảng tài chính khu vực năm 1997 và những hạn chế khác đã ảnh hưởng tới
12

×