Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.35 KB, 22 trang )

KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO
HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG
BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI
1. Những thuận lợi và khó khăn của Bảo Minh Hà Nội
1.1. Những thuận lợi
Do Đảng và Nhà nước ta đã mở cửa nền kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế
thế giới nên kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Biểu 2: Tình hình xuất nhập khẩu toàn thị trường 2000-2004
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Từ năm 2000 đến năm 2001, kim ngạch nhập khẩu đã đạt 11,6 tỷ USD.
Năm 2002 kim ngạch nhập khẩu tăng 31% so với năm 2001, năm 2002 và năm
2004 tăng 20,6 % so với năm 2003. Hàng nhập khẩu chủ yếu tăng ở các mặt
hàng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước và xuất
khẩu. So với nhập khẩu, xuất khẩu tăng nhanh và dần dần đuổi kịp nhập khẩu.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thấp: 9,3 tỷ USD. Năm 2002 xuất khẩu tăng
1
11.4
9.3
11.6
11.5
15.2
14.3
16
15.1
19.3
16.3
0
5
10
15


20
25
NhËp khÈu XuÊt khÈu
Tû USD
2000 2001 2002 2003 2004
1
mạnh kim ngạch đạt 14,3 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2001. Năm 2003 tăng
5,5 % so với 2002 và năm 2004 tăng 9,47% so với năm 2003. Kim ngạch xuất
khẩu tăng chủ yếu nhờ giá trị hàng gạo xuất khẩu, hàng dệt may, thuỷ sản, giầy
dép.
Tình hình xuất nhập khẩu khả quan đã đem lại cơ hội phát triển cho các
doanh nghiệp ban hành trong đó có Bảo Minh. Kim ngạch bảo hiểm của Tổng
công ty đã không ngừng tăng lên trong giai đoạn 2000-2004. Tốc độ tăng kim
ngạch bảo hiểm năm 2001 so với năm 2000 là 10%. Năm 2002 đạt 6564 tỷ
VNĐ, tốc độ tăng so với năm 2001 là 21%. Năm 2003 đạt 8401,92 tỷ VNĐ,
tăng 28% so với năm 2002 và năm 2004 đạt 10922,496 tỷ VNĐ tăng 30% so với
năm 2003.
Biểu 3: Kim ngạch bảo hiểm của Bảo Minh

(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Tiếp theo Nghị định 100/Chính phủ ngày 18/12/1993, luật kinh doanh bảo
hiểm đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 09/12/2000 và đặc biệt là
quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần qua Nghị định
số 64/2002/NĐ-Chính phủ ngày 19/6/2002 của Chính phủ. Đây là bước tiến
quan trọng về luật pháp đối với kinh doanh bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo
hiểm nói chung và Bảo Minh nói riêng yên tâm khi kinh doanh.
2
5720
6564
8401

10922
4937
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
2000 2001 2002 2003 2004
Tû VN§
2
- Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã được thành lập và đi vào hoạt động
nhằm bảo vệ quyền lợi và phát triển hợp tác của các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam, trong đó có Bảo Minh.
- Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được thông qua, điều này có nghĩa
là hàng hoá của chúng ta thâm nhập vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng mức thuế
quan ưu đãi (khoảng 5-10% mức thuế quan trước đây) nhưng ngược lại Chính
phủ Việt Nam cũng phải mở cửa và mở rộng các loại hình đầu tư của Mỹ vào
Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, ngân hàng. Điều đó có
nghĩa là các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng sẽ
chấp nhận một cuộc chơi có thể nói là không cân sức với các tập đoàn tài chính
khổng lồ của Mỹ. Một điểm cần chú ý nữa là chúng ta đã tham gia vào chương
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ tự do AFTA.
Một trong những điều khoản cơ bản của CEPT mà các nước thành viên cam kết
là sẽ cùng nhau giảm thuế quan đánh vào hàng hoá nhập khẩu được sản xuất ở
bất kỳ một quốc gia thành viên nào trong trong khối xuống còn 0-5%. Đồng thời
loại bỏ những hạn chế định lượng cũng như hàng rào phi thuế quan khác. Tất cả
những điều trên cho thấy một tương lai rằng trong thời gian tới, khối lượng hàng
hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ tăng lên mạnh mẽ. Đây chính là cơ hội cho

các công ty bảo hiểm Việt Nam phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu của mình. Mỗi doanh nghiệp bảo hiểm đều phải có chiến lược phát
triển riêng cho mình dựa trên cơ sở phát huy những lợi thế cạnh tranh hạn chế
nhược điểm của mình. Làm tốt điều này sẽ giúp cho các công ty nâng cao được
hiệu quả kinh doanh, có đủ thế và lực đứng vững trong thị trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt bao gồm cả các công ty trong nước và các công ty nước
ngoài.
1.2. Những khó khăn
Trong thời gian qua, mặc dù tình hình xuất nhập khẩu và bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam rất khả quan
nhưng các công ty bảo hiểm Việt Nam chỉ bảo hiểm đượckhoảng 49% đến 45%
kim ngạch nhập khẩu, và chỉ khoảng từ 3,83% đến 7% kim ngạch xuất khẩu.
3
3
Bảng 7: Tỷ lệ hàng hoá được bảo hiểm trong kim ngạch xuất nhập khẩu
của Việt Nam (2000-2004)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004
Tỷ lệ bảo hiểm hàng
xuất khẩu (%)
3.83 4.34 5.19 6.2 7.1
Tỷ lệ bảo hiểm hàng
nhập khẩu (%)
19.12 18.96 35.98 40.12 45.21
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Thị phần bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam thấp là do khách
hàng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam không thích mua bảo hiểm tại
Việt Nam, đặc biệt là các khách hàng chủ yếu là Nhật, châu Âu hoặc các nước
Đông Nam Á khác. Người Nhật chỉ thích làm việc với người Nhật, chỉ mua bảo
hiểm tại các công ty bảo hiểm của Nhật. Còn khách hàng Tây Âu thường mua
bảo hiểm tại các công ty được xếp hạng tốt trên thế giới. Ở các nước Châu Á

khác, ví dụ Malaysia, Nhà nước có chính sách ưu đãi để các công ty mua bảo
hiểm trong nước họ. Vì vậy, nâng cao thị phần bảo hiểm, giảm kim ngạch bảo
hiểm rơi vào tay các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài là thách thức lớn đối
với bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Minh nói riêng.
Bên cạnh việc đưa ra những quy định cụ thể về kinh doanh bảo hiểm,
Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng cho phép các thành phần kinh tế khác nhau kể
cả kinh tế tư nhân nước ngoài tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại
Việt Nam. Do vậy, sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm đồng nghĩa với sự ra
đời của nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt hơn.
Trong thời gian qua, Bảo Minh đã gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và nước ngoài có kinh doanh trong lĩnh vực
phi nhân thọ như:
- Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) thành lập ngày 17/12/1964,
vốn điều lệ khi thành lập năm 1996 là 692 tỷ đồng.
- Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) thành lập ngày
11/7/1995, vốn điều lệ 22 tỷ đồng.
4
4
- Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolomex (PJCO) thành lập ngày
21/6/1996, vốn điều lệ 55 tỷ đồng.
- Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC) thành lập ngày 23/01/1996, vốn điều
lệ 2 triệu USD.
- Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA) thành lập ngày
05/08/1996, vốn điều lệ 6 triệu USD, liên doanh giữa Bảo Việt và doanh nghiệp
bảo hiểm lớn nhất của Nhật Bản là Tokio Marine và Fine Marine Insurance
Co.Ltd và doanh nghiệp bảo hiểm lớn của Anh là Commercial Union.
- Công ty bảo hiểm Liên hiệp (UIC) thành lập ngày 1/11/1997 vốn điều lệ
đã góp 4 triệu USD, liên doanh giữa Bảo Minh và Yasuda Fine anh Marine
Insurance Co.Ltd và Mitsui Marine and Fine Insurance Co.Ltd.
- Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm Việt – Úc (BIDV-QBt) thành lập

năm 1999, vốn điều lệ đã góp 8 triệu USD.
- Công ty bảo hiểm Allianze – AGP, 100% vốn nước ngoài của Cộng hoà
Liên bang Đức, vốn điều lệ 5 triệu USD.
Ngoài những doanh nghiệp kể trên, hiện nay đã có tới hơn 40 doanh
nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm của Anh, Pháp, Đức, Nhật, Mỹ, Thuỵ Sĩ,
Úc, … đặt văn phòng đại diện tại nước ta, tìm kiếm và lôi kéo khách hàng xuất
nhập khẩu Việt Nam.
Vì vậy, trong những năm qua, sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp
bảo hiểm khác đã làm thị phần của Bảo Minh có nhiều thăng trầm, đe doạ vị trí
thứ hai của Tổng công ty trên thị trường.
5
5
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Năm 2000, thị phần của Bảo Minh là thấp nhất 22,28%. Cố gắng nâng cao
thị phần, Bảo Minh đã giảm phí liên tục và nới lỏng các quy định đối với khách
hàng trong khai thác, nhờ đó thị phần năm 2001 tăng lên 24,37%. Tuy nhiên
doanh thu phí bị ảnh hưởng, không những thế, tỉ lệ tổn thất cao làm chi bồi
thường lớn, lợi nhuận thu vì thế thấp. Vì vậy, năm 2002 với việc thực hiện thị
phần của Bảo Minh tăng là 24,6%. Năm 2003, thị phần của Bảo Minh vẫn tiếp
tục tăng 25,9%. Năm 2004, thị phần của Bảo Minh tăng rất mạnh 28,1% do Bảo
Minh đã nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, đã quảng cáo mạnh mẽ trên
các thông tin đại chúng.
2. Mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội
Trước những thuận lợi và khó khăn đó, Bảo Minh Hà Nội đã đề ra mục
tiêu:
- Giữ vững vị trí thứ hai trên thị trường Bảo Hiểm Việt Nam và không
ngừng mở rộng thị phần.
- Khắc phục những mặt tồn tại của Công ty đồng thời củng cố, hoàn thiện
bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
- Mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại, tăng cường quan hệ hợp tác với các

công ty bảo hiểm nước ngoài.
6
Biểu 4: Thị phần của Bảo Minh (2000-2004)
6
Để đạt được mục tiêu đó, Bảo Minh Hà Nội phải giành được khách hàng
quen mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp nước ngoài và cạnh tranh thành công
với các doanh nghiệp khác của Hà Nội.
3. Kiến nghị
Việc luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 09/12/2000 là một thành công của các nhà luật pháp. Tiếp theo đó là
nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Tài chính thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý
đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng như tạo sự bình đẳng,
đảm bảo lợi ích chính đáng và hợp pháp giữa những người bảo hiểm và người
tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy này phải đưa vào thực hiện
một cách hoàn chỉnh.
3.1. Đối với Nhà nước
Cùng với việc mở cửa của thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam tuy không dài nhưng mức độ và tính chất đã diễn ra
rất gay gắt thậm chí nhiều lúc đã mang tính tiêu cực. Vì thế sự can thiệp của Nhà
nước nhằm định hướng cho ngành bảo hiểm nước ta liên tục phát triển một cách
bền vững và lành mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm
100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.
Trước lúc nhận bảo hiểm phục vụ giám định hiện trường kịp thời, giảm
thiểu nguy cơ, cơ hội tồn tại vấn đề trục lợi.
Khi có sự tổn thất cần làm tốt các khâu: giám định hiện trường, giám định
chính thức, bổ sung; giám định sửa chữa một cách chi tiết, cụ thể mẫn cán, trung
thực.
- Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị
trường, Nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) cần đưa ra mức phí sàn đối với từng

mặt hàng.
Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm đang hoạt động
trên thị trường Việt Nam, đồng thời khuyến khích các công ty tái bảo hiểm ở
7
7
trong nước trước khi tái ra nước ngoài. Một thực tế hiện nay là tỷ lệ tái bảo hiểm
cho các công ty nước ngoài rất cao, phần tái bảo hiểm cho VINARARE hầu như
chỉ vừa đủ theo quy định của Nhà nước. Thực trạng này bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân, trong đó phải kể đến:
- Khi tái bảo hiểm Nhà nước ra nước ngoài, do tiềm lực tài chính của các
công ty tái bảo hiểm nước ngoài rất mạnh nên các công ty bảo hiểm của Việt
Nam tỏ ra yên tâm hơn, đồng thời khi tái bảo hiểm ra nước ngoài thì lợi nhuận
công ty nhận được thông thường lớn hơn so với khi tái bảo hiểm trong nước.
- Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, các công ty bảo hiểm còn có thể tranh
thủ được công nghệ, kỹ thuật cao của các công ty đó. Đặc biệt những trường hợp
xảy tổn thất có tính chất phức tạp hoặc tranh chấp liên quan đến phạm vi quốc tế
thì việc giải quyết thông qua các công ty tái bảo hiểm đó thường hiệu quả hơn.
Vì những lý do trên nên hiện nay tỷ lệ tái bảo hiểm ra nước ngoài trong
nghiệp vụ hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở nước ta là rất
cao, giải quyết vấn đề này cần có sự định hướng phát triển đúng đắn cũng như
những chính sách nhất quán từ phía Nhà nước.
Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà
nước để giúp các doanh nghiệp này tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, trong ngành bảo hiểm việc tố tụng hay xảy ra giữa người được
bảo hiểm và người bảo hiểm, kiểm tra tính chính xác của việc giải quyết khiếu
nại, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra kiện tụng còn
xảy ra giữa người bảo hiểm với bên thứ ba, thường là chủ tàu. Vì vậy, tính chính
xác của các bản án rất quan trọng đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.
So với các luật khác, luật bảo hiểm vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Mặc dù luật

kinh doanh bảo hiểm ra đời là bước ngoặt quan trọng trong ngành bảo hiểm Việt
Nam nhưng nó chỉ là điều chỉnh về mặt kinh doanh thành lập và kiểm tra của
Nhà nước. Việc giải quyết các tố tụng trong bảo hiểm vẫn chưa được xét đến.
- Pháp luật cần xác định rõ Toà án nào có thẩm quyền xét xử các vụ kiện
trong bảo hiểm.
8
8

×