Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.92 KB, 43 trang )

KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở
VIỆT NAM
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ TỔ CHỨC
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về BHTN
Đảng và nhà nước ta luôn chăm lo, coi trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
mọi người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi thành lập nước, vấn đề giải quyết
việc làm và đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ luôn
luôn được đặt ra. Đặc biệt, sau khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, hiện
tượng thất nghiệp diễn biến phức tạp. Vấn đề ngăn ngừa, hạn chế tình trạng thất
nghiệp khi xác định trách nhiệm của các bên tham gia vào quá trình lao động trong
việc giải quyết hậu quả thất nghiệp đã được đề cập ở nhiều văn bản pháp lý có liên
quan như: Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1992); Bộ
luật Lao động (năm 1994) và nhiều văn bản dưới luật có liên quan khác. Nhìn
chung các quy định trong các văn bản pháp luật đã góp phần hình thành một hành
lang pháp lý cho việc thực thi chính sách xã hội đối với người lao động nhằm ngăn
ngừa và hạn chế thất nghiệp xảy ra. Hệ thống các văn bản pháp lý đã quy định:
- Về giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp và hỗ trợ kinh tế cho người lao động bi
thất nghiệp.
- Về xử lý đối với các trường hợp bị mất việc làm sau khi sắp xếp lại DNNN; kể cả
trong trường hợp sắp xếp lại biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
- Về chế độ điều tra, thống kê và báo cáo tình hình thất nghiệp đối với các cơ quan
chức năng có liên quan,v.v.
Tuy vậy, nếu xem xét một cách tổng thể thì các quy định trên vẫn còn nhiều
mặt hạn chế. Nhiều chủ sử dụng lao động không thực hiện đúng chế độ đối với
người lao động bị mất việc làm, song vẫn không bi xử lý. Mức trợ cấp còn rất thấp
so với những thiệt hại khi người lao động bị thất nghiệp. Hoặc chủ sử dụng lao
1
động đã cố gắng thực hiện, song họ vẫn không đủ điều kiện về mặt tài chính để chi
trả trợ cấp. Mặt khác, việc xét trợ cấp thôi việc hoặc mất việc làm lại quy định chi
trả một lần, cho nên cuộc sống của người lao động bị thất nghiệp vẫn không được


đảm bảo v.v... Rõ ràng, đó chỉ là những biện pháp tình thế và không thể bền vững.
Chính vì vậy, chủ trương xây dựng và ban hành chính sách BHTN là cần
thiết. Và thực tế chủ trương này đã được Đảng và nhà nước xác định và được ghi
trong các Nghị quyết Trung Ương Đảng lần thứ 7 (khóa 7) và lần thứ 4 (khóa 8),
Nghị quyết của Quốc Hội số 11/1997/QH10 kỳ họp thứ 2, Nghị quyết số
20/1998/QH10 kỳ họp thứ 4. Tại hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương
khóa IX, đã ghi : “Khẩn trương bổ sung chính sách BHXH, ban hành chính sách
BHTN theo hướng Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng đóng góp”.
Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá X đã thông qua việc sửa đổi một số điều của Bộ
luật lao động, trong đó cũng qui định rõ: “Chính phủ phải qui định cụ thể điều kiện
mức hưởng trợ cấp BHTN và thành lập cơ quan quản lý và sử dụng quĩ BHTN cho
người lao động”. Để thực hiện chủ trương này, ngày 29/6/2006 tại kỳ họp thứ IX,
Quốc hội khóa 11 đã chính thức thông qua luật BHXH, trong đó đã quy định bắt
đầu từ ngày 1/1/2009 Việt Nam sẽ triển khai BHTN. Đối tượng tham gia và chế độ
BHTN đã được xác định cụ thể. Những nội dung cơ bản về BHTN đã được đề
cập tại Chương 5 và 6 của Bộ luật này. Để chính sách BHTN đi vào cuộc sống thì
vấn đề cụ thể hóa nội dung BHTN và tổ chức triển khai BHTN như thế nào cho
phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay vẫn cần phải tiếp tục được đặt ra.
3.1.2. Quan điểm và nguyên tắc tổ chức BHTN
3.1.2.1. Quan điểm về tổ chức BHTN
Mặc dù chính sách BHTN đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định và coi
trọng. Đồng thời chính sách này đã được Luật hóa và bước đầu đã được cụ thể hóa
trong một số văn bản pháp quy dưới Luật như Nghị định 94/2008/NĐ-CP và Nghị
định 127/2008/NĐ-CP.v.v. Song, mô hình tổ chức loại hình bảo hiểm này như thế
2
nào và kế hoạch triển khai BHTN ra sao thì đến nay vẫn còn nhiều quan điểm và ý
kiến khác nhau. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề này là:
a. Mô hình tổ chức BHTN phải đảm bảo tính thống nhất cả trước mắt và lâu
dài. Bởi đã là kinh tế thị trường thì thất nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Theo
nhà kinh tế học E Wayne Nafjiger thì kinh tế thị trường đã “đẻ ra” thất nghiệp và

“ở đâu cũng có thất nghiệp, lúc nào cũng có thất nghiệp”. Chính vì thế BHTN đang
là xu hướng tất yếu mà chính phủ nhiều nước kinh tế đang phát triển và chậm phát
triển hướng tới để áp dụng. Nhưng khi áp dụng thì mô hình tổ chức phải đảm bảo
tính thống nhất cả trước mắt và lâu dài. Điều đó cũng có nghĩa là phải đảm bảo tính
xuyên suốt và liên tục của mô hình lựa chọn. Nhiều nước trên thế giới đã coi đây là
một nguyên tắc. Có như vậy, người lao động và người sử dụng lao động mới yên
tâm và tin tưởng tham gia, bởi quãng thời gian tham gia đóng góp để hình thành
quỹ BHTN của một người lao động là khá dài (khoảng 20 đến 30 năm). Chỉ cần
một thay đổi mô hình tổ chức là các bên tham gia nghĩ ngay đến quyền lợi của họ
bị ảnh hưởng. Điều này gây nên tâm lí hoang mang, thiếu tin tưởng vào chính sách,
chế độ BHTN. Từ đó ảnh hưởng đến tâm lí của những thế hệ lao động tiếp theo.
b. Mô hình tổ chức BHTN phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
nước ta. Đó là các điều kiện cụ thể về số lượng đối tượng tham gia; khả năng đóng
góp để hình thành quỹ BHTN của người lao động và người sử dụng lao động; khả
năng đóng góp và bảo trợ của Nhà nước; trình độ quản lí của đội ngũ cán bộ; cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội .v.v. Sự phù hợp ở đây còn phải tính cả đến các yếu tố như:
cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà nước, của các ngành, các cấp và các địa phương;
loại hình cũng như nội dung chính sách, chế độ; những kinh nghiệm trước đây khi
tổ chức và triển khai thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội khác nhau; kinh
nghiệm xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức BHTN của các nước trên thế
giới.v.v Ngoài ra con phải tính đến yếu tố hệ lụy của một chính sách mới, chính
3
sách BHTN có quan hệ và ảnh hưởng như thế nào đến các chính sách kinh tế - xã
hội khác.v.v.
c. Mô hình tổ chức BHTN phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ các quyền lợi hợp
pháp của người lao động tham gia BHTN. Đó là các quyền lợi về mức trợ cấp thất
nghiệp và thời gian trợ cấp; quyền được đào tạo và đào tạo lại tay nghề; quyền
được hỗ trợ tìm kiếm việc làm mới; quyền được tham gia BHTN.v.v. Tất cả những
quyền này nếu được đáp ứng kịp thời và đầy đủ thì chính sách BHTN ở nước ta,
cho dù là một chính sách hoàn toàn mới sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống. Và

đương nhiên, mô hình tổ chức BHTN lựa chọn sẽ thành công. Điều này không chỉ
có tác động tích cực đến thế hệ người lao động hiện tại , mà còn có ý nghĩa rất lớn
đối với những thế hệ lao động trong tương lai.
d. Mô hình tổ chức BHTN phải đảm bảo tính hiệu quả cả về mặt kinh tế và
xã hội cho từng địa phương, cho Nhà nước, cũng như cho các bên tham gia BHTN.
Muốn đảm bảo hiệu quả kinh tế phải đặt yếu tố tiết kiệm lên hàng đầu. Đó là tiết
kiệm về sức người, sức của; tiết kiệm các khoản chi phí không cần thiết do mô
hình tổ chức cồng kềnh, chồng chéo hay phải páh đi, làm lại.v.v. Nếu yếu tố tiết
kiệm được đảm bảo khi lựa chọn mô hình, xét về lâu dài sẽ góp phần làm giảm
mức đóng góp BHTN của các bên tham gia hay góp phần làm gia tăng quyền lợi
cho người lao động khi họ bị thất nghiệp. Muốn đảm bảo hiệu quả xã hội thì mô
hình tổ chức BHTN phải đáp ứng được yêu cầu của tất cả các bên tham gia BHTN,
đồng thời góp phần làm cho chính sách BHTN lan tỏa rộng rãi trong mọi người,
mọi thế hệ lao động.v.v.
3.1.2.2. Nguyên tắc tổ chức BHTN
Bất cứ một tổ chức nào khi đã được hình thành và đi vào hoạt động đều phải
tuân thủ những nguyên tắc nhất định, điều đó không phải là một sự ngoại lệ đối với
tổ chức BHTN. Chúng tôi cho rằng, tổ chức BHTN trong điều kiện Việt Nam cần
phải tuân thủ những nguyên tắc sau đây:
4
Nguyên tắc 1: Tập trung thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương tới địa
phưpng. Đảm bảo nguyên tắc này sẽ giúp cho việc chỉ đạo điều hành tập trung
thống nhất các ngiuệp vụ quản lí từ trung ương xuống các cấp được thông suốt, kịp
thời và ngược lại các thông tin phản hồi từ địa phương cũng sẽ nhanh chóng được
nắm bắt, xử lí để có các giải pháp chỉ đạo trung trên phạm vi toàn quốc. Nguyên
tắc này xuất phát từ sự đòi hỏi quản lí tập trung thống nhất quỹ BHTN. Theo đó,
mọi khoản đóng góp của các bên tham gia đều phải được coi là khỏan thu cho quỹ
BHTN. Tương tự, bất cứ một khoản chi nào liên quan đến BHTN đều phải thuộc
về khoản chi từ quỹ BHTN. Chính cơ chế quản lí quỹ BHTN tập trung đã phần nào
xác định rõ mô hình tổ chức BHTN phải tập trung thống nhất. Ngoài ra, nguyên tắc

này còn xuất phát từ yêu cầu tổ chức triển khai BHTN để thực hiện các chế độ có
liên quan trên phạm vi toàn quốc. Bao gồm cả việc điều hành hoạt động; đăng ký
thất nghiệp; cấp phát sổ BHTN; giải quyết trợ cấp; lưu trữ hồ sơ.v.v.
Nguyên tắc 2: Phân cấp quản lí phải được thực hiện ngay từ đầu khi mô hình
tổ chức BHTN được xác lập. Theo mô hình tổ chức ngành dọc và quản lí trực
tuyến, cho nên việc phân cấp, phân quyền cần phải được thực hiện ngay từ đầu một
cách rõ ràng để đảm bảo tính độc lập trong quản lí. Tuy nhiên, tính độc lập của
từng cấp vẫn phải đảm bảo nguyên tắc trực thuộc, cấp dười phục tùng cấp trên và
chịu sự chỉ đạo của cấp quản lí trực tiếp. Thực hiện nguyên tắc này, một mặt sẽ
phát huy được tính chủ động, sáng tạo của từng cấp, mặt khác sẽ đảm bảo sự phối
hợp giữa các cấp, các bộ phận chức năng trong toàn hệ thống hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, nó còn khắc phục được tình trạng bao cấp, ỷ nại và
sự lệ thuộc của cấp dười trong quá trình vận hành của tổ chức BHTN.
Nguyên tắc 3: Hệ thống tổ chức BHTN phải gọn nhẹ và hoạt động có hiệu
quả. Đây là nguyên tắc cần phải được hết sức coi trọng, nhất là trong bối cảnh
nước ta hiện nay. Nguyên tắc này xuất phát từ sự đòi hỏi khách quan của bộ máy tổ
chức quản lí Nhà nước của Chính phủ cũng như sự đòi hỏi khách quan của việc
5
giảm chi phí quản lí hành chính cho quỹ BHTN. Nguyên tắc này không nên chỉ
quán triệt khi mới hình thành tổ chức BHTN, mà nó cần phải đượcq uán triệt trong
suốt quá trình vận hành của tổ chức này. Điều đó cũng có nghĩa là sau khi bộ máy
tổ chức BHTN được hình thành vẫn phải tiến hành rà soát, điều chỉnh chức năng
nhiệm vụ của các cấp, các bộ phận để loại bỏ những chức năng, nhiệm vụ còn
chồng chéo, không cần thiết. Sau đó tiến hành kiện toàn bộ máy BHTN cho phù
hợp. Thực hiện tốt nguyên tắc này về lâu dài sẽ tiết kiệm được chi phí quản lí, nâng
cao được mức trợ cấp BHTN cho người lao động, từ đó góp phần đảm bảo cân đối
quỹ BHTN.
Nguyên tắc 4: Tổ chức BHTN phải đáp ứng được cả yêu cầu trước mắt và
lâu dài khi nhu cầu tham gia BHTN ngày càng gia tăng.
Mở rộng đối tượng tham gia BHXH nói chung và BHTN nói riêng luôn là

định hướng, là mục tiêu chiến lược lâu dài của Chính phủ các nước, trong đó có
nước ta. Bởi lẽ, thực hiện được mục tiêu này cũng có nghĩa là diện bảo vệ của
BHTN sẽ ngày càng được mở rộng, ASXH sẽ ngày càng bền vững. Dưới góc độ
quản lí, nếu đối tượng tham gia BHTN được mở rộng thì quy luật số đông bù số ít
trong bảo hiểm sẽ phát huy tác dụng tốt hơn. Hiện tại, nếu theo luật BHXH hiện
hành, thì số lượng người lao động tham gia BHTN ở nứơc ta chỉ vào khoảng hơn
7triệu người. Theo đà phát triển của nền kinh tế - xã hội, đến năm 2015 con số này
sẽ vào khoảng 12 triệu và 2020 sẽ là 18 triệu người lao động tham gia BHTN.
Chính vì vậy, nhiệm vụ và khối lượng công việc mà tổ chức BHTN phải hoàn
thành sẽ ngày càng lớn. Do đó, tổ chức bộ máy BHTN phải đủ mạnh và cần phải
đặt trong một hệ thống đồng bộ giữa: tổ chức - công việc – con người, nói cách
khác tổ chức BHTN nước ta phải đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài do thực
tế khách quan đòi hỏi.
3.2. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
6
3.2.1. BHTN ở một số nước trên thế giới
3.2.1.1. BHTN tại Cộng hòa Liên bang Đức
Theo cơ quan việ làm Liên bang Đức (IAB), BHTN được bắt đầu tổ chức
triển khai ở nước này vào năm 1919 và được chính thức hóa bằng bộ luật BHXH
vào năm 1927 (Dịch vụ việc làm và BHTN. Đạo luật BHTN hiện hành được thông
qua năm 1997 (Xúc tiến việc làm). BHTN là một chương trình BHXH bắt buộc
dựa trên sự đóng góp tài chính của người lao động và người sử dụng lao động. Đối
tượng áp dụng là những người làm công, bào gồm cả những người làm việc tại
nhà, những người đang học việc, thực tập sinh. Những đối tượng khác (bao gồm cả
những những người đang theo các khóa đào tạo nghề) cũng thuộc diện bảo vệ tùy
theo từng điều kiện. Không thuộc diện bảo vệ những người được thuê làm việc
không ổn định. Hiện tại, người lao động được bảo hiểm đóng 3,25% thu nhập được
bảo hiểm. Thu nhập hàngn ăm tối đa được bảo hiểm là 63.000 euro. Người sử dụng
lao động đóng 3,25% thu nhập được bảo hiểm còn Chính phủ thì cho vay hoặc trợ

cấp khi có thâm hụt quỹ BHTN.
Điều kiện hưởng BHTN ở Đức được quy định như sau:
+ Người lao động phải có hợp đồng lao động tối thiểu 12 tháng trong một
giai đoạn xem xét (3 năm cuối trước khi đnag ký thất nghiệp) và đã đóng BHTN
bắt buộc. Đối với người lao động làm việc thường xuyên dưới 12 tháng trong một
năm vì lí do đặc thù của công việc (lao động thời vụ), thì chỉ cần có đủ 6 tháng
làmm việc và đóng BHTN bắt buộc. Người lao động nước ngoài có công việc
thường xuyên có thể được nhận BHTN theo các điều kiện tương tự như người lao
động Đức.
+ Phải đăng ký thất nghiệp, sẵn sàng nhận công việc mới, phải đưa ra bằng
chứng về sự nỗ lực tìm việc làm. Khi đã đăng kí thất nghiệp, phải có trách nhiệm
báo cáo với với cơ quan việc làm nếu được yêu cầu.
7
BHTN được chi trả hàng tháng, theo tỷ lệ 67% hoặc 60% mức lương thực tế
tháng cuối cùng của người lao động trước khi bị thất nghiệp (lương này không bao
gồm các khoản thu nhập và tài sản khác). Cu thể, người thất nghiệp được hưởng
60% lương thực tế (lương sau khi đã trừ đi các khoản đóng góp bắt buộc như thuế
thu nhập, BHXH, BHYT). Trong trường hợp người lao động có ít nhất một trẻ em
phụ thuộc sẽ được nhận mức BHTN là 67% lương thực tế.
Mức hưởng BHTN có sự khác biệt phụ thuộc vào mức lương đóng BHTN.
Tuy vậy, Đức quy định một mức trần đóng BHTN để xác định mức trợ cấp BHTN
tối đa. Mức trần này được đièu chỉnh hàng năm theo mức lương chung. Sau khi
mất việc làm, người thất nghiệp được giải quyết nhận trợ cấp BHTN ngay mà
không có giai đoạn chờ áp dụng. Thời gian hưởng tùy thuộc vào thời gian làm việc
có đóng BHTN trước đó (trong giai đoạn 7 năm trước khi thất nghiệp) và tuổi của
người thất nghiệp. Chẳng hạn: nếu thời gian làm việc có đóng BHTN là 24 tháng
và độ tuổi của người bị thất nghiệp dưới 45 thì thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp
là 12 tháng. Tương tự nếu thời gian làm việc có đóng BHTN là 36 tháng, nhưng
tuổi của người bị thất nghiệp là 50 thì thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp sẽ là 18
tháng.v.v.

Ở Cộng hòa Liên bang Đức, BHTN là một chế độ nằm trong hệ thống chế
độ BHXH, bao gồm bảo hiểm hưu trí, BHTN, bảo hiểm TNLĐ-BNN và bảo hiểm
chăm sóc sức khỏe.v.v. Bộ Lao động và chính sách xã hội Liên bang thực hiện
giám sát chung. Cơ quan việc làm địa phương chịu trách nhiệm sắp xếp việc làm,
chỉ dẫn việc làm, quản lí trợ cấp. Vì là một chế độ BHXH, nên việc tổ chức triển
khai BHTN cũng nằm trong hệ thống tổ chức BHTN. Tổ chức này được phân theo
các cấp tương ứng với các cấp chính quyền trong cả nước. Việc xét trợ cấp BHTN,
việc quản lí chế độ BHTN cũng tương tự như các chế độ BHXH khác. Duy chỉ có
quỹ BHTN được gộp vào quỹ trợ cấp ốm đau để hình thành một quỹ thành phần.
8
Quỹ này có nhiệm vụ thu các khoản đóng góp của người lao động và người sử
dụng lao động.
3.2.1.2.BHTN tại Mỹ
Tại Mỹ, BHTN được thực hiện từ năm 1935. BHTN cung cấp khoản trợ cấp
cho những người lao động bị thất nghiệp mà không phải do lỗi của họ. Khoản trợ
cáp này nhằm tạo ra sự hỗ trợ tài chính tạm thời cho người thất nghiệp. Từng bang
ở Mỹ quản lí chương trình BHTN riêng của mình theo các quy định trong Luật
pháp Liên bang. Điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng trợ cấp do luật
páhp từng bang quy định. Ở hầu hết các bang của Mỹ, quỹ BHTN được tài trợ dựa
trên khaỏn thuế đánh vào chủ sử dụng lao động. Chỉ có 3 bang yêu cầu khoản đóng
góp tối thiểu của người lao động.
Đối tượng áp dụng BHTN ở Mỹ là người lao động trong các doanh nghiệp
công nghiệp và thương mại, người lao động trong các tổ chức phi lợi nhuận có sử
dụng từ 4 lao động trở lên trong 20 tuần trong 1 năm hoặc trả 1500 đô la hoặc hơn
cho một quý theo lịch trong 1 năm. Người lao động làm việc cho chính quyền Liên
bang và chính quyền địa phương, người lao động ở các nông trang, quân nhân đều
thuộc diện bảo vệ. Không thuộc đối tượng áp dụng: một số lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp, người lao động trong các tổ chức tôn giáo, người lao động trong gia
đình, người không có việc làm cố định, người tự tạo việc làm. Người lao động
trong lĩnh vực đường sắt có chương trình riêng.

Nguồn quỹ BHTN được hình thành như sau:
+ Người lao động làm thuê không phải đóng góp
+ Người sử dụng lao động: Đóng góp vào chương trình Thuế Liên Bang
0,8% thu nhập chịu thuế (Mức đóng đầy đủ là 6,2% nhưng trong đó 5,4% là khoản
cho nợ nếu các bang đáp ứng yêu cầu của Liên Bang). Đóng góp vào chương trình
của bang: tỷ lệ đóng là 5,4% thu nhập chịu thuế.
9
+ Chính phủ: Nguồn thi từ thuế Liên bang được sử dụng để trang trải chi phí
quản lí chương trình BHTN của Bang, cho các bang vay để chi trả trợ cấp BHTN,
hoặc để tài trợ cho các chương trình trợ cấp mở rộgn. Nguồn thu từ thuế của Bang
được sử dụng để chi trả trợ cấp BHTN
Điều kiện hưởng trợ cấp BHTN là:
+ Người lao động phải có việc làm được trả công trong một khoảng thời
gian nhất định trước khi thất nghiệp (thời gian “cơ sở”). Ở hầu hết các bang của
Mỹ đều quy định thời gian là 4 trong 5 quý ngay trước khi người lao động xin
hưởng trợ cấp BHTN.
Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động
+ Người lao động phải có khả năng làm việc, sẵn sàng làm việc, đang tích
cực tìm việc làm.
+ Phải là công dân Mỹ hoặc làm việc hợp pháp tại Mỹ.
Người lao động sẽ không đủ điều kiện hưởng trợ cấp nếu tự ý bỏ việc mà
không có lí do chính đáng, bị sa thải vì không tuân thủ quy định làm việc, từ chối
việc làm phù hợp. Người lao động sẽ không được hưởng trợ cấp nếu tham gia vào
các cuộc tranh chấp lao động. Thời gian mất quyền được hưởng các bang quy định
khác nhau và phụ thuộc vào lí do mất quyền hưởng. Khi bị thất nghiệp, người thất
nghiệp cần liên lạc ngay với cơ quan BHTN ở từng bang (liên lạc càng sớm càng
tốt). Ở một só bang, người thất nghiệp có thể điền vào hồ sơ yêu cầu hưởng trợ cấp
thông qua điện thoại hoặc internet. Trong hồ sơ yêu cầu hưởng trợ cấp, người thất
nghiệp phải cung cấp các tài liệu và các thông tin về thẻ ASXH, địa chỉ, số điện
thoại của nơi làm việc và khoảng thời gian làm việc trước khi thất nghiệp, tài liệu

chứng minh về mất việc làm (ví dụ như thư từ người sử dụng lao động)
Nhìn chung mức hưởng BHTN được xác định là tỷ lệ % thu nhập của cá
nhân trong khoảng thời gian 52 tuần gần nhất. Mửc trợ cấp vào khoảng 50% thu
nhập của người được bảo hiểm (thường bằng 50% tiền lương tuần trung bình của
10
bang). Ở hầu hết các bang thời gian tối đa được hưởng trợ cấp là 26 tuần. Trong
thời kỳ mà tỷ lệ thất nghiệp cao, thời gian hưởng trợ cấp sẽ được kéo dài thêm một
số tuần.
BHTN ở Mỹ được tổ chức thành hệ thống độc lập, tách khỏi BHXH. CỤ thể,
Bộ Lao động thực hiện việc quản lí ở cấp quốc gia thông qua cơ quan quản lí đào
tạo việc làm và cơ quan đảm bảo lực lượng lao động. Cơ quan Đảm bảo lực lượng
lao động ở từng bang chịu trách nhiệm quản lí chương trình riêng của từng bang>
một nửa trong số này là các cơ quan thuộc bộ máy chính quyền, số còn lại là các
hội đồng độc lập. Các cơ quan này có nhiệm vụ là triển khai BHTN theo đúng
pháp luật. Cụ thể là tổ chức quản lí quỹ BHTN, chi trả trợ cấp BHTN, đăng kí thất
nghiệp và trực tiếp đứng ra giới thiệu việc làm cho những người lao động bị thất
nghiệp. Nhìn chung từng bang đứng ra tổ chức, còn cơ quản quản lí đào tạo việc
làm và cơ quan đảm bảo lực lượng lao động thuộc Bộ lao động chỉ quản lí chung
và giám sát quá trình tổ chức của các bang theo đúng pháp luật.
3.2.1.3. BHTN tại Nhật Bản
Tại Nhật Bản, Luật BHTN được ban hành lần đầu vào năm 1947. Đến năm
1974, Luật bảo hiểm việc làm được ban hành thay thế cho Luật BHTN. Bảo hiểm
việc làm là một chế độ bảo hiểm bắt buộc do Chính phủ quản lí liên quan đến việc
hoàn thành một cách toàn diện, cung cấp các phúc lợi bao gồm: Các khoản trợ cấp
thất nghiệp (Trợ cấp tìm việc làm; trợ cấp xúc tiền việc làm; trợ cấp đào tạo và dạy
nghề; trợ cấp tiếp tục làm việc); và 3 loại dịch vụ: Ổn định việc làm (ngăn ngừa
thất nghiệp; cải thiện điều kiện làm việc, tăng cơ hội việc làm); Phát triển nguồn
nhân lực (phát triển, trau dồi năng lực cho người lao động bằng việc xây dựng và
quản lí các cơ sở đào tạo); phúc lợi xã hội cho người lao động (tư vấn, dịch vụ hỗ
trợ tìm việc làm, tuyển dụng.v.v.)

Đối tượng áp dụng bao gồm:
+ Người làm công dưới 65 tuổi
11
+ Với những người làm công trong các cơ sở sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
có sử dụng dưới 5 lao động thường xuyên thuộc diện tham gia BHTn tự nguyện.
+ Không áp dụng với những người lao động theo mùa vụ có thời hạn lao
động là 5 tháng hoặc thấp hơn.
+ Với những người lao động giúp việc nhà hàng ngày, thủy thủ và công chức
Nhà nước có các chương trình BHTN riêng.
Nguồn quỹ BHTN đựợc hình thành do:
+Người được bảo hiểm đóng 0,8% tiền lương. Với người lao động làm việc
trong các cơ sở nông lâm, ngư nghiệp và trong các nhà máy sản xuất rượu sakê, tỷ
lệ đóng là 0,9% tiền lương.
+ Người sử dụng lao động đóng 1,15% quỹ lương. Với các cơ sở nông, lâm
ngư nghiệp và các nhà máy sản xuất rượu sakê, tỷ lệ đóng là 1,25% quỹ lương. Với
công nhân xây dựng là 1,35% quỹ lương.
+ Chính phủ hỗ trợ 25% các khảon chi trợ cấp thất nghiệp và các khaỏn trpj
cấp đặc biệt.
Điều kiện hưởng trợ cấp BHTN là:
+ Người lao động phải có 6 tháng làm việc có đóng bảo hiểm trong 12 tháng
gần nhất. Với người làm việc bán thời gian phải có 1 năm làm việc có đóng bảo
hiểm trong 2 năm gần nhất.
+ Phải đăng ký với “cơ quan đảm bảo việc làm công cộng”, có khả năng làm
việc, sẵn sang làm việc; cứ 4 tuần 1 lần, người thất nghiệp phải báo cáo với cơ
quan đảm bảo việc làm công cộng.
+ Thất nghiệp không phải do tự ý bỏ việc, không chấp hành nội quy làm
việc, từ chối việc làm phù hợp hoặc không tham gia các khóa đào tạo nghề.
Mức trợ cấp BHTN được quy định như sau:
+ mức trợ cấp BHTN từ 50 đến 80% tiênè công nhật trung bình của người
được bảo hiểm trong thời gian 6 tháng trước khi thất nghiệp (với người có tiền

12
công thấp hơn thì tỷ lệ trả là cao hơn). Nếu người được bảo hiểm từ 60 đến 64 tuổi,
tỷ lệ trợ cấp là tử 45 đến 80%. Mức trợ cấp hàng ngày tối thiểu là 1.688 yên
(1USD = 112,26 yên). Mức trợ cấp hàng ngày tối đa là 7.935 yên.
+ Bên cạnh trợ cấp thu nhập, người thất nghiệp còn có thể được nhận trợ cấp
đặc biệt hàng ngày hoặc hàng tháng. Trợ cấp này nhằm giúp người thất nghiệp
trang trải các chi phí đào tạo nghề và tìm việc làm. Muốn được hưởng trợ cấp,
người được bảo hiểm phải thuộc diện bảo hiểm trong thời gian ít nhất 3 năm và
phải tham gia các khóa đào tạo nghề đã được hoạch định. Thời gian trợ cấp từ 90
đến 150 ngày phụ thuộc vào thời gian tham gia bảo hiểm, độ tuổi, lí do thất nghiệp,
triển vọng việc làm. Người thất nghiệp sẽ được trợ cấp thêm từ 90 đến 330 ngày
nếu họ bị thất nghiệp từ những ngành đang suy thoái, hoặc bị ốm đau, hoặc đang
tham gia các khóa đào tạo.
Tại Nhật Bản, các chế độ BHXH bao gồm 2 phần: BHXH (gồm bảo hiểm
hưu trí, BHYT) và bảo hiểm lao động (gồm bảo hiểm việc làm, bảo hiểm bồi
thường tai nạn cho người lao động.v.v.Chế độ bảo hiểm hưu trí và BHYT do cơ
quan BHXH quản lí và tổ chức thực hiện. Bảo hiểm việc làm do cơ quan Bảo đảm
việc làm của Chính phủ thực hiện. Bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động
do cơ quan Thanh tra lao động thực hiện. Cụ thể, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi
chịu trách nhiệm quản lí và giám sát chung. Cục Đảm bảo việc làm thuộc Bộ này
trực tiếp đứng ra tổ chức BHTN. Nhiệm vụ chính của cục là tổ chức BHTN xuống
tận cấp huyện. Đứng ra thu, chi và quản lí quỹ BHTN, xét trợ cấp thất nghiệp, đào
tạo và đào tạo lại tay nghề và tìm kiếm việc làm cho người lao động.v.v.
Như vậy, BHTN tại Nhật Bản được tổ chức thành một hệ thống độc lập, tách
khỏi BHXH.
3.2.1.4. BHTN tại Trung quốc
Trong thời kì kinh tế kế hoạch, Chính phủ Trung Quốc đưa ra mục tiêu thanh
tóan thất nghiệp. Trên cơ sở đó đã thống nhất sắp xếp việc làm cho lao động thành
13
thị, thực hiện chính sách “nhiều việc làm, lương thấp” và biện pháp “5 người nuôi

3 người”. Kết quả là mọi người lao động đều có việc làm, không có thất nghiệp
toàn phần. Sau khi thực hiện chính sách cải cách, Trung quốc chủ trương xây dựng
nền kinh tế thị trường XHCN, phát triển kinh tế nhiều thành phần, sắp xếp lại các
doanh nghiệp Nhà nước. Chế độ lao động, việc làm có nhiều thay đổi sâu sắc, thất
nghiệp trở thành vấn đề nổi cộm. Đứng trước tình hình đó, năm 1986, Quốc vụ
viện Trung Quốc đã ban hành “Quy định tạm thời về bảo hiểm chờ việc đối với
công nhân trong doanh nghiệp Nhà nước”. Như vậy, có thể nói tại Trung quốc,
BHTN đã được thực hiện từ năm 1986 nhưng chỉ áp dụng đối với người lao động
trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Năm 1993, tại Hội nghị trung ương 3 (khóa 14), Đảng cộng sản Trung quốc
đã thông qua “nghị quyết về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa”, trong đó đề cập “Chế độ BHTN”. Trên cơ sở đó, “Điều lệ BHTN
đối với người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước” đã được sửa đổi theo
hướng mở rộng đối tượng. Tháng 1 năm 1999, trên cơ sở tổng kết những kinh
nghiệm BHTN, quốc vụ viện Trung quốc đã ban hành “Điều lệ BHTN” nhằm hoàn
thiện hơn nữa chế độ BHTN. Nội dung cơ bản của Điều lệ như sau:
Đối tượng áp dụng:
+ Tất cả người lao động ở thành thị, bao gồm: người lao động làm việc trong
các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân ở các thành phố, thị trấn, doanh
nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp khác.
+ Nông dân làm hợp đồng trong các doanh nghiệp, cơ quan
+ Người lao động làm việc trong các tổ chức xã hội hoặc các đơn vị do cộng
đồng điều hành.
Nguồn quỹ BHTN do:
+ Các doanh nghiệp ở thành phố và thị trấn đóng 2% quỹ tiền lương, người
lao động đóng 1% tiền lương.
14
+ Nông dân làm việc theo hợp đồng trong các doanh nghiệp không phải
đóng góp.
Để nâng cao khả năng thành toán của BHTN, Trung quốc xây dựng cơ chế

hỗ trợ của Trung ương đối với vùng khó khăn trong chi tiêu quỹ BHTN. Cụ thể,
chính quyền địa phương có nhiệm vụ cung cấp tài chính hỗ trợ nhằm khắc phục
những thiếu hụt trong thu chi quỹ BHTN.
Muốn được hưởng BHTN, người lao động phải thỏa mãn các điều kiện:
+ Có đăng ký thất nghiệp và đang tìm việc làm
+ Đã đóng BHTN tối thiểu 12 tháng
+ Thất nghiệp không tự nguyện
Mức hưởng trợ cấp BHTN: Do chính quyền địa phương quy định. Mức trợ
cấp này cao hơn tiêu chuẩn bảo trợ của địa phương và thấp hơn mức tiền lương tối
thiểu ở địa phương. Ngoài trợ cấp thu nhập, người thất nghiệp còn được hưởng trợ
cấp y tế, trợ cấp tuất một lần khi tử vong, được hỗ trợ chi phí đào tạo, chi phí giới
thiệu việc làm. Chính phủ Trung quốc chủ trương quỹ BHTN phải dành một tỷ lệ
nhất định chi cho việc bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp và thông tin thị trường lao
động, phát huy vai trò quan trọng của quỹ trong việc thúc đẩy việc làm.
Thời gian hưởng trợ cấp phụ thuộc vào thời gian tham gia BHTN, cụ thể:
+ Tối đa là 12 tháng đối với những người có thời gian đóng góp BHTN tử đủ
1 năm đến dưới 5 năm.
+ Tối đa 18 tháng đối với những người có thời gian đóng BHTN từ đủ 5 năm
đến dưới 10 năm.
+ Tối đa 24 tháng đối với những người có thời gian đóng BHTN trên 10
năm.
Điều lệ BHTN Trung Quốc cũng quy định trong thời kỳ tìm việc khó khăn,
chính quyền các cấp sẽ gia hạn việc lĩnh BHTN nhưng mức hưởng sẽ giảm dần
theo từng năm.
15
Về tổ chức BHTN: Hiện nay, BHTN là 1 trong 5 chế độ BHXH của Trung
quốc (bên cạnh các chế độ hưu trí, BHYT cơ bản, tai nạn lao động và thai sản). Về
công tác quản lí hành chính, chính quyền trung ương và địa phương cùng chia sẻ
trách nhiệm đối với quản lí về BHXH. Trong đó chính quyền trung ương có nhiệm
vụ đưa ra các quy định, chính sách và mức chuẩn tại địa phương phù hợp với quy

định của trung ương; tổ chức thu các khoản đóng góp và chi trả trợ cấp về BHXH.
Tại trung ương và địa phương, các cơ quan BHXH được thành lập với số cán bộ,
nhân viên lên đến 100000 người trong toàn quốc. Nhiệm vụ chính của cơ quan
BHXH là: Tiếp nhận đăng kí tham gia; tổ chức thu BHXH; hạch toán các khoản
đóng góp; quản lí tài khoản cá nhân của người tham gia; kiểm tra tính phù hợp của
các yêu cầu; chi trả các khoản trợ cấp; quản lí quỹ BHXH.
Tháng 10 năm 2004, Bộ Lao động và bảo đảm xã hội Trung quốc tuyên bố
thành lập chế độ đăng ký thất nghiệp và giám sát thất nghiệp và đưa ra kế hoạch là
các ban, ngành lao động và bảo đảm xã hội 3 cấp trung ương, tỉnh, thành phố chịu
trách nhiệm cung cấp thông tin về tình hình thất nghiệp và số người được lĩnh tiền
BHTN nhằm tham mưu cho Chính phủ có những quyết sách kịp thời. Như vậy, ở
Trung quốc, việc tổ chức BHTN cũng nằm trong hệ thống tổ chức BHXH. Tuy
nhiên, Bộ lao động và bảo đảm xã hội cũng tham gia quản lí.
3.2.1.5. BHTN tại Thái Lan
Tại Thái lan, Luật ASXH ban hành năm 1990 quy định BHXH gồm 7 chế
độ, đó là Chế độ tai nạn hoặc ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tàn tật; chế độ trợ
cấp tuất; trợ cấp trẻ em; trợ cấp hưu trí và trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, cho đến
năm 2003, cơ quan ASXH Thái Lan mới thực hiện 6 chế độ BHXH, chưa thực hiện
chế độ trợ cấp thất nghiệp.
Mặc dù cơ quan ASXH đã nghiên cứu khả năng thực hiện chế độ BHTN tại
Thái lan từ năm 1998 với sự trợ giúp kỹ thuật của ILO, cơ quan phát triển quốc tế
Nhật Bản (JICA) và Ngân hàng thế giới, nhưng đến năm 2004, chế độ BHTN mới
16
chính thức được thực hiện. Đối tượng áp dụng là tất cả những người tham gia
BHXH bắt buộc – đó là những người làm công trong độ tuổi từ 15 đến 60. Quỹ
BHTN được hình thành do người lao động đóng 0,5% tiền lương hàng tháng. Tiền
lương tháng tối thiểu cho việc đóng và hưởng trợ cấp là 1.650 bạt (1USD = 38,15
bạt). Tiền lương hàng tháng tối đa cho việc đóng và hưởng trợ cấp là 15000 bạt.
Người sử dụng lao động đóng 0,5% quỹ lương và Chính phủ hỗ trợ 0,25% cho quỹ
BHTN.

Điều kiện hưởng trợ cấp BHTN ở Thái lan là:
+ Đã đóng BHTN từ 6 tháng trở lên trong thời gian 15 tháng trước khi thất
nghiệp
+ Đã đăng ký thất nghiệp và hàng tháng phải trình diện tại Văn phòng Dịch
vụ việc làm của Chính phủ theo quy định.
+ Có khả năng làm việc và sẵn sang nhận một công việc phù hợp.
+ Người lao động thất nghiệp sau 8 ngày tính từ ngày đầu tiên bị thất nghiệp
không do các nguyên nhân như thực thi công việc không trung thực; cố ý vi phạm
tội hình sự chống lại chủ sử dụng lao động.v.v.
Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHTN:
+ Nếu thất nghiệp không tự nguyện, mức trợ cấp là 50% tiền công nhật trung
bình của người thất nghiệp của 3 tháng được trả cao nhất trong 9 tháng trước khi
thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày trong 1 năm.
+ Nếu thất nghiệp tự nguyện, mức trợ cấp là 30% tiền công nhật trung bình
của người thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp tối đa là 90 ngày trong 1 năm.
+ Thời gian chờ là 7 ngày
+ Mức trợ cấp hàng ngày tối đa là 250 bạt
Về tổ chức BHTN: Để thực hiện tốt chính sách BHTN, ngoài việc thu đóng
góp bảo hiểm và chi trợ cấp cho người thất nghiệp thì một chức năng rất quan
trọng khác của chương trình BHTN là cung cấp việc làm, đào tạo nghề, phát triển
17

×