Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Man ban ve mot so bai van su dung trong bo sachngu van lop 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.32 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Mạn bàn về một số bài văn sử dụng trong bộ sách


ngữ văn lớp 10



<b>“Học ngữ văn phải hướng vào cuộc sống để vận dụng kiến thức và để sống</b>
<b>đúng, sống đẹp. Đó là quan điểm văn hóa và thực tiễn của việc học Ngữ văn</b>
<b>ngày nay”.</b>


Tuy nhiên, khi đọc những bài văn học sử trong cả tập 1 và 2 của bộ sách Ngữ văn 10 (bộ cơ
bản), chúng tôi xin mạn phép đưa ra đây một số vấn đề mà chúng tơi cịn băn khoăn, hy vọng
được sự phúc đáp từ tập thể những người biên soạn SGK, từ đó tạo điều kiện để chúng tơi có
thể giảng dạy tốt hơn.


Chúng tơi xin được trình bày những vấn đề chúng tơi quan tâm theo từng bài văn học sử cụ thể.


<b>1. Bài Tổng quan văn học Việt Nam</b>


Trong việc phân kì lịch sử văn học các tác giả biên soạn SGK cho rằng Văn học hiện đại được tính từ đầu thế kỉ XX
đến hết thế kỉ thứ XX [tr8, Tập 1]. Cùng trong mục này, các tác giả lại sử dụng thêm thuật ngữ Văn học đương đại:
“Trong văn học đương đại, có thể đọc được tâm tư tình cảm của con người Việt Nam trước những vấn đề mới mẻ của
thời mở cửa, hội nhập quốc tế hết sức sôi động và phức tạp” [tr10, Tập1]


Như vậy, với thuật ngữ Văn học đương đại, các tác giả muốn định danh thời kì văn học từ đâu đến đâu? Hơn thế nữa
trong sự hiểu biết của chúng tôi thuật ngữ Văn học đương đại hiện tại vẫn chưa được sự nhất trí trong giới nghiên cứu
văn học.


Trong mục Con người Việt Nam trong quan hệ với thế giới tự nhiên, phần viết về mối quan hệ này trong sáng tác thơ
ca thời trung đại, các tác giả viết: “Hình tượng thiên nhiên gắn với lí tưởng đạo đức, thẩm mĩ. Các hình tượng tùng,
cúc, trúc, mai thường tượng trưng cho nhân cách cao thượng; các đề tài ngư, tiều, canh, mục thường thể hiện lí tưởng
thanh cao ẩn dật, khơng màng danh lợi của nhà nho” [tr11, Tập 1].


Với nhận định này, chúng tôi thiết nghĩ các tác giả chỉ mới nêu lên được một phần của vấn đề. Đó là dạng cảm thức thứ


nhất: Con người trung đại cảm thấy mình trong tự nhiên, cịn dạng cảm thức thứ hai mà theo chúng tôi cũng rất cần chỉ
cho học sinh thấy. Đó là con người trung đại cảm thấy trong con người mình có cả vũ trụ (GS Lê Trí Viễn đã có những
kiến giải sâu sắc về vấn đề trên trong cơng trình Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam). Trong trường hợp này, chúng
tơi cho rằng “tiết kiệm” với học sinh dăm dịng sẽ khiến các em có cái nhìn “lệch” về một phương diện quan niệm của
con người trung đại trước thiên nhiên vũ trụ (Quan niệm này thể hiện sâu sắc thế giới quan của con người trung đại gắn
bó chặt chẽ với những yếu tố triết học).


Cũng trong nhận định này, khi tác giả cho rằng: “Trong sáng tác thơ ca thời trung đại hình tượng thiên nhiên gắn với lí
tưởng đạo đức, thẩm mĩ. Các hình tượng tùng, cúc, trúc, mai thường tượng trưng cho nhân cách cao thượng; các đề tài
ngư, tiều, canh, mục thường thể hiện lí tưởng thanh cao ẩn dật, khơng màng danh lợi của nhà nho[…] không màng
danh lợi của nhà nho”. Như vậy vơ hình chung, một mảng thơ ca chữ Hán viết về thiên nhiên hết sức đặc sắc của thời
Trần vốn là sáng tác của rất nhiều thi nhân - thiền sư đã bị “bỏ rơi”? Từ “nhà nho” chưa bao quát hết được chủ thế sáng
tạo.


<b>2. Bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX:</b>Trong bài này, chúng tơi vẫn cứ băn khoăn về
tính hệ thống của những luận điểm lớn trong mục III - Những đặc điểm lớn về nội dung của văn học từ thế kỉ X đến hết
thế kỉ XIX.1.Chủ nghĩa yêu nước.2.Chủ nghĩa nhân đạo.3.Cảm hứng thế sự.


Chúng tôi vẫn nhận thức được ở luận điểm Cảm hứng thế sự, các tác giả muốn đề cập đến vấn đề hiện thực xã hội trong
sáng tác của các tác giả thời trung đại. Đối với vấn đề này, chúng tơi nhất trí. Tuy nhiên, có nên tách Cảm hứng thế sự
ra khỏi nội dung của Chủ nghĩa nhân đạo hay khơng thì đó vẫn là một việc cần phải xem xét lại. Bởi suy cho cùng thì
qua việc phản ánh hiện thực, các tác giả đều đề cập đến những vấn đề của con người trong xã hội phong kiến. Qua đó,
họ muốn cất lên tiếng nói địi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người trong xã hội ấy. Như vậy đây cũng
chỉ là một phương diện của Chủ nghĩa nhân đạo. Nên chăng chỉ cần giữ lại hai mục: Chủ nghĩa yêu nước và Chủ nghĩa
nhân đạo mà thơi.


<b>3. Bài Đại cáo bình Ngơ - Nguyễn Trãi (Phần I: Tác giả)</b>


Với phần viết về tác giả Nguyễn Trãi, chúng tôi quan tâm đến những vấn đề sau:



- Trong mục Nguyễn Trãi – nhà thơ trữ tình sâu sắc, có luận cứ sau: “Thiên nhiên trở thành mơi trường sống thanh tao,
con người gắng giữ gìn vẻ đẹp nguyên sơ, không làm tổn thương đến cảnh vật”. [tr 11, 12; Tập 2]


v Luận chứng 1: “Nhà thơ khơng nỡ thả mái chèo vì sợ làm tan vỡ bóng trăng in trong nước: “Nước cịn nguyệt hiện xá
thôi chèo” [tr12, Tập 2]


v Luận chứng 2: “hớp chén rượu in bóng trăng mà tưởng đang hớp ánh trăng: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng
chén”[tr12, Tập 2]


v Luận chứng 3: “gánh nước về pha trà, nước in bóng trăng tưởng mang cả trăng về theo “chè tiên, nước ghín, nguyệt
đem về” [tr12, Tập 2]


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Về luận điểm “Hai tập thơ Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập” ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là người anh hùng vĩ
đại vừa là con người trần thế”. [tr11, Tập2]


Chúng tôi vẫn ngầm hiểu với luận điểm trên các tác giả muốn đề cập đến hai phương diện con người công dân và con
người thế sự trong thơ Nguyễn Trãi.Tuy nhiên với cách dùng người anh hùng vĩ đại – con người trần thế, chúng tơi vẫn
thấy có điều gì đó khơng ổn thỏa. Nó chưa bao quát hết những phương diện của con người Nguyễn Trãi. Hơn thế nữa
cùng một tiêu chí, trong sự liên tưởng đối sánh, khi nói về con người trần thế thì chúng ta thường liên tưởng đến con
người tiên, con người thốt tục chứ ít khi lại liên tưởng đến người anh hùng vĩ đại


Ngoài ra trong bài viết này, chúng tơi nhận thấy có nhiều câu khá “rối” về ngữ pháp cũng như ngữ nghĩa
-“Là bậc anh hùng với lí tưởng cao cả, Nguyễn Trãi cũng là một con người trần thế” [tr11, Tập 2]


-“Ức trai thường nói tới lịng bạn. Lịng bạn bao giờ cũng sáng trong như vầng nhật nguyệt “Lòng bạn trăng vằng vặc
cao” [tr12, Tập 2]


Thiết nghĩ nếu các tác giả muốn “dẫn chữ” từ câu thơ của Nguyễn Trãi “lịng bạn” để thay cho từ “tình bạn” thì cũng
nên để chữ lòng bạn trong dấu ngoặc kép chứ trong tiếng Việt hiện đại chúng ta ít dùng từ lòng bạn trong văn cảnh như
trên.4.Bài Truyện Kiều - Nguyễn Du (Phần một: Tác giả)



Trong mục 2 - Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du, có nhận định sau: “Ơng nắm vững
nhiều thể thơ của Trung Quốc, làm thơ theo thể ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật và ca hành (nhạc phủ).
[tr96, Tập 2]


Chúng tôi nghĩ rằng với nhận định trên rõ ràng chưa làm nổi bật được đặc điểm nghệ thuật trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du. Bởi bất kì một nhà Nho có học vấn đều có khả năng như trên. Với một lượng chữ ít ỏi cho phần Đặc điểm
nghệ thuật trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Du (8 dịng), những nhận định như trên là khơng cần thiết, bởi nó
khơng khu biệt được những đặc sắc nghệ thuật trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du với các tác giả khác.


Những điều chúng tơi băn khoăn có thể có đơi chỗ “thiển cận”, “đánh trống qua cửa nhà sấm”, tuy nhiên với tấm lòng
chân thành hưởng ứng công cuộc đổi mới trong việc giảng dạy môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông, chúng tôi hy
vọng những điều chúng tôi thắc mắc sẽ được tập thể các tác giả biên soạn sách giáo khoa lưu ý và có sự phúc đáp cụ
thể. Xin chân thành cảm ơn.


</div>

<!--links-->

×