Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.65 KB, 10 trang )

CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
VIỆT NAM
I. GIAI ĐOẠN 1961-1995
1. Giai đoạn khởi đầu sự phát triển của BHXH ở nước ta
Sau ngày hoà bình lặp lại, từ năm 1960, sau khi hoàn thành kế hoạch 3
năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội miền Bắc bước vào kế hoạch
dài hạn 5 năm lần thứ nhất. Lực lượng công nhân viên chức lúc này càng ngày
tuyển dụng càng đông hơn để phục vụ cho yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hôị ở
miền Bắc, trước tình này, Nhà nước cần thiết phải bổ sung chính sách bảo hiểm
xã hội cho phù hợp với tình hình và đáp ứng được mục tiêu không ngừng cải
thiện đời sống cho công nhân viên chức. Vì vậy, ngày 27/12/1961 Chính phủ
ban hành điều lệ tạm thời theo Nghị định số 218/Chính về các chế độ bảo hiểm
xã hội cho công nhân viên chức nhà nứoc. Điều lệ quy định:
+ Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức nhà nước,
lực lượng vũ trang.
+ Đã hình thành nguồn để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội trong
ngân sách Nhà nước. Nguồn hình thành trên cơ sở đóng góp của xí nghiệp, còn
lạI do ngân sách nhà nước cấp. Mức đóng góp của các xí nghiệp là 4,7% so với
tổng quỹ lương. Trong đó 1% để chi cho các chế độ dài hạn và 3,7% chi cho 3
chế độ ngắn hạn. Đối với phần ngân sách Nhà nước, hàng năm Quốc hội thông
qua ngân sách cấp cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho công nhân
viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước.
+ Áp dụng 6 chế độ xã hội là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu chí, và tử tuất cho công nhân viên chức.
Tiếp đến, ngày 18/9/1985, cùng với việc cải tiến chế độ tiền lương, Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc bổ sung, sửa đổi
chế độ bảo hiểm xã hội cho công nhân chức Nhà nước và lực lượng vũ trang
trong giai đoạn này thể hiện những vấn đề trọng tâm là:
Thứ nhất, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức nhà
nước và lực lượng vũ trang. Lực lượng này đến năm 1985 chiếm khoảng 12%
lực lượng lao động xã hội. Còn lại 88% lao động làm việc ở các đơn vị sản xuất,


kinh doanh, dịch vụ ngoài quốc doanh chưa được tham gia.
Thứ hai, nguồn tài chính để thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội một
phần do các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng và còn lại do ngân sách nhà nước
cấp. Mức đóng theo quy định Nghị định số 218/CP và 4,7% nay được nâng lên
13%so với tổng quỹ lương của xí nghiệp. Trong đó, Bộ Lao động -Thương Binh
và Xã hội được giao quản lí 8% để chi trả 3 chế độ mất sức lao động, hưu trí, và
tử tuất, còn lại 5%do Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam quản lý để chi trả 3
chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn, lao động và bệnh nghề nghiệp. Mặc dù, Nghị
định 236/ HĐBT quy định khá chặt chẽ trách nhiệm của xí nghiệp, nhưng thời
gian này do các đơn vị sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ, nên hầu hết nộp
thiếu hoặc không nộp được dẫn đến tình trạng thu không đủ chi, phần ngân sách
nhà nước cấp năm sau cao hơn năm trước. Đến năm 1993 trở đi, Ngân sách nhà
nước cấp bù tới 92,7% trong tổng số tiền chi bảo hiểm xã hội (xem Bảng 1)
Bảng 1: Ngân sách Nhà nước cấp để chi bảo hiểm xã hội
Năm Doanh nghiệp đóng để
chi bảo hiểm xã hội
Ngân sách nhà nước cấp
để chi bảo hiểm xã hội
1964 95,3% 4,7%
1968 45,2% 54,8%
1970 29,7% 70,5%
1980 15,8% 84,3%
1990 26,18% 73,92%
12/1993 7,3% 92,7%
Như vậy, có thể thấy do cơ chế tạo nguồn chưa được xác định rõ ràng nên
quỹ bảo hiểm xã hội chưa được tính đúng, tính đủ, làm cho thu không đủ chi,
ngân sách nhà nước phải càng lớn.
Thứ ba, về tổ chức quản lý trước năm 1986 theo hành chính nhà nước do
bộ Thương binh và xã hội theo hệ thống quản lý 3 cấp : Ở Trung ương đơn vị
tài chính cấp 1 của bộ tài chính cấp 1 của bộ và Vụ kế hoạch tài chính có nhiệm

vụ tổng hợp, cấp phát và quyết đoán từ ngân sách nhà nước cấp với các đơn vị
tài chính cấp 2 là Sở Lao Động -TBXH tỉnh và sau đó Sở quyết toán với đơn vị
tài chính cấp 3 trực thuộc trên cơ sở quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ tài chính cấp
hàng năm.
Thứ tư, theo nghị định 236/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng, thì trong
chính sách bảo hiểm xã hội có 6 chế độ áp dụng cho người lao động trong
trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao
động hoặc chết. Đối với lao động làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại,
làm việc ở những vùng xa xôi hẻo lánh, nơi hải đảo và lược lượng vũ trang
chiến trường được quan tâm, ưu tiên trong việc tính thời gian công tác, như: quy
định quy đổi thời gian công tác 1 năm làm việc thực tế được tính 1 năm 2 tháng
để nghỉ hưu ( nếu lao động nặng nhọc, độc hại ), tính thành 1 năm 4 tháng ( nếu
làm việc ở vùng xa xôi hẻo lánh ) hoặc tính thành 1 năm 6 tháng ( nếu trực tiếp
chiến đấu ở chiến trường gian khổ).
Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội được tính theo tỷ lệ(%) trên mức lương cơ
bản trước khi nghỉ hưu. Mức lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm
công tác và đủ 25 năm công tác được tính bằng 75% lương chính và các khoản
phụ cấp theo lương, sau đó cứ 1 năm làm việc thêm được tính thêm 1% tối đa
lương hưu được hưởnglà 95%lương chính và các khoản phụ cấp (nếu có).
Riêng đối với chế độ mất sức lao động hàng tháng được quy định để áp
dụng cho công nhân viên chức có đủ 15 năm công tác trở lên bị ốm đau, tai nạn
lao động bị mất khả nằng lao động từ 61% trở lên hoặc hết tuổi lao động. Mức
độ trợ cấp mất sức lao động được hưởng quy định là 40% tiền lương áp dụng
nếu đủ 15 năm công tác, sau đó cứ thêm 1 năm được hưởng thêm 1%. Nừu chưa
đủ 15 năm công tác quy đổi, thì được hưởng trợ cấp 1 lần, cứ 1 năm công tác
được hưởng trợ cấp 1 tháng lương và các khoản phụ cấp (nếu có).
Thứ năm, Quản lý nhà nước và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo
Nghị định 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của hội đồng bộ trưởng thì Bộ Lao động-
TBXH có nhiệm vụ xây dựng và trình Chính phủ ban hành chính sách bảo hiểm
xã hội. Còn tổ chức thực hiện chính giao cho 2 cơ quan :

Bộ Lao động-TBXH quản lý 8% quỹ bảo hiểm đề ra trợ cấp mất sức lao
động, hưu trí và tử tuất; tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý 5% quỹ bảo
hiểm xã hội và tổ chức trả trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp.
Tổng số công nhân viên chức làm bảo hiểm xã hội của nghành Lao động-
TBXH tính đến cuối năm 1992 có hơn 3000 người, ở trung ương có 25; tỉnh,
thành phố có khoảng 53 người và quận huyện có khoảng 2500 người.
Tổng số cán bộ của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam làm công tác bảo
hiểm khoảng 1800 người chủ yếu là phục vụ nhà nghỉ, an dưỡng(có 1244
người).
đến cuối năm 1993, do thay đổi cơ chế quản lý nền kinh tế, chính sách bảo
hiểm xã hội cũng bắt đầu thay đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang hạch toán,
gắn liền với quyền lợi với trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội của người lao
động, thì tổ chức quản lý Nhà nước và quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội như
trên đã bộc lộ một số tồn tạI, không đáp ứng nhu cầu về xây dựng, bổ sung
chính sách cũng như tổ chức thu chi và quản lý bảo hiểm xã hội đặt ra nhiệm vụ
phảI đổi mới hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và sự nghiệp bảo hiểm xã hội.
2. Đánh giá chung chính sách bảo hiểm xã hội giai đoạn từ tháng 1961
đến 1/1995
Nhìn lại toàn bộ các chính sách bảo hiểm xã hội do nhà nước ban hành để
thực hiện cho công nhân viên chức từ 1961 đến1/1995, có thể đánh giá như sau:
a. Ưu điểm
Tuy trong điều kiện đất nước mới độc lập, cả nước lại liên tục có chiến
tranh chống Pháp và chống Mỹ, nhưng Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đến
đời sống cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, nên đã
kịp thời ban hành các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội cho họ khi tuổi già,
mất sức lao động ốm đau hoặc chết. Qua gần 35 năm thực hiện hàng triệu người
đã được hưởng lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội, nên đã làm cho đội ngũ công
nhân viên gắn bó với cách mạng, với chính quyền, khuyến khích họ hăng say
chiến đấu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như trong lao động sản xuất

xây dựng đất nước.
• Chính sách bảo hiểm xã hội đã đảm bảo điều kiện thiết yếu về vật chất
và tinh thần cho người lao động và gia đình họ trong những trường hợp gặp rủi
ro không làm việc góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
• Kết quả xây dựng và thực hiện chính sách xã hội cho công nhân viên
chức và lực lượng vũ trang trong 35 năm qua là nhờ cơ sở thực hiện vững chắc
cho việc nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi và đổi mới chính sách sau này, đặc biệt là
xây dựng chương 12 về bảo hiểm xã hội trong bộ luật lao động và điều lệ bảo

×