Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.78 KB, 27 trang )

TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU QUẢ KINH
DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Cùng với sự vận động và phát triển kinh tế, nhu cầu đầu tư và tích luỹ
trong xã hội không ngừng tăng và ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Những
người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn
rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Từ đó trong nền kinh tế cũng hình thành nên một
cơ chế chuyển vốn từ tiết kiệm sang đầu tư. Lúc đầu sẽ xuất hiện những khoản
vay trực tiếp, dựa trên quan hệ quen biết cá nhân để giải quyết nhu cầu vốn của
mình. Tuy nhiên, khi cung cầu vốn tăng lên thì hình thức này không đáp ứng
được nữa. Thực tế đòi hỏi phải xuất hiện các trung gian tài chính, mặt khác do
nhu cầu về các khoản vốn lớn nên phải có các cách khác nhau để vay vốn. Các
nhà đầu tư phát hành ra chứng khoán để vay vốn. Thị trường tài chính xuất hiện.
Thị trường chứng khoán nằm trong thị trường tài chính dài hạn thông qua
cơ chế tài trợ trực tiếp, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng
các loại chứng khoán dài hạn.
Cho tới nay, thị trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là không
thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất
là những nước đang phát triển cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế
quốc dân.
1.Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường.
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế
thị trường phát triển.Thị trường chứng khoán là chiếc cầu nối vô hình giữa cung
và cầu vốn trong nền kinh tế. Một thị trường chứng khoán lành mạnh và hoạt
động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế,
tạo sự lành mạnh trong việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế một
cách có hiệu quả nhất.
Thị trường chứng khoán góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán là công cụ huy động
vốn đầu tư cho nền kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát hành
và luân chuyển chứng khoán có giá. Việc mua đi bán lại chứng khoán trên thị


trường chứng khoán đã tạo điều kiện di chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu
vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu tư từ ngành này sang ngành khác, từ đó
góp phần điều hoà vốn giữa các ngành kinh tế, phá vỡ ‘‘tính ỳ’’ của đầu tư
trong sản xuất, tạo ra những động năng cho sản xuất kinh doanh, góp phần tạo
nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là
một định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài chính, là chất xúc tác quan
trọng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy các hoạt động
kinh tế.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư
nước ngoài. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi mà các
nhà đàu tư nước ngoài có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động
của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, thị trường chứng khoán
thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường đầu tư thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
lành mạnh và có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp muốn huy động được vốn và
duy trì vốn thông qua thị trường chứng khoán phải tính toán, làm ăn đàng
hoàng, lành mạnh và có hiệu quả ngày càng cao. Nếu không thì doanh nghiệp
và ban lãnh đạo sẽ được quyết định bởi thị trường.
Thị trường chứng khoán là phương tiện giúp chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế, tài chính. Bên cạnh việc tăng thu ngân sách từ thuế, Nhà
nước thường sử dụng biện pháp phát hành trái phiếu Nhà nước-một hình thức
tín dụng Nhà nước, trong đó Nhà nước vay tiền của công chúng.
Thị trường chứng khoán còn là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và
phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng của
các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia. Các thị giá chứng khoán được
thể hiện thường xuyên trên thị trường đã phản ánh giá trị phần tài sản Có của
doanh nghiệp, mức độ đầu tư, trạng thái kinh tế. Chỉ có những doanh nghiệp
làm ăn lành mạnh, có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt đẹp thì giá
trị thị trường của chứng khoán công ty mới cao và ngược lại. Ngoài ra, thị

trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của nền kinh tế, giúp những người
đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương
lai của nền kinh tế.
Rõ ràng, với cách thức hoạt động mềm dẻo linh hoạt của thị trường chứng
khoán, thị trường chứng khoán đã phát huy vai trò tích cực và có ý nghĩa quan
trọng đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
2. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán thường nhìn vào 3 mục tiêu lớn: hoạt động có
hiệu quả, điều hành công bằng, phát triển ổn định. Để đạt được mục tiêu đó, thị
trường chứng khoán phải tuân thủ các nguyên tắc sau :
Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này đòi hỏi việc mua bán chứng khoán phải thực hiện thông
qua môi giới trung gian. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không
mua trực tiếp nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị
trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới kinh doanh, các công ty
chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các
khách hàng với nhau qua việc thực hiện cácgiao dịch mua bán chứng khoán trên
tài khoản của mình. Nguyên tắc trung gian đảm bảo cho thị trường hoạt động
lành mạnh, đều đặn, hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Có
tác dụng đảm bảo an toàn về chứng khoán, tránh chứng khoán giả mạo, trộm
cắp chứng khoán, khắc phục những hạn chế về không gian của sàn giao dịch.
Điều này thể hiện rõ hơn trên thị trường chứng khoán tập trung – tức là Sở giao
dịch chứng khoán.
Nguyên tắc đấu giá:
Mục tiêu của thị trường chứng khoán là cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy
không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán, mà giá cả chỉ có
thể xác định căn cứ vào sự tác động qua lại của cung và cầu chứng khoán theo
nguyên tắc đấu giá. Giá cả của chứng khoán được định ra trên nguyên tắc thị
trường. Vì vậy thị trường chứng khoán được coi là thị trường mang tính tự do
nhất trong các loại thị trường.

Nguyên tắc công khai thông tin :
Để đảm bảo công bằng trong buôn bán và hình thành giá chứng khoán,
đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán, giảm các hoạt động gian
lận trong kinh doanh chứng khoán, mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán
đều phải được công khai, như các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên
thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty phát hành
chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá cả các loại chứng khoán giao
dịch.Việc công khai thông tin về thị trường chứng khoán đòi hỏi thoả mãn các
yêu cầu về tính chính xác, tính kịp thời và tính dễ dàng.
Tất cả những nguyên tắc này đều được thể hiện bằng các văn bản pháp
quy, các đạo lụât, các quy chế, điều lệ của từng thị trường chứng khoán, nhằm
bảo vệ cho các nhà đầu tư và ràng buộc các thành viên của thị trường chứng
khoán, tạo điều kiện ổn định và phát triển thị trường chứng khoán.
3. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán.
Trên thị trường chứng khoán, hàng hoá của thị trường bao gồm nhiều
loại. Nhưng xét về mặt lich sử và theo cách gọi có tính thống nhất, các loại hàng
hoá này đều có tên là chứng khoán. Có thể hiểu khái quát chứng khoán là những
chứng thư dưới dạng vật chất hoặc điện tử (bút toán ghi sổ) xác nhận quyền sở
hưũ hợp pháp của chủ chứng khoán và có thể được mua bán, trao đổi, chuyển
nhượng trên thị trường chứng khoán
Thông thường chứng khoán gồm 3 loại cơ bản là: Chứng khoán vốn: Cổ
phiếu (Equity securities); Chứng khoán nợ: Trái phiếu (Debt securities); Chứng
khoán phái sinh: Các chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán
(Derivatives).
Cổ phiếu:
Là một chứng thư xác nhận quyền sở hữu đối với tài sản và vốn của công
ty cổ phần, do đó nó được coi là một tài sản thực sự. Người sở hữu cổ phiếu
được gọi là cổ đông. Các cổ đông được hưởng quyền lợi hợp pháp tại công ty cổ
phần tuỳ theo tỉ lệ vốn tham gia vào công ty cổ phần đó.
Trái phiếu:

Là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối vớ
người sở hữu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với tiền lãi
trong một thời hạn nhất định.
Các chứng khoán phái sinh:
Trên thị trường chứng khoán, bên cạnh các giao dịch mua bán các chứng
khoán vốn, chứng khoán nợ, còn có các giao dịch mua bán các chứng từ tài
chính khác như chứng quyền, chứng khế, quyền lựa chọn…Các chứng từ tài
chính nay được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi
sang chứng khoán qua mua bán. Do đó, người ta gọi chúng là các chứng từ có
nguồn gốc tài chính hoặc các chứng khoán phái sinh.
4. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể tham gia hoạt động
theo nhiều mục đích khác nhau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể trung
gian chứng khoán, chủ thể quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường
chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
Chủ thể phát hành:
Đây là những người cần tiền và huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán và bán cho những người đầu tư hoặc những người kinh doanh chứng
khoán. Chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ
chức khác theo qui định của pháp luật.
Chủ thể đầu tư:
Người đầu tư là người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư và thị trường
chứng khoán bằng cách thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Có 2 loại chủ thể đầu tư là nhà đầu tư cá
nhân và các tổ chức đầu tư.
Chủ thể trung gian chứng khoán:
Nhà trung gian chứng khoán có thể hoạt động với tư cách là nhà trung
gian cá nhân, tổ chức trung gian ( pháp nhân ). Vai trò chủ yếu của nhà trung
gian chứng khoán là kinh doanh, môi giới và bảo lãnh chứng khoán, ngoài ra
còn thực hiện các nghiệp vụ khác như tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, giao dịch mua

bán chịu chứng khoán ...
Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng
khoán:
Thực hiện việc quản lý và giám sát ngành công nghiệp chứng khoán là
một cơ quan chuyên trách theo dõi, hỗ trợ, kiểm soát, chỉnh lý, điều hoà hoạt
động các thị trường chứng khoán trong cả nước.
Các tổ chức liên quan:
Ngoài các tổ chức trên, trên thị trường chứng khoán còn có các tổ chức
quan trọng khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị trường chứng
khoán như Sở giao dịch chứng khoán; tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ
chứng khoán; tổ chức dịch vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng
khoán; Hiệp hội đầu tư chứng khoán; Hiệp hội kinh doanh chứng khoán; công
ty tín thác đầu tư; các tổ chức dịch vụ vi tính về chứng khoán; trung tâm đào tạo
và hành nghề chứng khoán.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1. Mô hình tổ chức công ty chứng khoán.
Trong hoạt động của thị trường chứng khoán, tuỳ theo luật định ở mỗi
nước mà các Ngân hàng, tổ chức tín dụng hay công ty chứng khoán có vai trò
nhất định trên thị trường. Ở các nước kinh tế thị trường, trong hệ thống ngân
hàng hoạt động theo mô hình ngân hàng chuyên doanh hay ngân hàng đa năng
một phần, các công ty chứng khoán là các chủ thể quan trọng và đông đảo của
thị trường chứng khoán, thực hiện nhiều nghiệp vụ cơ bản trong lĩnh vực này.
Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phổ biến về công ty chứng khoán
sau:
Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán:
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty
chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận,
các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán, được áp
dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada… Mô hình này có ưu
điểm là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho thị

trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, khả năng san bằng rủi ro trong kinh
doanh bị hạn chế. Trong thời gian gần đây, các nước áp dụng mô hình này có xu
hướng giảm dần sự hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ
chứng khoán.
Mô hình công ty đa năng:
Có hai loại công ty đa năng, đó là công ty đă năng một phần và công ty
đa năng hoàn toàn.
Công ty đa năng một phần: Ở đây các ngân hàng muốn kinh doanh
chứng khoán phải thành lập công ty con độc lập.
Công ty đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép kinh
doanh tổng hợp.
Mô hình này có ưu điểm là kết hợp đa năng rất cao, do đó mà giảm bớt
rủi ro trong hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu đựng các biến động
của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu như thị trường có biến động mạnh
thì hoạt động kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng nếu không tách bạch rõ ràng các
nghiệp vụ kinh doanh. Thường thường, các nước châu Âu, châu Úc thường áp
dụng mô hình công ty đa năng.
2. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán
Hội đồng quản trị
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng giao dịchPhòng kế toán-tài chínhPhòng marketing Phòng quản trị – hành chính Phòng lưu ký, đăng ký lưu trữ
Cơ cấu tổ chức một công ty chứng khoán có thể được xây dựng từ đơn
giản đến phức tạp tuỳ theo qui mô của thị trường, phương thức kinh doanh của
chủ sở hữu, khách hàng…, mặt khác, tuỳ thuộc vào tính chất sở hữu của công
ty.
Cơ quan quyền lực cao nhất của công ty chứng khoán là Hội đồng quản
trị. Hội đồng quản trị bổ nhiệm ban Giám đốc và Giám đốc điều hành công ty.
Giúp việc cho Hội đồng quản trị có Ban kiểm soát, có nhiệm vụ theo dõi và
kiểm soát tất cả các giao dịch chứng khoán.

Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một công ty chứng khoán gồm
các phòng chủ yếu sau:
Hình 1: Sơ đồ tổ chức chung của công ty chứng khoán :
Phòng giao dịch: Thực hiện các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán
và OTC. Thông thường, phòng giao dịch bao gồm ba bộ phận: Bộ phận môi
giới cho khách hàng, bộ phận tự doanh, bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng
khoán. Chức năng chính của phòng giao dịch là nhận và thực hiện giao dịch tại
Sở đối với các lệnh giao dịch. Các thông báo về việc giao dịch đã được thực
hiện xong chuyển đến cho người đặt lệnh và cuối cùng chuyển các tờ lệnh cho
phòng tài chính – kế toán để soạn các văn bản hợp đồng tương ứng và đưa dữ
liệu sang bộ phận lưu trữ. Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán cung
cấp cho các bộ phận của công ty, khách hàng các báo cáo về kinh tế và tình hình
hoạt động của các công ty được niêm yết, tình hình thị trường và động thái giá
chứng khoán, các nhà môi giới ra các quyết định mua bán chứng khoán có lợi
nhất cho công ty và cho khách hàng của công ty.
Phòng kế toán- tài chính: Phòng này có hai bộ phận chủ yếu là bộ phận
kế toán và bộ phận tài chính. Bộ phận kế toán xử lý các hợp đồng và tài liệu
giao dịch, soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận tài liệu từ khách hàng, lưu
trữ các hợp đồng, chứng từ, lệnh…Bộ phận tài chính quản lý tài chính của Công
ty thông qua tài khoản chứng khoán và tiền quản lý việc cho khách hàng vay
tiền để đầu tư chứng khoán, thoả thuận với khách hàng trong các giao dịch nhận
thế chấp chứng khoán, bảo đảm việc tuân thủ tỷ lệ vốn cho vay trên tổng giá trị
chứng khoán thế chấp. Bộ phận này thường thoả thuận với các ngân hàng để
vay tiền từ ngân hàng, cho khách hàng vay và ký kết các văn bản thoả thuận thế
chấp có liên quan.
Phòng Marketing: Với chức năng chủ yếu là quan hệ với khách hàng
của công ty, nhận lệnh từ khách hàng sau đó chuyển sang phòng giao dịch để
thực hiện, nghiên cứu phát triển thị trường.
Phòng quản trị – hành chính tổng hợp: Phòng này có nhiệm vụ chủ
yếu là duy trì cơ sở kinh doanh, văn phòng làm việc, trang thiết bị đồ dùng văn

phòng nói chung, duy trì điện nước, nhà ăn…; tổ chức gặp gỡ, làm việc với các
cơ quan hữu quan, các tổ chức quốc tế, tổ chức kinh doanh khác; ký kết và quản
lý các hợp đồng tuyển dụng lao động, quản lý nhân sự…
Phòng lưu ký, đăng ký và lưu trữ thông tin: Thực hiện các việc liên
quan đến lưu ký, đăng ký chứng khoán và lưu giữ thông tin về giao dịch chứng
khoán, về tài khoản của khách hàng…
Trong trường hợp công ty chứng khoán được cấp quản lý tài sản khách
hàng, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán có thể thành lập phòng
quản lý tài sản.
Các phòng này đem lại cho công ty những thu nhập to lớn bằng cách đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó. Trên
thực tế, nhiều công ty chứng khoán chào bán rất nhiều chủng loại chứng khoán
và loại hình khác nhau. Vì vậy, mỗi công ty chứng khoán là một thực thể riêng
biệt và rất phức tạp, có cơ cấu hoạt động riêng và cơ cấu này luôn thay đổi theo
thời gian.
Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng và phản ánh của
nhiều nhân tố, về quản lý, về thị trường, về con người. Trình độ chuyên môn
hoá cao độ dẫn đến phân cấp quản lý, nhiều khi các bộ phận trong tổ chức
không phụ thuộc lẫn nhau. Bên cạnh đó, thị trường tài chính có ảnh hưởng lớn
đến các Công ty chứng khoán, đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng
thu lợi nhuận của công ty. Mọi hoạt động quản lý và chuyên môn trong công ty
chứng khoán đều diễn ra trong bối cảnh của thị trường chứng khoán. Mặt khác
trong công ty chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm quan trọng số một.
Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Khách hàng
tin tưởng vào người môi giới về mua bán chứng khoán, giá, thời điểm…Vì vậy
nhân viên môi giới phải thực hiện nguyên tắc ‘‘biết khách hàng của mình’’, nắm
khả năng tài chính của khách hàng, tư vấn cho khách hàng, giữ gìn đạo đức kinh
doanh và tôn trọng khách hàng, luôn đặt quyền lợi của khách hàng lên trên hết.
3. Các loại công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán thường được phân loại theo hình thức kinh

doanh mà công ty tiến hành.
Công ty môi giới (The member firm):

×