THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở
THANH HOÁ
I. VÀI NÉT VỀ BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở VIỆT NAM
1. Quy định KCB cho người nghèo ở Việt Nam
1.1. Chuẩn nghèo
Công cuộc xoá đói giảm nghèo của nước ta bắt đầu từ những năm đầu
thập kỉ 90 của thế kỉ trước, nhưng các nước trong khu vực đã thực hiện từ thập
kỉ 70 và 80. Trên thế giới mãi đến đầu những năm`1990 mới bắt đầu nghiên
cứu, hình thành hệ thống lý luận và phương pháp luận cho cuộc chiến chống
nghèo đói. Tuy vậy trong nhận thức của người Việt Nam khi nói đến nghèo đói
mọi người đều hiểu rằng đó là tình trạng người dân cơm không đủ ăn, áo không
đủ mặc, con cái không được học hành tử tế, ốm đau không có tiền chữa bệnh,
nhà cửa tạm bợ...
Khái niệm nghèo khổ đã được Uỷ ban Kinh tế - Xã hội khu vực châu Á-
Thái bình dương (ESCAP) thống nhất như sau: “Nghèo khổ là tình trạng một bộ
phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người,
mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và phong
tục, tập quán của từng vùng được xã hội thừa nhận”. Như vậy sẽ không có một
chuẩn nghèo chung cho tất cả các quốc gia và các khu vực.
Chuẩn nghèo là thước đo mức sống của dân cư để phân biệt trong xã hội
ai thuộc diện nghèo và ai không nghèo để từ đó có chính sách trợ giúp cho
những người nghèo tiếp cận với thành quả của sự phát triển kinh tế - xã hội và
đảm bảo công bằng giữa các nhóm dân cư.
Chuẩn nghèo không phải là một đại lượng bất biến mà thay đổi theo thời
gian vì nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Từ năm 1996 đến
nay, chúng ta đã điều chỉnh chuẩn nghèo theo hướng tăng dần trong 3 giai đoạn
1996-1997, 1998-2000, 2001-2005. Vào thời điểm năm 2004 tỉ lệ đói nghèo của
Việt Nam là 8%; trong đó 2 tỉnh, thành phố đã cơ bản không còn hộ nghèo theo
chuẩn; 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chỉ còn từ 3-5%; 24 tỉnh trên 5-10%; 15 tỉnh trên 10-
15 %; 3 tỉnh trên 15-20%. Đặc biệt đã có 8 tỉnh, thành phố nâng chuẩn nghèo
cao gấp 2-3 lần chuẩn nghèo hiện tại.
Trong giai đoạn 2006-2010, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ là giảm nghèo toàn diện hơn, công bằng hơn, bền vững và hội nhập;
đồng thời thu nhập và mức sống của người dân cũng được nâng cao, do vậy,
chuẩn nghèo cũng như các giải pháp thực hiện chương trình giảm nghèo cũng
phải thay đổi cho phù hợp. Theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006-2010:
- Khu vực nông thôn: 200.000đ/người/tháng.
- Khu vực thành thị: 260.000đ/người/tháng.
Như vậy ước tính đến đầu năm 2006, Việt Nam có khoảng 26,7% hộ
nghèo (khoảng 4,6 triệu hộ), trong đó khu vực thành thị khoảng 12%, khu vực
nông thôn khoảng 31%. Cứ 100 người nghèo có khoảng 10 người ở thành thị,
90 người ở nông thôn và 36 người là dân tộc thiểu số. Theo đó ước tính tỷ lệ
nghèo ở các vùng như ở bảng 2:
Bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo của các vùng trong cả nước
Vùng Tỷ lệ nghèo (%)
Tây Bắc 62
Đông Bắc 36
Đồng bằng sông Hồng 20
Bắc Trung Bộ 40
Duyên hải Nam Trung Bộ 23
Tây Nguyên 52
Đông Nam Bộ 11
Đồng bằng sông Cửu
Long
21
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Trong khi đó tỉ lệ bệnh tật của dân cư nông thôn nghèo cao gấp 4 lần
thành thị (mức chênh lệch này ở trẻ em là 27 lần); do đó, chúng ta cần có giải
pháp hữu hiệu nhất để giảm tỷ lệ hộ đói nghèo.
Theo Bộ LĐ-TB và XH, mục tiêu giảm nghèo cần đạt được đến năm
2010 là 15% (giảm 38% số hộ nghèo trong 5 năm).
1.2. Các chủ trương, Nghị định của Đảng hướng dẫn thực hiện BHYT cho
người nghèo
2. BHYT cho người nghèo ở Việt Nam.
2.1. Sự cần thiết BHYT cho người nghèo.
Việt Nam được xếp là một trong những nước nghèo trên thế giới, đa phần
nhân dân sống ở nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Do điều kiện giao
thông ở những vùng này chưa phát triển nên việc cải thiện đời sống và CSSK
còn gặp nhiều khó khăn. Sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong những năm gần đây đã và đang mang lại nhiều kết quả tốt đẹp,
song bên cạnh đó vẫn còn sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, tạo ra sự bất
bình đẳng trong CSSK và hưởng thụ dịch vụ y tế của người nghèo so với người
giàu. Chính vì lí do này mà Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách
về KCB cho người nghèo, song vẫn xẩy ra nhiều bất cập như:
- Việc cấp giấy chứng nhận cho người nghèo để giám đốc các bệnh viện
căn cứ vào đó quyết định việc miễn giảm viện phí cho người nghèo, nhưng lại
gặp khó khăn về kinh phí KCB. Các cơ quan LĐ-TB&XH cấp xong giấy miễn phí là
hết trách nhiệm, lúc đó gánh nặng về tài chính chuyển sang các cơ sở KCB. Cơ
sở KCB phải sử dụng kinh phí eo hẹp của mình để miễn giảm cho đối tượng
này. Từ đó tạo nên sự thiếu hụt trầm trọng về kinh phí KCB của các cơ sở y tế.
Thực tế còn cho thấy việc xác định người nghèo dù là ở xã, phường, bệnh viện
vẫn mang tính chủ quan. Điều này tạo ra sự không công bằng trong xã hội.
- Có địa phương cấp một khoản ngân sách bổ sung cho các bệnh viện để
chi phí cho những người nghèo đến KCB tại bệnh viện sau đó định kì cơ quan
tài chính sẽ quyết toán theo số lượng và chi phí thực tế của người bệnh. Hình
thức này có những bất cập do nguồn kinh phí bổ sung không đều và không đủ
để chi trả chi phí cho người nghèo. Bệnh viện phải sử dụng kinh phí giường
bệnh để bù trừ gây khó khăn cho bệnh viện vốn đã rất eo hẹp về kinh phí.
Với các hình thức nêu trên, một bộ phận người nghèo đã được CSSK
thông qua KCB miễn phí, song các hình thức đó còn nhiều thiếu sót và hạn chế
cần khắc phục.
Như vậy, để tránh tình trạng khó khăn trong công tác KCB cho người
nghèo và đảm bảo lợi ích chính đáng của họ thì “BHYT cho người nghèo” là
hết sức cần thiết.
2.2. Thực trạng BHYT cho người nghèo ở Việt Nam.
2.2.1. Về số thẻ BHYT cấp cho người nghèo
Tính đến tháng 12/1999 đã có 34/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
tổ chức lập danh sách KCB cho người nghèo và cơ quan BHYT các tỉnh, thành
phố này đã cấp 688.826 thẻ BHYT cho người nghèo (chiếm 6,5% tổng số người
nghèo trong cả nước) trong đó 2 tỉnh, thành phố là Hà Nội và Bắc Ninh thực
hiện phương thức thực thanh thực chi. Các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện
Thông tư số 05 sớm nhất trong cả nước là: Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hoà,
Vĩnh Phúc, Phú Yên, Bắc Giang, Nam Định, Hà Nam, Quảng Bình, Bình Định,
Bình Dương. Ngoài ra có 1 số tỉnh, thành phố trước khi có Thông tư số 05 đã
dùng một phần kinh phí xoá đói, giảm nghèo để mua thẻ BHYT cấp cho người
nghèo như Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình.
Đến tháng 12/2000 có 44/61 tỉnh, thành phố thực hiện việc cấp thẻ BHYT
cho người nghèo với số lượng là: 1.120.237 thẻ (khoảng 130 ngàn người
nghèo), tăng 61% so với năm 1999, nâng tỉ lệ số người được cấp thẻ BHYT lên
13,8%; trong đó có 4 tỉnh, thành phố cấp thẻ BHYT cho người nghèo theo
phương thức thực thanh thực chi là: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh và Thái Nguyên.
Tỉnh có tỉ lệ phát hành thẻ BHYT trên tổng số nghèo cao nhất trong cả nước là
Ninh Thuận: 57.48%. Một số tỉnh, thành phố thực hiện cấp thẻ BHYT cho
người nghèo mang ý nghĩa tượng trưng, số lượng rất ít, không đúng với thực
trạng về số lượng của người nghèo hiện có tại mỗi địa phương.
Tháng 9/2001 đã có 48 tỉnh, thành phố đã hoàn thành thủ tục cần thiết để
có thể cấp thẻ cho khoảng 1.750.000 người nghèo, tăng 57% so với năm 2000,
nhưng mới đạt 13% người nghèo được cấp thẻ BHYT so với tổng số người
nghèo theo chuẩn hộ nghèo công bố ngày 1/11/2000 của Bộ LĐ-TB&XH. Năm
2001 nhiều tỉnh, thành phố đã mở rộng diện người nghèo được cấp thẻ BHYT
như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thực hiện 100%; Phú Yên, Đà Nẵng; Ninh Thuận,
Nghệ An 50%; Hà Tây 40%; Bình Thuận, Lâm Đồng 36%, nhiều địa phương đã
tích cực triển khai KCB BHYT tại trạm y tế xã. Sau khi Chính phủ ban hành
Quyết định 139/2002/QĐ-CP thì số thẻ BHYT cấp cho người nghèo trong tổng
số thẻ BHYT đã tăng lên từ đó đến nay.
2.2.2. Về công tác KCB cho người nghèo
Từ năm 2003-2005 nhà nước đã dành trên 2.000 tỷ đồng để KCB cho hơn
14 triệu người nghèo, thành lập quỹ KCB cho người nghèo ở 64 tỉnh, thành phố.
Đến nay 29 tỉnh thực hiện thực thanh, thực chi, 24 tỉnh mua thẻ BHYT, 11 tỉnh
thực hiện cả 2 hình thức trên. Như vậy cả nước đã có khoảng 4 triệu người được
cấp thẻ BHYT. Ngoài ra các bệnh viện còn miễn giảm viện phí cho 3,78 triệu
người với số tiền là 234 tỷ đồng trong năm 2004. Bên cạnh đó việc mở rộng
KCB về tuyến cơ sở cũng ngày càng được quan tâm và coi trọng; số trạm y tế
xã, phường qua các năm ngày càng tăng.
Đồ thị 1: Số trạm y tế xã, phường cả nước từ năm 2000 đến năm 2004
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Do đó số lượt người đi KCB hàng năm cũng vì thế mà tăng lên (bảng 3)
Bảng 3: Tình hình KCB cho người nghèo có thẻ BHYT
Năm
Số lượt KCB (lượt) Tỷ lệ (%)
Nội trú Ngoại trú Nội trú Ngoại trú
1999 18.200 207.157 0.036 0,415
2000 55.446 660.379 0,047 0,547
2001 67.835 782.029 0,046 0,526
2002 90.556 1.225.390 0,054 0,736
(Nguồn: BHXH Việt Nam)
Năm 2000 có khoảng 600.000 lượt người nghèo đi KCB ngoại trú, bằng
59% số thẻ đã phát hành, với chi phí trên 10,7 tỷ đồng; bình quân một lần KCB
ngoại trú khoảng 18.000 đồng. Đã có trên 55.000 lượt người nghèo điều trị nội
trú tại các tuyến, bằng khoảng 5 % số người nghèo có thẻ BHYT, tổng chi phí
thanh toán cho các cơ sở KCB là 13,8 tỷ đồng, bình quân chi phí một đợt điều
trị nội trú là 250.000 đồng. Như vậy có thể thấy rằng chi phí cho một lần KCB
ngoại trú và một đợt điều trị nội trú của người nghèo tương đương và có phần
cao hơn một chút so với chi phí bình quân của thẻ BHYT bắt buộc, song tỷ lệ đi
KCB của người nghèo lại thấp hơn nhiều so với tỷ lệ đi KCB của thẻ BHYT bắt
buộc. Tuy nhiên có thể thấy rằng số lượt người nghèo đi KCB ngày càng đông,
kể cả nội trú và ngoại trú, mặt khác tỷ lệ KCB của người nghèo so với các đối
tượng khác tăng dần qua các năm, KCB bằng thẻ BHYT ngày một tăng.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện BHYT cho người nghèo
trong thời gian qua đã khằng định một điều: giải pháp để người nghèo được
chăm sóc sức khoẻ bình đẳng và đạt hiệu quả cao nhất là mua thẻ BHYT cho
họ. Số thẻ BHYT cấp cho người nghèo trên tổng số thẻ BHYT không ngừng
tăng lên qua từng năm, điều này chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và nhà nước
tới công tác chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo, tới mục tiêu công bằng xã hội.
Tuy nhiên, công tác cấp thẻ BHYT cho người nghèo hiện nay vẫn còn nhiều
vướng mắc, nổi cộm nhất là việc điều tra, lập danh sách những hộ thuộc diện
nghèo theo quy định hiện nay, số thẻ BHYT cấp cho người nghèo vẫn còn chưa
đáp ứng đủ yêu cầu của họ.
2.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Hải Dương
Việc mua thẻ BHYT cho người nghèo là chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước, hợp lòng dân để người nghèo chẳng may bị ốm đau được KCB ở các
tuyến dễ dàng nhất là các trường hợp bệnh nặng rất tốn kém nhưng cũng được
BHYT lo đầy đủ. Đối với bệnh viện cũng đỡ khó khăn vì có BHYT người
nghèo đỡ một phần kinh phí cho bệnh viện, không phải trích quĩ Viện phí của
bệnh viện ra trợ cấp.
BHYT cho người nghèo chỉ thực hiện tốt khi có sự chỉ đạo kịp thời của
các cấp chính quyền địa phương; có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các
ngành liên quan, trong đó vai trò của ngành LĐ-TB&XH tại tỉnh là quan trọng
nhất.
Người nghèo chưa tiếp cận với các dịch vụ y tế do nhiều nguyên nhân
như: do điều kiện kinh tế, thu nhập; do định cư ở những vùng xa bệnh viện; do
mạng lưới y tế tại địa phương chưa phát triển... từ đó hạn chế phần nào quyền
lợi KCB cho người nghèo, làm sai lệch nhận thức về ý nghĩa của BHYT dành
cho người nghèo. Vì vậy cần tạo môi trường thuận lợi hơn để người nghèo được
tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế, góp phần làm cho chính sách BHYT
cho người nghèo phát huy hết ý nghĩa.
II. GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN BHXH TỈNH HẢI DƯƠNG
1. Sự hình thành và phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương
1.1. Quá trình hình thành của BHXH tỉnh Hải Dương
Cùng với hệ thống BHXH của cả nước, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau,
BHXH tỉnh Hải Dương đã từng bước trưởng thành và phát triển vững mạnh về
mọi mặt, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao đảm bảo quyền lợi cho người
tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT góp phần ổn định kinh tế,
chính trị, xã hội tại địa phương.
Trước năm 1995 BHXH nước ta thực hiện theo cơ chế bao cấp, nguồn
kinh phí do Nhà nước đảm bảo, tất cả cán bộ, công nhân viên chức trong cơ
quan Nhà nước, lực lượng vũ trang đều được hưởng chế độ BHXH. Sau năm
1995 thể chế hoá Bộ Luật lao động ban hành năm 1994, ngày 16/2/1995 Chính
phủ có Nghị định số 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống
nhất các tổ chức BHXH thuộc hệ thống Công đoàn và Lao động-Thương binh &
Xã hội (LĐ-TB&XH) với chức năng tổ chức thực hiện các chế độ BHXH và để
thống nhất tổ chức thu, chi BHXH, quản lý quỹ BHXH theo quy định của Nhà
nước.
Do đó, ngày 15/6/1995 BHXH tỉnh Hải Hưng được thành lập. Sau 2 năm
hoạt động BHXH tỉnh Hải Hưng được chia tách thành BHXH tỉnh Hải Dương
và BHXH tỉnh Hưng Yên từ ngày 1/10/1997, thực hiện Quyết định số
20/2002/QĐ-TTg ngày 24/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển
BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh Hải Dương đã tiếp nhận
BHYT tỉnh Hải Dương và bắt đầu hoạt động theo mô hình mới, thêm nhiệm vụ
quản lý quỹ và chi trả chế độ BHYT cho người tham gia BHYT từ ngày
01/01/2003.
1.2. Quá trình phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương
1.2.1. Về tổ chức bộ máy
BHXH tỉnh do Giám đốc quản lý điều hành theo chế độ thủ trưởng. Giúp
Giám đốc có 3 Phó giám đốc. Giám đốc và Phó giám đốc BHXH tỉnh do Tổng
giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, khen thưởng, kỷ
luật.
Hiện nay BHXH tỉnh có 12 BHXH huyện, thành phố và có 8 phòng
nghiệp vụ, đó là: Phòng Chế độ chính sách, phòng Kế hoạch tài chính, phòng
Thu, phòng Giám định chi, phòng Bảo hiểm tự nguyện, phòng Công nghệ thông
tin, phòng Tổ chức hành chính, phòng Kiểm tra.
Các phòng trực thuộc BHXH tỉnh Hải Dương có chức năng giúp Giám
đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện các nhiệm được giao theo từng lĩnh vực
chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Tổng giám đốc.
Phòng chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của Giám đốc BHXH tỉnh và
sự chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam.
Phòng không có tư cách pháp nhân đầy đủ, không có dấu và tài khoản
riêng.
BHXH Tỉnh Hải Dương
Phó Giám đốc
PhòngChế độ, chính sáchPhòng kế hoạch tài chínhPhòng thuPhòngGiám định chiPhòng Bảo hiểm tự nguyệnPhòngCông nghệ thông tinPhòng tổ chức hành chínhPhòng kiểm tra
Phó Giám đốc Phó Giám đốc
Giám đốc BHXH Tỉnh Hải Dương
BHXH Việt
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của BHXH Hải Dương
(Nguồn: BHXH Hải Dương)
1.2.2. Về cán bộ
Khi mới thành lập đội ngũ cán bộ của BHXH tỉnh Hải Dương do các cán
bộ viên chức từ Liên đoàn lao động tỉnh, Sở LĐ-TB&XH và một số ngành khác
chuyển sang. Được sự quan tâm của BHXH Việt Nam, của Tỉnh uỷ, UBND
tỉnh, sự phối hợp của các huyện thành phố, BHXH tỉnh đã được bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Sau khi BHYT chuyển sang BHXH đội ngũ cán
bộ đã được bố trí, phân công, sắp xếp hợp lý để kiện toàn bộ máy tổ chức. Do
vậy đến nay đã có đủ số lượng cán bộ theo biên chế được giao và đã bổ nhiệm
đủ Trưởng phó phòng, Giám đốc, Phó giám đốc BHXH 12 huyện, thành phố.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên của đơn vị đã được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ và ngày càng trưởng thành.
Bảng 5: Số cán bộ, nhân viên trong biên chế và làm việc theo hợp
đồng tại BHXH Hải Dương
Đơn vị: Người
Thời
gian
Tổng số cán
bộ-nhân viên
Trong đó
Biên chế HĐ dài
hạn
HĐ có
thời hạn
7/1995 124 124 - -
9/1997 113 102 - 11
12/200
4
196 143 49 4
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Hải Dương)
Bảng 6: Cán bộ, nhân viên được phân chia theo trình độ chuyên môn
tại BHXH Hải Dương
Đơn vị: Người
Thời
gian
Tổng số cán
bộ-nhân viên
Chia theo trình độ chuyên môn
Đại học Trung cấp Sơ cấp
nhân viên
7/1995 124 31 90 4
9/1997 113 45 63 5
12/200
4
196 129 61 6
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Hải Dương)
1.2.3 Về xây dựng cơ sở vật chất
Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất về cơ bản đã hoàn thành. Đã xây
dựng được trụ sở làm việc của BHXH tỉnh, 11 trụ sở BHXH cấp huyện, chuẩn
bị xây dựng trụ sở BHXH thành phố Hải dương và xây dựng mới trụ sở BHXH
tỉnh.
2. Kết quả hoạt động vài năm qua của BHXH tỉnh Hải Dương
2.1. Kết quả đạt được
2.1.1. Thực hiện thu BHXH, cấp sổ BHXH
Từ chỗ người lao động được hưởng các chế độ BHXH được Nhà nước
bao cấp, chưa thực hiện nghĩa vụ đóng nộp BHXH, thói quen này đã đi vào tiềm
thức của từng người, nay phải thay đổi hoàn toàn theo cơ chế người lao động,
người sử dụng lao động phải đóng nộp BHXH sau đó mới được hưởng BHXH.
Đây là một sự thay đổi hết sức khó khăn cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.
Công tác tuyên truyền chế độ chính sách BHXH và nghĩa vụ của mỗi bên tham
gia BHXH theo quy định mới đã tác động tích cực làm chuyển biến mạnh mẽ
nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động, đến nay hầu hết
ngươì lao động và sử dụng lao động đã hiểu và quan tâm thực hiện chế độ
BHXH.
Trong thời gian qua, BHXH tỉnh Hải Dương không ngừng tìm biện pháp
khắc phục đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ, sự lãnh đạo của BHXH Việt Nam,
của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ
với các ngành như Báo Hải dương, Đài phát thanh truyền hình, Ban tuyên giáo
tỉnh uỷ, Thanh tra Nhà nước tỉnh, Sở LĐ-TB&XH, Liên đoàn lao động tỉnh
trong việc tuyên truyền chính sách BHXH và thanh tra việc thực hiện chế độ
BHXH ở các doanh nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức tính thu theo
tháng với các đơn vị làm cơ sở để đôn đốc thu, hàng năm đều tổ chức khảo sát
nắm số lao động trong các đơn vị, doanh nghiệp mới hoạt động để đôn đốc vận
động tham gia BHXH. Thực hiện hướng dẫn triển khai kịp thời, đầy đủ các văn
bản quy định về chế độ BHXH, tiền lương đến các đơn vị sử dụng lao động.
Công tác đôn đốc thu đã bám sát đơn vị, nắm rõ khó khăn, vướng mắc về
đóng nộp BHXH của từng đơn vị, kịp thơì bàn biệp pháp tháo gỡ, đến nay đã
thực hiện thu hết số nợ tiền BHXH trên 8 tỷ đồng do ngành Thuế bàn giao sang
tháng 7/1995 và không còn đơn vị nợ đọng tiền BHXH kéo dài.
Trong 10 năm, từ năm 1995 đến 2005 BHXH tỉnh Hải Dương đã thu vào
quỹ BHXH được 754 tỷ đồng so với tổng kế hoạch được giao là 705 tỷ đồng,
đạt 107%.
Công tác cấp sổ BHXH được triển khai từ năm 1996, quá trình triển khai
đã có sự phối hợp của các đơn vị sử dụng lao động trong việc tháo gỡ thiếu mất
hồ sơ, BHXH đã chủ động tham mưu cho Uỷ ban Nhân dân tỉnh có văn bản chỉ
đạo các cấp, các ngành chỉ đạo các đơn vị bổ sung hồ sơ, những đơn vị có
vướng mắc nhất là đối với cán bộ xã, phường, thị trấn lãnh đạo BHXH tỉnh đã
trực tiếp làm việc với lãnh đạo huyện để bàn cách tháo gỡ. Đến nay đã cơ bản
cấp kịp thời và xác nhận bổ sung sổ BHXH cho người lao động. Thực hiện ghi
và xác nhận thời gian tham gia BHXH cho trên 5.200 người của 42 doanh
nghiệp sắp xếp lại theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP và trên 700 người về theo
Nghị quyết 09 của ngành giáo dục, tạo cho người lao động yên tâm, góp phần
đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp của tỉnh.
Bảng 7: Kết quả thu BHXH từ năm 1995 đến 2004
Năm Số đơn
vị
Trong đó có Số lao
động
(người)
Trong đó có Số thu
(tỷ đồng)
NQD VĐTNN NCL NQD VĐTNN NCL Kế
hoạch
Đã
thu
1995 401 - - - 69.688 - - - 15 25
1996 485 - - - 71.571 - - - 36,5 45
1997 437 4 8 - 52.604 71 407 - 42 51
1998 1.239 5 10 - 57.669 85 636 - 48 50
1999 1.248 7 14 - 59.979 305 1.176 - 50 52
2000 1.273 18 17 - 62.431 808 1.389 - 62 67
2001 1.299 28 15 - 64.910 2.705 1.270 59 76 83
2002 1.325 43 18 -- 67.029 3.218 1.504 95 85 85
2003 1.451 118 22 - 69.873 3.975 3.129 1.786 142 ,5 144
2004 1.654 254 38 - 78.961 5.162 7.874 2.389 148 151,8
Cộng 705 753,8
(Nguồn: BHXH Hải Dương)
NQD: ngoài quốc doanh
VĐTNN: vốn đầu tư nước ngoài
NCL: ngoài công lập
2.1.2. Về thực hiện chế độ chính sách BHXH
Công tác giải quyết chế độ BHXH là một trong những công tác quan
trọng của BHXH, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các đối tượng tham
gia BHXH, căn cứ chế độ chính sách hiện hành, BHXH đã làm tốt nhiệm vụ
giải quyết các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật, đúng chế độ chính
sách đối với đối tượng tham gia BHXH.
Tổng kết từ tháng 9/1995 đến hết năm 2004 BHXH tỉnh Hải Dương đã
xét duyệt, giải quyết chế độ thường xuyên cho 15.776 người lao động, trong đó
chế độ hưu trí 7.579 người; cán bộ xã hưởng trợ cấp hàng tháng 119 người; trợ
cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hàng tháng 286 người; trợ cấp tuất
định suất cơ bản 7.774 định suất; tuất nuôi dưỡng 18 định suất.
Đã giải quyết chế độ BHXH một lần cho 6.906 người, trong đó hưu trí 1
lần theo điều 28- Điều lệ BHXH cho 4.470 người; trợ cấp tuất 1 lần cho 1.934
người; trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp 1 lần cho 307 người; trợ cấp 1
lần cho cán bộ xã 195 người.
Điều chỉnh kịp thời chế độ tiền lương theo Chính sách của Nhà nước cho
đối tượng, trong đó chế độ lương hưu cho 2.860 cán bộ quân đội khi nghỉ hưu
có giữ chức vụ lãnh đạo theo Nghị định số 31/CP của Chính phủ. Thực hiện Chỉ
thị số 15 CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 09 CT/TW của Tỉnh uỷ và chỉ đạo
của BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh đã rà soát đối chiếu hồ sơ với chế độ đang
hưởng thực hiện điều chỉnh lại các trường hợp có sai lệch theo đúng chế độ
chính sách, pháp luật của Nhà nước đảm bảo công bằng, được sự đồng tình ủng
hộ cao của đông đảo đối tượng.
Giải quyết chế độ cho trên 400.000 lượt người hưởng trợ cấp ốm đau,
trên 16.000 người hưởng trợ cấp thai sản và gần 10.000 hưởng trợ cấp dưỡng
sức phục hồi sức khoẻ.