Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Lý luận chung về BHXH và chế độ trợ cấp hưu trí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.04 KB, 41 trang )

Lý luận chung về BHXH và chế độ trợ cấp hưu trí
I- Những lý luận cơ bản về BHXH.
1. Tính tất yếu khách quan của BHXH.
Để có của cải vật chất con người phải lao động, để lao động con người phải có sức
khỏe và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao
động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động để tạo lập cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho bản thân và gia đình. Để có được một cuộc sống hạnh phúc, ấm no
không phải là dễ dàng… vì trong cuộc sống của mỗi người đều sẽ xảy ra những biến cố
mà không ai có thể lường trước được. Con người khó có thể tránh khỏi những rủi ro
như ốm đau, tai nạn lao động hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm…Các rủi ro đó
do nhiều nguyên nhân: do thiên nhiên gay ra (như bão lũ lụt, hạn hán động đất, sét…);
các rủi ro đó biến động của khoa học công nghệ, tuy làm tăng năng suất lao động nhưng
cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ và làm tăng nguy cơ mất việc làm của người lao
động; và các rủi ro do môi trường xã hội như ốm đau, dịch bệnh, trộm cắp hỏa hoạn…
Cho dù là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người những
khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại tài sản làm ngưng trệ
sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…những điều đó sẽ làm
ảnh hưởng đến đời sống của mỗi người, đến cả những người thân của họ nữa và cũng
như nền kinh tế xã hội nói chung.
Và khi rơi vào những tình huống đó thì các nhu cầu thiết yếu không vì thế mà mất
đi. Không những vậy mà còn có nhiều nhu cầu khác nữa, xuất hiện thêm nhu cầu mới
như khám chữa bệnh, cần người chăm sóc, tiền thuốc thang... Để khắc phục những rủi
ro đó, ngoài việc tự mình phải cố gắng vượt qua thì người lao động cần sự hỗ trợ của
cộng đồng tập thể, của các tổ chức cơ quan Nhà nước và xã hội. Sự bảo trợ của cộng
đồng tập thể, của các cơ quan nhà nước và xã hội. Sự bảo trợ không chỉ bằng lời nói,
bằng sự động viên thăm hỏi chung chung mà phải bằng nguồn vật chất cần thiết, nhằm
phục hồi nhanh chóng sức khỏe, duy trì sức lao động xã hội nhằm giảm bớt những khó
khăn bản thân và gia đình người lao động khi có những hụt hẫng về thu nhập trong
những trường hợp rủi ro.
Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển và việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến
thì đồng thời lại phát sinh thêm mâu thuẫn chủ thợ phát, bởi giới chủ sử dụng lao động


không chịu đảm bảo thu nhập cho người lao động trong trường hợp họ gặp phải những
rủi ro gây nên những tổn thất. Chính vì vậy giới công nhân lao động đã liên kết đấu
tranh buộc những người chủ sử dụng lao động phải thực hiện những cam kết trả công
lao động và đảm bảo cho họ một số thu nhập nhất định để họ trang trải cho những nhu
cầu thiết yếu khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoạc mất khả năng lao động.
Cuộc đấu tranh này phát triển rộng lớn làm ảnh hưởng đến nhiều mặt của mỗi người lao
động cũng ngư cả đời sống kinh tế chính trị xã hội của mọi quốc gia.
Bởi vậy, sự xuất hiện của Bảo hiểm xã hội là một tất yếu khách quan khi mà mọi
thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống Bảo hiểm xã
hội và sự cần thiết phải tiến hành Bảo hiểm xã hội cho người lao động. Vì vậy Bảo
hiểm xã hội đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là
một nhu cầu tất yếu khách quan.
2. Nội dung cơ bản về BHXH.
2.1. Khái niệm về BHXH
Do được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau với những quan điểm khác nhau nên đến
nay đã có rất nhiều khái niệm về BHXH nhưng bản chất của bảo hiểm xã hội chính là
sự tương trợ cộng đồng, là sự đoàn kết đùm bọc chia sẻ rủi ro cho nhau, mang tính nhân
văn, nhân đạo sâu sắc.
Theo tổ chức lao động thế giới (ILO) thì BHXH được hiểu là “sự bảo vệ của
cộng đồng, xã hội đối với các thành viên của mình thông qua sự huy động các nguồn
đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp trong các trường hợp ốm đau, tai nạn,
thương tật, già yếu, thất nghiệp. Đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình
đông con để ổn định đời sống của thành viên và đảm bảo an toàn của xã hội”.
Dưới giác độ kinh tế, BHXH là sự chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những người
tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật BHXH nhằm đảm bảo về mặt thu nhập,
đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động.
Dưới giác độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội bảo vệ cho
người lao động khi họ không may gặp các rủi ro từ đó giúp người lao động yên tâm sản
xuất, nâng cao năng suất lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Dưới giác độ pháp lý: “Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ người lao động,

sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự
tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm trong
trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình quân do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết”.
Tuy cách tiếp cận có khác nhau nhưng các khái niệm trên đều làm rõ ba vấn đề
đó là:
- tại sao lại cần có BHXH?
- mục đích của BHXH là gì?
- BHXH được thực hiện như thế nào?
Ngày nay, khái niệm về BHXH được định nghĩa như sau:
“BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động khi họ gặp phải các biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
2.2. Bản chất của BHXH
Từ những quan điểm khác nhau về BHXH thì bản chất của BHXH được thể hiện qua
những nội dung chủ yếu sau:
- Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, đặc
biệt là trong xã hội có nền sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường. BHXH
là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa, khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến một
mức độ nào đó thì BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Chính vì vậy, sự ra đời và
phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế càng phát
triển thì hệ thống BHXH càng hoàn thiện.
- Mục tiêu của BHXH là để bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của người lao
động trong trường hợp người lao động bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm, chăm
sóc sức khỏe cho người lao động khi họ bị ốm đau, già yếu, tàn tật hay tai nạn lao
động… từ đó góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia
đình họ.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên sơ sở quan hệ lao động
và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH; bên BHXH và bên được BHXH. Trong đó,

bên tham gia BHXH là người lao động và chủ sử dụng lao động, hoặc chỉ có người lao
động tham gia. Bên BHXH thường là các cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và
được Nhà nước bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có các
sự việc xảy ra cần được bảo hiểm.
- Những biến cố xảy ra trong phạm vi BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên
như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc có thể là những rủi ro không
hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản, các thiên tai… Và những biến cố có thể
xảy ra trong hoặc ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất do những biến cố hay rủi
ro xảy ra trong phạm vi bảo hiểm, sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ các nguồn quỹ được
tập trung lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn
được hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước.
Như vậy, bản chất của BHXH có ý nghĩ cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Về mặt
kinh tế, nhờ sự tổ chức của BHXH phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động
và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những rủi ro hay tai nạn trong cuộc sống. Về
mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH mà người lao động chỉ phải đóng góp một
khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật
chất đủ lớn để trang trải cho những rủi ro xảy ra.Và thực hiện nguyên tắc “lấy của số
đông bù cho số ít”, tạo đuợc sự an toàn, yên tâm cho mỗi nguời dân cũng như toàn xã
hội.
2.3. Đối tượng của BHXH
Khi nói đến đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Chúng
ta rất dễ có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH và đối tượng tham gia BHXH.
Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị
mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các
nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính
là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy,
tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là

tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Đối tượng được BHXH trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn có người
sử dụng lao động. Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH bao gồm người lao động
tham gia BHXH khi gặp các rủi ro, và thân nhân trong gia đình như bố, mẹ, con, vợ
(chồng)…
Như vậy, người lao động vừa là đối tượng tham gia vừa là đối tượng được hưởng
quyền lợi BHXH trong quan hệ BHXH.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các
viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng không vượt
qua khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa bình đẳng giữa tất cả những
người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có
người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử
dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người
lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và
người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi
công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc
trưng riêng có của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách
ổn định và bền vững.
Hiện nay ở Việt Nam có Luật BHXH hiện hành quy định đối tượng áp dụng tham
gia BHXH như sau: (Điều 2)
1. Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
b) Cán bộ, công chức, viên chức;
c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân,
công an nhân dân;

đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an
nhân dân phục vụ có thời hạn;
e) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt
buộc.
2. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan Nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ
chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ
chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động;
3. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc
theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác
định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử
dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều này;
4. Người sử dụng lao động tham gia BHTN là người sử dụng lao động quy định tại
khoản 2 Điều này có sử dụng từ 10 lao động trở lên;
5. Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động,
không thuộc quy định tại khoản 1 Điều này;
6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH.
2.4. Chức năng của BHXH
BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động
do vậy BHXH có những chức năng cơ bản sau:
- BHXH thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả
năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều
kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động cũng sẽ được
hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm
và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Và đây là chức năng cơ bản nhất của
BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.

- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất
lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất,
người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì
thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó,
người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất
tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng
này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao
động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao
động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao
động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao
động v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc
biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho
họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho
BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó
khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định,
kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
2.5. Trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia BHXH.
2.5.1. Quyền và trách nhiệm của người lao động
Người lao động có các quyền sau đây:
- Được cấp sổ bảo hiểm xã hội;
- Nhận sổ bảo hiểm xã hội khi không còn làm việc;
- Nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời;
- Hưởng bảo hiểm y tế trong các trường hợp sau đây:
a, Đang hưởng lương hưu;
b, Nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng;
c, Đang hưởng trợ cấp thất nghiệp;
- Uỷ quyền cho người khác nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội;
- Yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp thông tin; yêu cầu tổ chức bảo hiểm xã

hội cung cấp thông tin;
- Khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm của người lao động
- Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này;
- Thực hiện quy định về việc lập hồ sơ bảo hiểm xã hội;
- Bảo quản sổ bảo hiểm xã hội theo đúng quy định;
- Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
- Ngoài việc thực hiện các quy định này, người lao động tham gia bảo hiểm thất
nghiệp còn có các trách nhiệm sau đây:
- Đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội;
- Thông báo hằng tháng với tổ chức bảo hiểm xã hội về việc tìm kiếm việc làm
trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp;
- Nhận việc làm hoặc tham gia khoá học nghề phù hợp khi tổ chức bảo hiểm xã hội
giới thiệu.
2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động có các quyền sau đây:
- Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng quy định của pháp luật về bảo hiểm
xã hội;
- Khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Người sử dụng lao động có các trách nhiệm sau đây:
- Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định và hằng tháng trích từ tiền lương, tiền công
của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội;
- Bảo quản sổ bảo hiểm xã hội của người lao động trong thời gian người lao động
làm việc;
- Trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động khi người đó không còn làm việc;
- Lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ, đóng và hưởng bảo hiểm xã hội;
- Trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động;
- Giới thiệu người lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội

đồng Giám định y khoa theo quy định
- Cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền;
- Cung cấp thông tin về việc đóng bảo hiểm xã hội của người lao động khi người lao
động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu;
- Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
- Ngoài việc thực hiện các quy định này, hằng tháng người sử dụng lao động tham
gia bảo hiểm thất nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp.
2.5.3. Quyền và trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm xã hội:
Tổ chức bảo hiểm xã hội có các quyền sau đây:
- Tổ chức quản lý nhân sự, tài chính và tài sản theo quy định của pháp luật;
- Từ chối yêu cầu trả bảo hiểm xã hội không đúng quy định;
- Khiếu nại về bảo hiểm xã hội;
- Kiểm tra việc đóng bảo hiểm xã hội và trả các chế độ bảo hiểm xã hội;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ,
chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Tổ chức bảo hiểm xã hội có các trách nhiệm sau đây:
- Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội; hướng
dẫn thủ tục thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động, người sử dụng lao
động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội;
- Thực hiện việc thu bảo hiểm xã hội;
- Tiếp nhận hồ sơ, giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội; thực hiện việc trả lương hưu,
trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn;
- Cấp sổ bảo hiểm xã hội đến từng người lao động;
- Quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định;
- Thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội;
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán, hướng dẫn nghiệp vụ về bảo hiểm

xã hội;
- Giới thiệu người lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội
đồng Giám định y khoa
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội; lưu trữ hồ sơ của
người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
- Định kỳ sáu tháng, báo cáo Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội về tình hình thực
hiện bảo hiểm xã hội. Hằng năm, báo cáo Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về
tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội;
- Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được hưởng chế độ, thủ
tục thực hiện bảo hiểm xã hội khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu;
- Cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền;
- Giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện bảo hiểm xã hội;
- Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội;
- Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
3. Hệ thống các chế độ của BHXH.
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc
gia. Nó là một chính sách xã hội do Nhà nước ban hành áp dụng cho một bộ phận xã hội
nhất định.Chính sách này có thể biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật, hiến pháp
… song lại rất khó thực hiện nếu không được cụ thể hoá và không thông qua các chế độ
BHXH. Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ
thể và chi tiết, là sự bố trí sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người
lao động. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và
dưới luật, các thông tư, điều lệ …
Có thể nói, các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của hệ thống BHXH, nó thể hiện được
vai trò và phạm vi trách nhiệm của BHXH đối với người lao động khi họ tham gia
BHXH.
3.1. Hệ thống các chế độ BHXH theo ILO
Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong công ước số
102 tháng 5 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:

1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho những người còn sống.
Dựa trên 9 chế độ này, mỗi quốc gia có thể xem xét về từng điều kiện cụ thể, từng
thời kì của nước mình và quyết định triển khai các chế độ nào và các chế độ BHXH
đuợc chọn để triển khai ở từng nước là hoàn toàn khác nhau, có những nước lồng ghép
các chế độ với nhau cho phù hợp hơn với hoàn cảnh, nhưng ít nhất phải thực hiện được
3 chế độ. Trong đó ít nhất phải có 1 trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9).
BẢNG 1: Các chế độ BHXH đuợc thực hiện ở một số nước trên thế giới( chỉ xét 5 chế
độ: thương tật, tuổi già, tử tuất; ốm đau, thai sản; tai nạn lao động; thất nghiệp; trợ cấp
gia đình )
Nước Tuổi gìa, tử
tuât, thương tật
Ốm đau, thai
sản
Tai nạn lao
động
Thất nghiệp Trợ cấp gia
đình
Bỉ X X X X X
Mỹ X X X X X
Pháp X X X X X
Đức X X X X X
Nga X X X X X

Tây Ban Nha X X X X X
Anh X X X X X
Philippin X X X - -
Oxtraylia X X X X X
Nhật Bản X X X X X
Lào X X X - -
Singapo X X X - -
Ai Cập X X X X -
Êthiôpia X - X - -
Xuđăng X - X - -
Achentina X X X X X
Canada X X X X X
Cuba X X X - X
( Nguồn www.socialsecurity.com )
Theo quy định tại Điều 4, chương I Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 quy
định về các chế độ BHXH bắt buộc gồm 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Ngoài các chế độ nói trên, theo Quyết định số
20/2002/QĐ của Thủ tướng Chính phủ, BHYT Việt Nam chuyển sang BHXH và hình
thành thêm chế độ BHYT trong hệ thống các chế độ BHXH.
3.2. Đặc điểm:
Hệ thống các chế độ BHXH là một tổng thể hoàn chỉnh tạo ra một cơ chế thực
hiện chính sách BHXH của từng nước và hệ thống này có những đặc điểm sau:
- Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
- Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi
trả sẽ cao và ổn định.
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi
trả và thanh quyết toán.

- Các mức trợ cấp trong từng chế độ thực chất là quyền lợi của người lao động tham gia
BHXH, không ai có quyền tước bỏ quyền lợi đó.
- Nội dung của mỗi chế độ nói trên đều có thể được điều chỉnh hoàn thiện cho phù hợp
với từng thời kỳ của mỗi nước.
4. Một số vấn đề về quản lí chi BHXH.
4.1. Giới thiệu chung về quản lý BHXH.
Quản lý BHXH chung nhất, được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối
tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề
ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản lý chung
của nền kinh tế. Quản lý BHXH cho thấy phương thức quản lý BHXH và các cơ quan
chức năng có nhiệm vụ quản lý BHXH (bao gồm quản lý Nhà nước về BHXH và quản
lý hoạt động sự nghiệp BHXH).
Do điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên hệ thống
BHXH của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ chức
BHXH chung cho tất cả các nước. Có một số nước giao cho một bộ phận nào đó đảm
nhận cả chức năng quản lý Nhà nước về BHXH và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ
BHXH.
Quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH bao gồm có quản lý quỹ, quản lý đối tượng,thực
hiện thanh tra, kiểm tra.
Về quản lý đối tượng: Trong hoạt động BHXH có hai nhóm đối tượng là nhóm đối
tượng tham gia BHXH và nhóm đối tượng thụ hưởng BHXH. Nhóm đối tượng tham gia
BHXH bao gồm các doanh nghiệp và người lao động. Khi tham gia BHXH, doanh
nghiệp và người lao động đều phải đóng phí BHXH. Vì vậy, để đảm bảo nguồn thu cho
quỹ BHXH, các cơ quan BHXH phải nắm chắc được số lượng các đơn vị tham gia
BHXH, những biến động trên từng địa bàn và trong toàn quốc. Đồng thời cũng phải có
được những thông tin đầy đủ về người lao động để xác định được nguồn thu và dự báo
được các khoản chi trong tương lai. Để quản lý tốt đối tượng, các cơ quan BHXH có các
công cụ quản lý đó là sổ thẻ BHXH, trong đó có ghi chép các thông tin cần thiết về đối
tượng, đặc biệt là đối tượng thụ hưởng BHXH. HIện nay đa số các nước đã ứng dụng
công nghệ tin học hiện đại để quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH.

Về thực hiện thanh tra, kiểm tra: Tuỳ theo mô hình của từng nước mà nhiệm vụ thanh
tra, kiểm tra về BHXH khác nhau. Tuy nhiên trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia
đều có chức năng thanh tra kiểm tra nhằm đảm bảo các hoạt động BHXH đúng với các
quy định của pháp luật.
Về quản lý quỹ BHXH: Quản lý quỹ BHXH bao gồm công tác thu BHXH và quản lý
công tác chi BHXH nhằm đảm bảo cho quỹ được an toàn và đảm bảo thu đúng, thu đủ;
chi đúng, chi đủ cho đối tượng thụ hưởng BHXH; hạn chế tối đa sự thất thoát quỹ
BHXH. Đồng thời xây dựng chiến lược tăng trưởng quỹ BHXH thông qua các hoạt
động đầu tư. Trong quản lý quỹ BHXH thì việc thu chi BHXH được thực hiện thông
qua bộ máy và cơ sở pháp luật BHXH của mỗi nước, các cơ quan BHXH tiến hành thu
phí BHXH và triển khai chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng BHXH và các chi phí
quản lý khác.
4.2. Nội dung công tác chi BHXH.
Công tác chi BHXH liên quan trực tiếp đến quyền lợi và đời sống của người tham gia,
cơ quan BHXH phải có trách nhiệm chi trả các loại trợ cấp đến tận tay tất cả các đối
tượng, đủ số lượng và đảm bảo thời gian quy định. Trong khi đó hiện nay cơ quan
BHXH phải đảm bảo chi trả cho rất nhiều loại trợ cấp khác nhau, với các nguồn chi
khác nhau. Công tác chi BHXH bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
4.2.1. Chi trả các chế độ BHXH từ nguồn NSNN.
• Các chế độ BHXH hàng tháng:
- Lương hưu: hưu quân đội, hưu viên chức;
- Trợ cấp mất sức lao động;
- Trợ cấp công nhân cao su;
- Trợ cấp 91( theo quyết định số 91/2000/QĐ- TTg ngày 4/8/2000 của Thủ
tướng chính phủ );
- Trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp;
- Trợ cấp tuất ( định suất cơ bản và nuôi dưỡng );
• Các chế độ BHXH một lần:
- Trợ cấp tuất một lần trong các trường hợp được quy định khi người hưởng
lương hưu, trợ cấp mất sức lao động; người hưởng trợ cấp TNLĐ- BNN hàng

tháng đã nghỉ việc chết;
- Trợ cấp mai táng khi người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ
cấp 91, trợ cấp công nhân cao su và TNLĐ- BNN đã nghỉ việc chết;
• Đóng BHYT cho đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp 91,
công nhân cao su, TNLĐ- BNN hàng tháng;
• Cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình cho người bị TNLĐ-BNN;
• Lệ phí chi trả;
• Các khoản khác( nếu có).
4.2.2. Chi trả các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH.
• Quỹ ốm đau và thai sản:
- Chế độ ốm đau;
- Chế độ thai sản;
- Nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản;
- Lệ phí chi trả.
• Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
- Trợ cấp TNLĐ- BNN hàng tháng;
- Trợ cấp phục vụ người bị TNLĐ- BNN hàng tháng;
- Trợ cấp một lần khi bị TNLĐ-BNN và khi chết do TNLĐ- BNN;
- Cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình cho người bị
TNLĐ- BNN;
- Đóng BHYT cho người nghỉ việc hưởng trợ cấp TNLĐ- BNN hàng
tháng;
- Lệ phí chi trả.
• Quỹ hưu trí, tử tuất:
o Các chế độ hàng tháng:
+ Lương hưu( hưu quân đội và hưu viên chức);
+ Trợ cấp cán bộ xã, phường, thị trấn ( theo Nghị Định số 09/1998/NĐ- CP
ngày 23/1/1998 của Chính phủ);
+ Trợ cấp tuất( định suất cơ bản, định suất nuôi dưỡng).
o Các chế độ một lần:

+ Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu theo Điều 54 Luật BHXH;
+ BHXH một lần theo khoản 1 Điều 55 Luật BHXH;
+ Trợ cấp tuất một lần trong các trường hợp được quy định khi TNLĐ- BNN
hàng tháng đã nghỉ việc; người lao động đang đóng BHXH và đang bảo lưu
thời gian đóng BHXH bị chết;
+ Trợ cấp mai táng khi người hưởng lương hưu , trợ cấp cán bộ xã; người
hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN hàng tháng đã nghỉ việc; người lao động đang
đóng BHXH và đang bảo lưu thời gian đóng BHXH bị chết;
o Đóng BHYT cho người hưởng lương hưu, trợ cấp cán bộ xã hàng tháng;
o Lệ phí chi trả;
o Các khoản khác nếu có.
4.3. Phân cấp thực hiện chi trả các chế độ BHXH.
Hoạt động của cơ quan BHXH được phân cấp theo ngành dọc để đảm bảo sự thống
nhất, tránh chồng chéo lãng phí. Hoạt động chi trả các chế độ cũng được phân cấp thực
hiện. Mỗi cấp quản lý có nhiệm vụ khác nhau trong việc chi trả chế độ BHXH. BHXH
cấp trung ương chịu trách nhiệm quản lý chung. Hàng năm tiến hành cấp kinh phí, kinh
phí bổ sung cho cơ quan BHXH cấp dưới, đảm bảo chi trả kịp thời cho đối tượng.
BHXH tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trong việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH
trên địa bàn quản lý. Đồng thời, BHXH tỉnh còn có nhiệm vụ trực tiếp chi trả; quyết
toán chế độ ốm đau, thai sản, và chi trả các chế độ BHXH một lần cho người lao động
do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH. BHXH huyện có nhiệm vụ tổ chức chi trả và quyết
toán chế độ ốm đau, thai sản, chi trả các chế độ BHXH một lần cho ngưòi lao động do
BHXH huyện quản lý thu BHXH và các trường hợp BHXH tỉnh uỷ quyền. Đồng
thời,BHXH huyện chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp tuất một lần,
trợ cấp mai táng cho các đối tượng hưởng hàng tháng trên địa bàn; chi trả các chế độ
BHXH cho người lao động có hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng BHXH nộp tại BHXH
huyện theo quy định.
Dù là đơn vị BHXH thuộc cấp quản lý nào cũng phải thường xuyên có những
đóng góp, tham mưu và tích cực trong công tác hoàn thiện chính sách BHXH cho phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và cần phải lưu ý các vấn đề sau:

- Xây dựng mô hình quản lý chi trả hợp lý tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội mỗi quốc
gia.Tuân thủ nguyên tắc chi trả chế độ BHXH dựa trên cơ sở quy định Nhà nước đó và
các điều ước quốc tế đã được cam kết.
- Phân cấp và quy định cụ thể, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của từng cấp, từng đơn vị, từng cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ quản lý chi trả
chi trả chế độ BHXH. Do hoạt động BHXH có liên quan đến tất cả các ngành, các đơn
vị, tổ chức kinh tế - xã hội và người lao động nên cần chú trọng nâng cao trình độ,
chuyên môn, kỹ năng làm việc sao cho đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia
BHXH khi họ được hưởng chế độ theo quy định.
- Đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời, thuận tiện và an toàn cho người hưởng các
chế độ BHXH. Lựa chọn phương thức chi trả (trực tiếp hoặc gián tiếp) sao cho công tác
chi trả thuận lợi nhất.
- Quản lý hồ sơ của các đối tượng được hưởng chế độ kể cả trước và sau khi được
chi trả chế độ BHXH. Nắm bắt thông tin quản lý đối tượng trong phạm vi quản lý của
mình để lập kế hoạch chi trả chính xác, đầy đủ.
- Thường xuyên tổ chức tuyên truyền cho các đối tượng tham gia BHXH hiểu
được vai trò của BHXH, trách nhiệm và quyền lợi của họ khi tham gia BHXH. Nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng và giải đáp thắc mắc về chế độ BHXH cho người tham gia bảo
hiểm trong thời gian chi trả chế độ.

×