Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.05 KB, 52 trang )

THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM:
1. Quá trình hình thành TTCK Việt Nam:
Sau gần hai mươi năm tiến hành đổi mới nền kinh tế chuyển đổi sang nền
KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế-xã hội của nước ta đã có
những chuyển biến sâu sắc và đạt được những thành công đáng ghi nhận, đánh
dấu và khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế-xã hội, mặc dù tốc độ tăng trưởng
kinh tế chưa đạt kế hoạch, nhưng nhìn chung Chính phủ đã đạt được những mục
tiêu lớn đặt ra. Nền kinh tế đã có những bước phát triển mới về lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự thay đổi về tỷ trọng
giữa các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với các ngành nông lâm
nghiệp. Hoạt động tài chính, tiền tệ đã đạt được những thành tựu lớn, có tác
động tích cực đến cân đối Ngân sách Nhà nước và ổn định giá trị của nội tệ.
Các định chế tài chính ngày càng được hoàn thiện, tạo cơ sở cho các doanh
nghiệp cải thiện tình hình tài chính, mở rộng hoạt động sản xuất, phát triển sản
xuất kinh doanh. Song, cũng quá trình phát triển này mà nền kinh tế đã nảy sinh
nhiều vấn đề bức xúc. Một trong những vấn đề đó là nguồn vốn đầu tư dài hạn
vào thị trường vốn. Các doanh nghiệp rất cần vốn đầu tư dài hạn để mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh. Mọi nhu cầu về vốn đầu tư đều phải phụ thuộc
vào nguồn vốn vay ngân hàng. Trong khi đó, các Ngân hàng chủ yếu chỉ huy
động được nguồn vốn tín dung ngắn hạn, không thể dùng nguồn vốn này để tài
trợ cho mục đích đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp. Nếu có chăng nữa thì
chỉ là các giải pháp tạm thời nhỏ bé. Theo ước tính của các nhà kinh tế, số tiền
nhàn rỗi trong dân cư vẫn còn rất lớn, lên đến hàng tỷ USD và hàng ngàn tỷ
VND. Vậy làm thế nào để có thể huy động được số tiền này thành nguồn vốn
đầu tư dài hạn cho các doanh nghiệp? Đây là một bài toán nan giải mà nền kinh
tế nước ta phải tìm cách giải quyết.
Trong xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá nền kinh tế, bất kì đất nước nào
muốn phát triển phải có sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo quy luật
chung, nền KTTT phải tuân thủ các định chế tài chính đã được hình thành ở các


nước có nền kinh tế phát triển. Một trong những định chế tài chính không thể
thiếu được trong nền kinh tế thị trường đó là TTCK. Không có TTCK thì nền
kinh tế đó không thể có nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư vào những mục
tiêu kinh tế mang tính chiến lược và tạo đà vững chắc cho các ngành nghề trong
xã hội. TTCK được lựa chọn là công cụ tối ưu nhất để giải quyết vấn đề này. Đó
là công cụ hữu hiệu để đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế
giới.
Từ năm 1992, Ban thị trường vốn thực thuộc NHNN Việt Nam được thành
lập với nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu, tạo tiền đề để thành lập TTCK ở Việt
Nam. Trên cơ sở đề xuất của Ban thị trường vốn, ngày 28/11/1996, Chính phủ
đã chính thức ra quyết định thành lập UBCKNN là cơ quan QLNN trực tiếp đối
với các hoạt động của TTCK Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, UBCKNN dưới
sự chỉ đạo của Chính phủ đã khẩn trương phối hợp với các Bộ, ngành để xây
dựng khuôn khổ pháp lý, các tổ chức tài chính trung gian, chuẩn bị hàng hoá và
các điều kiện cần thiết khác liên quan đến CK & TTCK cho việc đưa TTGDCK
vào hoạt động như Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về CK & TTCK, Quyết định
127/1998/QĐ-TTg ngày 1/8/1998 về quy chế tổ chức hoạt động của TTCK và
các quy chế tổ chức thành viên, tổ chức hoạt động của CtyCK.
Việc TTGDCK Tp.HCM ( nay là SGDCK Tp.HCM) đã chính thức khai
trương hoạt động vào ngày 20/7/2000 và TTGDCK HN cũng chính thức đi vào
hoạt động vào ngày 8/3/2005 đã đánh dấu một bước phát triển của thị trường tài
chính ở Việt Nam. Mặc dù quy mô thị trường còn nhỏ bé song bước đầu đã thu
hút được sự quan tâm của công chúng đầu tư trong và ngoài nước.
2. Thực trạng TTCK Việt Nam:
Qua hơn 7 năm kể từ ngày khai trương hoạt động, TTCK Việt Nam còn đang
ở trong giai đoạn đầu hình thành, quy mô còn nhỏ bé nhưng đã hoạt động ổn
định, có bước phát triển nhanh, bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng,
thể hiện ở các mặt sau:
2.1.Về quy mô hoạt động:
Ngày đầu khai trương TTGDCK Tp.HCM thì thị trường mới chỉ có 2 CtyNY

là SAM và REE. Tính đến ngày 1/10/2007, trên thị trường có tổ chức đã có 775
loại chứng khoán được niêm yết và ĐKGD, với tổng khối lượng là hơn 4.304,72
triệu chứng khoán và tổng giá trị là hơn 147.761,97 tỷ đồng. Trong đó, số cổ
phiếu niêm yết và ĐKGD là 207 ( TTGDCK HN là 91 DNNY và ĐKGD,
SGDCK Tp.HCM là 116 DNNY) với tổng khối lượng niêm yết khoảng gần
3.082,37 triệu cổ phiếu và giá trị niêm yết là khoảng hơn 30.823,697 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, còn có 566 loại TPCP và TPDN ( 159 trái phiếu niêm yết tại
TTGDCK HN và 407 trái phiếu niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM) với tổng khối
lượng niêm yết khoảng 1.122,35 triệu trái phiếu và tổng giá trị niêm yết khoảng
155.938,27 tỷ đồng. Có thể nhận xét rằng, năm 2006 là một năm đánh dấu sự
bùng nổ của TTCK Việt Nam. Đến cuối năm 2006, giá trị vốn hoá của thị
trường đạt mức tương đương 22,4% so với GDP, tăng khoảng 20 lần so vơí năm
2005. Tổng giá trị thị trường trong năm 2007 đến thời điểm này có những ngày
đạt mức cao, tương đương với 38% so với GDP. Chỉ số VN-Index từ mức 307,5
điểm vào cuối năm 2005 đã tăng đạt mức kỷ lục 809,86 điểm trong phiên ngày
20/12/2006 và bứt phá đạt mức kỷ lục mới là 1.174,22 điểm trong phiên ngày
12/3/2007[24]. Chỉ số HASTC-Index cuối tháng 12/2006 dừng ở mức 242,89
điểm và đạt kỷ lục 459,36 điểm trong phiên ngày 19/3/2007, tăng gấp 3 lần chỉ
trong có 3 tháng[25]. Tổng số vốn huy động được qua TTCK năm 2005 đạt trên
7.000 tỷ đồng, sau một năm đã tăng gấp 4 lần, trong đó có trên 18.000 tỷ đồng
là trị giá cổ phần của DNNN được đấu giá sau khi CPH[24]. Bên cạnh đó, cũng
gần 500 loại TPCP đã được huy động và niêm yết trên TTCK với tổng giá trị
hơn 81.000 tỷ đồng, chiếm 8,4% GDP năm 2006. Sự xuất hiện của các CCQĐT
với tổng giá trị 1000 tỷ đồng và 3.550 tỷ đồng trái phiếu của các ngân hàng
Vietcombank và BIDV đã làm cho hàng hoá trên TTCK càng thêm phong phú.
Kể từ tháng 7/2002 đến hết quý II/2007, TTGDCK Tp.HCM đã tổ chức được
1570 phiên giao dịch và ở TTGDCK HN là 403 phiên giao dịch an toàn và liên
tục.[2]
Bảng1: Quy mô khối lượng và giá trị giao dịch chứng khoán niêm yết
trên toàn thị trường tính đến ngày 1/10/1007.

Tỷ
trọng
Tổng Cổ phiếu Trái phiếu CCQĐT Ck
khá
c
Khối
lượ
ng
niê
m
yết
TTGD
CK HN
1.746.156.9
37
1.134.850.
978
611.305.96
8
0 0
TTGD
CK
Tp.HC
M
2.558.564.7
00
1.947.517.
830
511.046.87
0

100.000.0
00
0
Tổng 4.304.721.6
46
3.082.368.
808
1.122.352.8
65
100.000.0
00
0
Tỷ
trọng
100% 71,6% 26,08% 2,32% 0%
Giá
trị
niê
m
yết
(triệ
u
đồn
g)
TTGD
CK HN
72.479.099,
47
11.348.509
,87

61.130.589,
60
0 0
TTGD
CK
Tp.HC
M
75..282.874
,87
19.475.187
,87
54.807.687,
00
1.000.000
,00
0
Tổng 147.761.94
7,34
30.823.697
,74
115.938.27
6,60
1.000.000
,00
0
Tỷ
trọng
100% 20,86% 74,46% 0,68% 0%
Nguồn: Tổng kết từ SGDCK Tp.HCM và TTGDCK HN
Trong những tháng đầu năm 2007, tổng giá trị chứng khoán đạt mức gần

40.000 tỷ đồng, tăng trên 3 lần so với tổng giá trị giao dịch của cả năm 2006.
Huy động vốn tăng mạnh từ đầu 2007. Trong 3 tháng đầu năm, trị giá huy động
vốn đã đạt được trên 7.000 tỷ, bằng khoảng 1/4 giá trị huy động trong năm
2006. Tính đến tháng 3/2007, nhà ĐTNN nắm giữ hơn 778 triệu cổ phiếu ( giá
trị thị trường khoảng 14.000 tỷ đồng) chiếm khoảng 30% tổng khối lượng cổ
phiếu niêm yết trên thị trường.[24]
Với tốc độ phát triển và những chỉ tiêu cơ bản trên, TTCK Việt Nam được
đánh giá là tăng trưởng nhanh nhất Châu á và đang thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà đầu tư.[24]
Ngoài hai TTGDCK dành cho chứng khoán niêm yết, sàn chứng khoán thứ
cấp giành cho cổ phiếu chưa niêm yết (OTC) cũng đã chính thức mở cửa ngày
14/7/2005 với 6 doanh nghiệp tham gia giao dịch cổ phiếu trên Sàn. Ngay sau
phiên giao dịch đầu tiên, tổng số lượng cổ phiếu được đem bán là 1.420 tỷ đồng,
giá trị chuyển nhượng mua bán cổ phiếu của 6 doanh nghiệp này đạt 8,3 tỷ
đồng. Đến nay, các giao dịch cổ phiếu, trái phiếu diễn ra trên thị trường này khá
sôi động. Ước tính đến hết quý II/2007, có khoảng 350 loại cổ phiếu và trái
phiếu của 30 NHTM, gần 340 doanh nghiệp… với tổng giá trị vốn hoá khoảng
500.000 tỷ đồng đang được giao dịch. [25]
2.2.Về hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán:
Về hoạt động của các CtyCK: tính đến 1/10/2007, trên thị trường đã có 62
CtyCK được UBCKNN cấp phép hoạt đông. Trong thời gian đầu, các CtyCK
chủ yếu làm nghiệp vụ môi giới thì đến nay, hầu hết các CtyCK đã triển khai
nghiệp vụ tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn tài
chính. Hiện nay có 43 CtyCK được cấp phép kinh doanh cả 4 nghiệp vụ trên.
[45]
Về hoạt động của các CtyQLQ: hiện nay UBCKNN đã cấp giấy phép hoạt
động cho 20 CtyQLQ ( trong đó có 4 CtyQLQ liên doanh và 2 CtyQLQ thuộc
các công ty Bảo hiểm nhân thọ nước ngoài). Ngoài ra còn có các công ty liên
doanh quản lý quỹ giữa Ngân hàng BIDV và công ty Partner của Mỹ; các
CtyQLQ nước ngoài tham gia vào hoạt động trên TTCK TTCK Việt Nam như

Dragon Capital, Mekong Capital, PXP, Finasa, Indochina…[24]
Về quỹ đầu tư chứng khoán: tính đến hết quý II/ 2007, có 54 quỹ ĐTNN
tham gia TTCK Việt Nam với quy mô vốn gần 4,0 tỷ USD và gần 50 tổ chức
ĐTNN mở tài khoản hoặc quản lý uỷ thác đầu tư trên TTCK Việt Nam. Trong
số đó có các tổ chức tài chính, Ngân hàng, tiền tệ hàng đầu thế giới như JP
Morgan, Merrill Lynch, City Group, Nomura Securities,… [25]
Về Ngân hàng giám sát: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam – Vietcombank
là NHTM đầu tiên triển khai dịch vụ giám sát quỹ đầu tư chứng khoán, cụ thể là
quỹ VF1. Để triển khai dịch vụ này, Vietcombank đã thực hiện bảo quản lưu ký
chứng khoán, các hợp đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan đến tài sản của
quỹ VF1, thực hiện định giá tài sản ròng của Quỹ VF1 và Cty QLQ VF1. [25]
Về Ngân hàng lưu ký: tính đến nay, có 6 NHTM được cấp giấy phép hoạt
động Ngân hàng lưu ký chứng khoán, trong đó có 2 NHTM trong nước và 4 chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài. [25]
Về nghiệp vụ thanh toán chứng khoán: hiện nay mới chỉ có Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam (BIDV) được UBCKNN lựa chọn làm Ngân hàng chỉ
định thanh toán. Ngân hàng thực hiện việc mở tài khoản thanh toán bằng tiền
cho TTGDCK và các thành viên lưu ký nhằm phục vụ cho việc thanh toán bằng
tiền cho các giao dịch chứng khoán. Doanh số thanh toán bù trừ qua Ngân hàng
thanh toán trong 6 năm qua, tính đến tháng 6/2007 ước tính đạt hơn 350.000 tỷ
đồng. BIDV đã triển khai dịch vụ cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán cho
khách hàng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư quay vòng vốn nhanh hơn và tăng
tính thanh khoản cao cho thị trường với doanh số khoảng 1.000 tỷ đồng. [25]
2.3. Về nhà đầu tư chứng khoán:
Năm 2005, trên thị trường có tổ chức đã có trên 31.000 tài khoản giao dịch,
ở thời điểm cuối năm 2006, con số này đã là 106.393 tài khoản. Tính đến hết
qúy II/ 2007, TTCK có khoảng 243.809 tài khoản, tăng 2,3 lần so với năm 2006
(106.393 tài khoản), trong đó có 242.624 tài khoản của nhà đầu tư cá nhân và
1.185 tài khoản của nhà đầu tư có tổ chức. Hiện nay, nhà ĐTNN được phép nắm
giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán

nước ngoài góp vốn mua cổ phần thành lập liên doanh với tỷ lệ 49% vốn điều
lệ. Nhà ĐTNN được góp vốn tối đa là 30 % đối với các NHTM. Nét nổi bật
trong thời gian gần đây là sự tham gia mạnh mẽ của các nhà ĐTNN với 5.568
tài khoản giao dịch ( 5.353 tài khoản cá nhân và 215 tài khoản của tổ chức). Cổ
phiếu của các CtyNY hàng đầu như ACB, STB, BT6, AGF… được các nhà
ĐTNN nắm giữ tối đa mức giới hạn cho phép. Điều này cho thấy, nếu TTCK có
hàng hoá tốt sẽ thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.[2]
II. THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM:
1.Khung pháp lý:
Xây dựng hệ thống khung pháp lý về CK&TTCK là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình triển khai xây dựng TTCK tại Việt
Nam. Một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện cho TTCK vận hành
được an toàn, công bằng, công khai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư, đảm bảo được sự phát triển lành mạnh, ổn định của thị trường.
Hệ thống pháp lý có liên quan, điều chỉnh đối với lĩnh vực CK&TTCK được
đề cập làm hai nhóm.
Một là, nhóm văn bản pháp luật chung có liên quan đến lĩnh vực
CK&TTCK. Đây là những văn bản pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau
trong nền kinh tế-xã hội song có tham gia điều chỉnh một số khía cạnh có liên
quan đến lĩnh vực CK&TTCK. Ví dụ, điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến
PHCK có các văn bản như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật các tổ chức
tín dụng, Nghị định 187/2004/NĐ-CP về chuyển một số DNNN sang hoạt động
theo hình thức CTCP; các văn bản tham gia điều chỉnh hoạt động tổ chức
TTGDCK là Luật tổ chức Nhà nước, Luật tổ chức Chính phủ; đối với các tổ
chức trung gian có các văn bản có liên quan như: Luật Dân sự, Luật NHTM,
Luật tổ chức tín dụng; Hoạt động ĐTNN cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu
tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; các hành vi bị cấm, việc giải quyết khiếu
nai trong hoạt động của TTCK lại cũng là đối tượng của Luật Thanh tra, Luật
dân sự; các văn bản pháp luật chung tham gia điều chỉnh hoạt động của cơ quan

QLNN đầu ngành về CK&TTCK lại được đề cập trong các văn bản pháp luật
như Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Nhà nước, Pháp lệnh công nhân viên
chức…
Hai là, nhóm các văn bản pháp lý chuyên ngành CK&TTCK. Trong những
năm qua, cơ quan QLNN về CK&TTCKđã hết sức chú trọng công tác xây dựng
khuôn khổ pháp lý cho cho TTCK Việt Nam ngay từ khi Việt Nam chưa có
TTCK chính thức. Việc xây dựng khung pháp lý về CK&TTCK trong điều kiện
Việt Nam chưa có quy định về vấn đề này, chúng ta chưa có kinh nghiệm làm từ
đầu mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và pháp luật nước ngoài. Ngày 11/7/1998,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về CK&TTCK, tạo cơ sở
pháp lý chính thức đầu tiên điều chỉnh các hoạt động trên TTCK. Để đáp ứng
được yêu cầu thị trường, ngày 28/11/2003, Nghị định số 144/2003/NĐ-CP đã
được Chính phủ ban hành thay thế cho Nghị định 48, nhằm mở rộng và củng cố
hơn nữa chức năng quản lý đối với hoạt động của TTCK khi thị trường phát
triển cả về lượng và về chất. Tuy nhiên, sau một quá trình thị trường đi vào hoạt
động, khuôn khổ pháp luật này đã bộc lộ những mặt bất cập, hạn chế; phạm vi
điều chỉnh của Nghị định 144/2003/NĐ-CP còn hẹp, chưa đầy đủ, nhất quán,
thông thoáng và linh hoạt. Cùng với những yêu cầu của thực tiễn xã hội, yêu
cầu đặt ra là phải nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật về CK&TTCK, do
đó xây dựng Luật Chứng khoán trở thành một nhiệm vụ hàng đầu. Ngày
19/7/2006, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Luật Chứng khoán, Luật Chứng
khoán có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Luật Chứng khoán có phạm vi điều chỉnh
rộng, quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết,
giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán và các dịch vụ về CK&TTCK. Các
nội dung của Luật được quy định cụ thể, chi tiết đặc biệt là các nội dung mang
tính chất nghiệp vụ như quy định về điều kiện hồ sơ, thủ tục chào bán chứng
khoán ra công chúng, quy định về nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin của công
ty đại chúng, về vấn đề thành lập, quyền và nghĩa vụ của CtyCK, Cty QLQ, các
hành vi vi phạm và các hình thức xử phạt tương ứng với các hành vi vi phạm
đó.

Trên cơ sở Luật Chứng khoán, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Tài chính,
UBCKNN đã tiến hành dự thảo các văn bản hướng dẫn để trình cơ quan có
thẩm quyền ban hành. Đến nay, hầu hết các văn bản hướng dẫn đã được Chính
phủ, Bộ Tài chính ban hành, tạo ra hệ thống pháp luật có hiệu lực pháp lý cao và
tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động của TTCK.* (Xem phụ lục)
Như vậy có thể thấy rằng, việc ban hành các văn bản pháp luật tương đối cụ
thể và chặt chẽ, bám sát tình hình thực hiện. Việc ban hành Luật Chứng khoán
và các văn bản dưới luật đã tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư,
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và tạo ra một khung pháp lý cần thiết.
Tuy vậy vẫn còn một số hạn chế trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý về
CK&TTCK. Cụ thể như có sự chồng chéo mâu thuẫn trong hệ thống pháp lý có
liên quan và hệ thống các văn bản pháp lý chuyên ngành điều chỉnh về
CK&TTCK, tiến độ ban hành các văn bản còn chậm, khung pháp lý điều chỉnh
thị trường tự do còn bỏ ngỏ, chinh sách thuế chưa bao quát được hết các trường
hợp cần khuyến khích tham gia thị trường…
So với TTCK ở các nước khác trên thế giới, TTCK Việt Nam còn đang trong
giai đoạn đầu của sự phát triển, nhiều yếu tố của thị trường còn chưa có hoặc
mới bắt đầu hình thành. Thị trường tiếp tục trải qua giai đoạn điều chỉnh và từng
bước hoàn thiện dần, do vậy việc hoàn thiện khung pháp lý là một yêu cầu đặt
ra cấp thiết cho các cơ quan QLNN đối với TTCK.
2. Mô hình tổ chức QLNN đối với TTCK ở Việt Nam:
Kinh nghiệm các nước trong thành lập TTCK là nhất thiết phải có sự QLNN
đối với TTCK. Hoạt động thị trường một cách tự phát không có sự QLNN sẽ
dẫn tới tình trạng thị trường hoạt động không hiệu quả, khủng hoảng, có nhiều
hành vi sai trái. Cơ quan QLNN ỏ hầu hết các quốc gia là UBCKNN.
Tại Việt Nam, UBCKNN được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số
75/CP của Chính phủ, là cơ quan trực thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ
chức và QLNN về CK&TTCK. Việc thành lập cơ quan quản lý TTCK trước khi
TTCK ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển TTCK ở
Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của TTCK sau đó 3 năm. Với vị

thế là cơ quan quản lý chuyên ngành về CK&TTCK, UBCKNN có vai trò rất
lớn trong việc chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của TTCK, đồng thời tổ
chức và QLNN về CK&TTCK với mục tiêu chính là tạo ra môi trường thuận lợi
cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, đảm bảo cho TTCK hoạt động có
tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các nhà đầu tư.
2.1.Mô hình trong giai đoạn ban đầu:
Trong giai đoạn ban đầu này, mô hình cơ quan QLNN đối với TTCK là cơ
quan quản lý độc lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ. Chính phủ
trực tiếp thông qua UBCKNN để triển khai chức năng quản lý với TTCK.
Cơ cấu lãnh đạo của UBCKNN gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các Uỷ
viên kiêm nhiệm cấp Thứ trưởng của các Bộ Tài chính, Bộ tư pháp, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, NHNN Việt Nam. Mục đích của việc tổ chức cơ cấu lãnh đạo
như vậy là để tạo ra được sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan
trong lĩnh vực CK&TTCK.
UBCKNN có chức năng QLNN về CK&TTCK, có nhiệm vụ chủ yếu là
quản lý và giám sát các hoạt động của TTGDCK, cấp phép PHCK ra công
chúng của tổ chức niêm yết, cấp phép thành lập và giám sát hoạt động của các
tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán và thực hiện các nhiệm vụ khác theo
quy định của Chính phủ.
Sơ đồ 2: Mô hình ban đầu về tổ chức bộ máy QLNN và tổ chức
TTCK Việt Nam.
Chính phủ
UBCKNN
Bộ Tài chính, Bộ KH-ĐT, NHNN, Bộ Tư pháp…
Các tổ chức phụ trợ: lưu kí ck, thanh toán…
Các TTGDCK
Các tổ chức kinh doanh CK
Các tổ chức NYCK
Các tổ chức PHCK

Các nhà ĐTCK
Nguồn: UBCKNN
Các tổ chức tham mưu giúp Chủ tịch UBCKNN thực hiện việc quản lý các
lĩnh vực về CK&TTCK gồm: Vụ phát triển thị trường chứng khoán, Vụ Quản lý
phát hành chứng khoán, Vụ Quản lý kinh doanh chứng khoán, Vụ Pháp chế,
Thanh tra, Vụ Kế hoạch- Tài chính, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ tổ chức cán bộ, Văn
phòng.
Cơ quan tổ chức TTCK ban đầu là các TTGDCK. Đây là các tổ chức sự
nghiệp có thu, trực thuộc UBCKNN, có tư cách pháp nhân. TTGDCK có nhiệm
vụ tổ chức, quản lý điều hành và giám sát các giao dịch chứng khoán tại Trung
tâm, quản lý giám sát các thành viên niêm yết, lưu kí chứng khoán, thanh toán
bù trừ. Một trong các bộ phận khá quan trọng trong cấu thành thị trường là các
tổ chức phụ trợ TTCK gồm các Ngân hàng chỉ định thanh toán, TTLKCK. Để
tập trung nguồn lực về cơ sở vật chất kĩ thuật và lực lượng nhân sự cho
TTGDCK, ban đầu chúng ta không thành lập TTLKCK độc lập mà lại tổ chức
dưới hình thức là một bộ phận của TTGDCK.
Với hình thức tổ chức như trên, có thể thấy UBCKNN có vị thế tương đối
độc lập trong hệ thống cơ quan QLNN, có đủ thẩm quyền cần thiết để chỉ đạo
trong toàn ngành. Do vậy UBCKNN có thể hoàn toàn chủ động trong việc xây
dựng các chính sách, chiến lược phát triển TTCK; đưa ra các quyết định quản lý
và giám sát TTCK, soạn thảo các văn bản pháp luật để trình Thủ tướng Chính
phủ ký ban hành hay chủ động ban hành trong phạm vi thẩm quyền quy định.
Bên cạnh đó, việc đặt TTGDCK thuộc bộ máy của UBCKNN trong thời gian
đầu đã cho phép tận dụng tối đa bộ máy của UBCKNN trong việc chuẩn bị các
điều kiện về pháp lý, cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng, con người trong việc đưa
TTGDCK đi vào hoạt động. Mặt khác, với tư cánh là một đơn vị hành chính sự
nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước vừa đảm bảo được nguồn kinh phí ngân sách
Nhà nước cho sự tồn tại và hoạt động của tổ chức này, vừa tạo điều kiện cho
Nhà nước có thể thông qua TTGDCK để quản lý, điều hành và giám sát các
hoạt động của thị trường theo các mục tiêu đã đề ra. Qua đó Nhà nước có thể

trực tiếp can thiệp vào các hoạt động diễn ra trên thị trường để định hướng và
thúc đẩy thị trường này phát triển.
Tuy vậy, việc tổ chức bộ máy QLNN như trên lại làm cho hoạt động QLNN
đối với lĩnh vực CK&TTCK lại bị chia cắt thành nhiều đầu mối. Ngoài
UBCKNN là cơ quan quản lý đầu ngành TTCK thì Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch
và đầu tư, NHNN, Bộ Tư pháp, Ban chỉ đạo đổi mới phát triển doanh nghiệp
cũng có nhiều thẩm quyền ban hành các chính sách nhất định chi phối TTCK.
Bộ Tài chính ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về chính
sách thuế, chế độ kế toán, kiểm toán, tài chính đối với TTGDCK, các tổ chức
phát hành, các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; ban hành và hướng
dẫn thực hiện chế độ thuế đối với các nhà ĐTCK. Bộ Kế hoạch và đầu tư ban
hành các chính sách đối với việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn
ĐTNN thành CtyCP, NHNN ban hành các chính sách về quy chế quản lý ngoại
hối đối với việc mua bán chứng khoán của các nhà ĐTNN, quy định về việc
phát hành và quản lý chứng khoán của các tổ chức tín dụng. Sự tồn tại của nhiều
đầu mối quản lý và sự tách rời giữa các đầu mối này đã dẫn đến sự thiếu tập
trung, thống nhất và tạo ra xung đột trong việc ban hành và điều hành các chính
sách liên quan đến CK&TTCK.
2.2.Mô hình hiện tại:
Để triển khai có hiệu quả hơn nhiệm vụ điều phối hoạt động của các Bộ,
ngành chức năng trong việc thúc đẩy TTCK phát triển, ngày 19/2/2004, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 66/2004/NĐ-CP chuyển UBCKNN vào Bộ Tài
chính. Theo đó, Chính phủ uỷ quyền cho Bộ Tài chính thực hiện chức năng
QLNN đối với TTCK Việt Nam. UBCKNN là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính,
có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng QLNN về
CK&TTCK; trực tiếp quản lý và giám sát hoạt động CK&TTCK, quản lý các
hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực CK&TTCK theo quy định của pháp luật.
Nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu tổ chức của
UBCKNN, ngày 10/5/2007, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã kí
Quyết định số 63/2007/QĐ-TTg quy định chặt chẽ vấn đề này.Theo đó,

UBCKNN là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính và có tư cách pháp nhân.
UBCKNN có trách nhiệm trình Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành theo đúng
thẩm quyền hoặc để Bộ trưởng Bộ Tài chính trình cấp có thẩm quyền ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về CK&TTCK. UBCKNN được quyền cấp, gia
hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động
CK&TTCK, chấp thuận những thay đổi liên quan đến hoạt động CK&TTCK.
Bên cạnh đó UBCKNN được quyền thanh tra, giám sát, xử phạt vi phạm hành
chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong CK&TTCK và thực hiện chế độ báo
cáo về CK&TTCK theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ
trưởng Bộ Tài chính. Cơ cấu tổ chức của lãnh đạo UBCKNN gồm: Chủ tịch và
các Phó chủ tịch và dưới đó là các đơn vị chức năng( đổi tên các Vụ thành các
Ban) và các tổ chức trực thuộc.
Sơ đồ 3: Mô hình hiện nay về tổ chức bộ máy QLNN và tổ chức
TTCK Việt Nam.
Nguồn: UBCKNN
Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn này, việc chuyển UBCKNN vào Bộ Tài
chính là một bước đi hợp lý trong quá trình phát triển của TTCK Việt Nam. Sự
điều chỉnh mô hình tổ chức UBCKNN từ mô hình độc lập sang mô hình phụ
thuộc đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ sang mô hình phụ thuộc đặt
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tài chính đã khắc phục được những tồn tại của
mô hình cũ, giải quyết được tình trạng tồn tại nhiều đầu mối QLNN đối với
TTCK. Với vai trò là cơ quan điều hành chính sách tài chính vĩ mô, cơ quan
quản lý và phát triển thị trường tài chính, việc hoạch định và ban hành các chính
sách QLNN đối với TTCK của Bộ Tài chính sẽ nhanh nhậy và hiệu quả hơn.
Trước hết, đó là khả năng gia tăng một lượng lớn hàng hoá có chất lượng cho
TTCK, điểm mấu chốt để phát triển thị trường, đồng thời các chính sách tài
chính khác được triển khai từ Bộ Tài chính ( như phát hành trái phiếu, thuế,
phí…) sẽ tạo thêm sự gắn kết đồng bộ, đảm bảo yếu tố an toàn cho TTCK và
các thị trường tài chính khác. Các chính sách và biện pháp cụ thể để quản lý và
phát triển TTCK do UBCKNN soạn thảo và các chính sách tài chính khác có

liên quan do các bộ phận khác thuộc Bộ Tài chính soạn thảo sẽ được ban hành
một cách đồng bộ, thống nhất. Từ đó sẽ hạn chế được tình trạng không ăn khớp
giữa các chính sách, gây khó khăn trở ngại trong quá trình quản lý và phát triển
TTCK. Đây chính là một trong những thế mạnh của mô hình này.
TTGDCK HN và TTLKCK được khai trương cũng làm thay đổi mô hình tổ
chức TTCK Việt Nam. Trong mô hình mới này, TTGDCK vẫn là các đơn vị sự
nghiệp có thu, trực thuộc UBCKNN, có chức năng là tổ chức, quản lý, điều
hành và giám sát các hoạt động giao dịch của Trung tâm và thực hiện một số
dịch vụ công theo luật định. Nhiệm vụ chủ yếu của TTGDCK Tp.HCM là tổ
chức, quản lý, giám sát và giám sát các hoạt động giao dịch, công bố thông tin
đối với các chứng khoán niêm yết tại trung tâm này.TTGDCK HN có nhiệm vụ
chủ yếu là tổ chức, quản lý và giám sát các hoạt động giao dịch, công bố thông
tin đối với các chứng khoán ĐKGD tại trung tâm. Ngoài ra TTGDCK HN còn
có nhiệm vụ tổ chức đấu giá cổ phần của các doanh nghiệp, đấu thầu TPCP và
các loại tài sản tài chính khác.
TTLKCK được thành lập theo Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg ngày
27/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó TTLKCK là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc UBCKNN, có chức năng tổ chức, quản lý,điều hành các hoạt động
đăng ký, lưu ký, bù trừ thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho giao
dịch chứng khoán. TTLKCK được thành lập là một bước đi cần thiết và tất yếu
khi quy mô của TTCK đã được mở rộng cùng với việc TTGDCK HN chính
thức đi vào hoạt động thì việc thành lập TTLKCK vừa đảm bảo sự lưu kí tập
trung và tính chuyên nghiệp của hoạt động này, vừa tuân thủ thông lệ quốc tế.
Một trong những sự kiện quan trọng nhất trong việc chuyển đổi cơ cấu tổ
chức của UBCKNN chính là việc chuyển TTGDCK Tp.HCM thành SGDCK
Tp.HCM theo Quyết định số 559/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng
Chính phủ. Theo đó SGDCK Tp.HCM là pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước,
được tổ chức theo mô hình công ty TNHH một thành viên. Là đơn vị hạch toán
độc lập, tự chủ về mặt tài chính, thực hiện chế độ tài chính, báo cáo, thống kê,
kế toán và kiểm toán theo quy định của pháp luật. Theo như phát biều của Phó

thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng phát biểu trong buổi khai trương SGDCK
Tp.HCM ngày 8/8/2007 thì: “Việc chuyển từ TTGDCK lên SGDCK là một
minh chứng của sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường. Đây là nơi góp phần
thúc đẩy TTCK thành kênh huy động vốn mới để có số lượng vốn lớn hơn, tốc
độ huy động vốn cao và nhanh hơn, tạo nguồn vốn dài hạn quan trọng cho đầu
tư phát triển. Đây là nơi thực thi pháp luật, chỗ dựa của nhà đầu tư vì là nơi
cung cấp nguồn thông tin chính xác”.[41]
Tuy vậy cũng phải thấy điểm hạn chế của mô hình trên là việc chuyển
UBCKNN vào Bộ Tài chính đã làm giảm tính độc lập và làm hạn chế quyền của
hành của UBCKNN trong thực hiện chức năng quản lý, làm giảm tính chủ động
của UBCKNN và gia tăng tính phức tạp về thủ tục hành chính trong quá trình
ban hành các chính sách, chế độ quản lý và phát triển TTCK. UBCKNN không
còn thẩm quyền kí ban hành các văn bản pháp quy về CK&TTCK trong khi
UBCKNN vẫn phải chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản này để trình Bộ
trưởng Bộ Tài chính. Điều này dẫn đến trở ngại như làm chậm quá trình ban
hành các văn bản pháp quy vì phải qua nhiều cơ quan cấp thẩm quyền cao hơn,
làm giảm tính hiệu lực và hiệu quả của việc ban hành các văn bản này, đồng
thời làm giảm tính chủ động, linh hoạt và nhanh nhâỵ của UBCKNN trong việc
đưa ra các quyết định quản lý TTCK. UBCKNN không còn là cơ quan cấp Bộ
nên địa vị của UBCKNN trong hệ thống quản lý bị giảm đi do vậy tính chủ
động và hiệu quả trong phối hợp giữa UBCKNN và các Bộ ngành liên quan
cũng hạn chế. Đối với việc quy định và phân định chức năng nhiệm vụ của
UBCKNN và các SGDCK, TTGDCK là chưa hợp lý. UBCKNN can thiệp khá
sâu vào các hoạt động tổ chức và điều hành thị trường của SGDCK, TTGDCK.
Hầu hết các quyết định điều hành của SGDCK, TTGDCK đều phải trải qua các
thủ tục báo cáo đề nghị để được sự chấp thuận của UBCKNN và Bộ Tài chính,
do đó cũng làm phức tạp hoá công việc quản lý của UBCKNN và Bộ Tài chính,
đồng thời làm chậm việc ban hành triển khai các quyết định quản lý và điều
hành thị trường.
Như vậy, với sự chuyển đổi này, Chính phủ muốn đẩy mạnh vai trò tạo dựng

TTCK khi thị trường còn trong giai đoạn đầu hình thành. Đây cũng là một trong
những nét đặc trưng của Việt Nam khi Nhà nước vừa quản lý, vừa phải tiếp tục
tạo dựng thị trường. Môt số bất cập như trên cũng là khó tránh khỏi.
3. Thực tiễn QLNN đối với TTCK Việt Nam trong thời gian vừa qua:
3.1.Hoạt động phát hành chứng khoán:
3.1.1.Quản lý đối với việc phát hành TPCP, Trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh và TPCQĐP
TPCP (gồm Tín phiếu kho bạc, Trái phiếu kho bạc, Trái phiếu công trình
trung ương, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng tổ
quốc) và TPCQĐP là công cụ huy động vốn để bù đắp bội chi ngân sách, thực
hiện các chương trình trọng điểm của quốc gia và địa phương, đồng thời là công
cụ để Chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hành lang pháp lý cho việc phát
hành các loại trái phiếu này đã được Chính phủ từng bước hoàn thiện. Ngày
20/1/2003,Chính phủ đã ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP về việc phát
hành TPCP, TPCQĐP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh thay thế cho Nghị
định 01/2000/NĐ-CP.
Theo các quy định mới này thì TPCP và TPCQĐP đều do Chính phủ quy
định (trừ Công trái xây dựng tổ quốc tuân theo quy định tại pháp lệnh số
12/1999/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội). Theo Nghị định
141/2003/NĐ-CP, thì Chính phủ là chủ thể phát hành các loại TPCP, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh là chủ thể phát hành TPCQĐP. Song các chủ thể này có thể
chuyển quyền cho các cơ quan chức năng trực thuộc như KBNN, Bộ Tài chính,
hoặc các tổ chức tài chính, tín dụng chịu trách nhiệm này. Bộ Tài chính chịu
trách nhiệm hướng dẫn và giám sát việc phát hành, sử dụng, thanh toán các loại
TPCP, xây dựng phương án phát hành trái phiếu công trình trung ương để trình
Chính phủ quyết định; tổ chức việc phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình trung ương, trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng tổ quốc; thẩm định
phương án và giám sát toàn bộ quá trình phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương; thoả thuận với các tổ chức phát hành về phương án phát hành, kế
hoạch triển khai đối với trái phiếu đầu tư của Chính phủ và trái phiếu công trình

được Chính phủ bảo lãnh; quyết định lãi suất trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình trung ương; quyết định lãi suất trần của trái phiếu đầu tư, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh, quyết định biên độ giới hạn lãi suất TPCQĐP. NHNN chịu
trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc, trái
phiếu ngoại tệ qua NHNN, tham gia với Bộ Tài chính trong việc xây dựng lãi
suất TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, tổ chức mua lại nguồn ngoại
tệ thu được từ việc phát hành trái phiếu ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối của
Nhà nước và bán ngoại tệ cho Bộ Tài chính để thanh toán tiền gốc và lãi trái
phiếu khi đến hạn, chỉ đạo các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu đầu tư theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
UBCKNN chịu trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức phát hành
TPCP thông qua hình thức đấu thầu tại TTCK, quản lý và giám sát các hoạt
động niêm yết và giao dịch trái phiếu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập
trung.
Có thể thấy được, trong thời gian qua, các loại TPCP đã được đa dạng hoá
chủng loại và kỳ hạn trái phiếu. Nếu như trong giai đoạn 1990-1995, Bộ Tài
chính chủ yếu phát hành tín phiếu kho bạc, từ 1996 đã bổ xung thêm các loại
trái phiếu mới như trái phiếu công trình, trái phiếu kho bạc, công trái, trái phiếu
đầu tư, trái phiếu ngoại tệ…Kì hạn trái phiếu cũng được thay đổi cho phù hợp
hơn với yêu cầu của thị trường. Nếu như trước năm 1999 thì chỉ có loại kì hạn
1và 2 năm, từ năm 1999 trở đi đã được bổ xung thêm kì hạn 5 và 7 năm; từ năm
2003 trở đi, kì hạn 5 năm chiếm khoảng hơn 50% tổng dư nợ. Trước năm 1999,
TPCP chủ yếu được phát hành dưới dạng chứng chỉ có ghi tên người nắm giữ
thì từ 1999 đến nay, việc phát hành TPCP được bổ xung thêm hình thức ghi sổ
và chứng chỉ quỹ không ghi tên người nắm giữ. Chính phủ cũng đã bổ xung và
từng bước hoàn thiện các phương thức và hình thức phát hành trái phiếu. Nếu
như trước năm 1995 việc phát hành trái phiếu chủ yếu là qua phương thức bán
lẻ qua hệ thống KBNN, đến cuối năm 1995 áp dụng thêm phương thức đấu thầu
qua NHNN, thì từ năm 2002 trở đi, việc phát hành được bổ xung thêm phương
thức đấu thầu qua TTGDCK và phương thức bảo lãnh phát hành. Quyết định số

2276/QĐ-BTC ngày 20/6/2006 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành về việc tập
trung đấu thầu TPCP tại TTGDCK HN đã khắc phục việc chia cắt trong hình
thức đấu thầu TPCP trước đó, TPCP vừa được đấu thầu tại NHNN, vừa đấu thầu
qua TTGDCK. Từ thực tế cho thấy, tỷ lệ thành công của các phiên đấu thầu
TPCP ngày càng cao và lãi suất huy động ngày càng giảm, nhất là sau khi
TTGDCK HN đưa ra con số 12.005 tỷ đồng huy động được từ thị trường trái
phiếu, nhiều người lạc quan cho rằng hoạt động đầu tự loại chứng khoán này
đang thực sự chuyển biến tích cực và ngày càng hiệu quả hơn. Theo kết quả báo
cáo thống kê, cả 8 phiên đấu thầu trái phiếu diễn ra trong quý I/2007 đều thành
công với tỷ lệ trúng thầu đạt tới 99% ( khối lượng trúng thầu là 3.860 tỷ đồng/
3.900 tỷ đồng khối lượng gọi thầu. Riêng TPCP do KBNN phát hành năm 2006
và 6 tháng đầu năm 2007 qua gần 30 phiên đấu thầu tại TTGDCK HN đã huy
động được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, lãi suất đấu thầu
TPCP cũng giảm dần. Lần đầu tiên lãi suất TPCP đã giảm xuống thấp hơn lãi
suất ngân hàng. Cụ thể, lãi suất cơ bản vào ngày 1/6/2007 là 8,25% theo Quyết
định 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007, trong khi đó lãi suất trúng thầu TPCP kì
hạn 5 năm vào ngày 11/6/2007 là 7,15% dẫn đến lãi suất bảo lãnh phát hàng
cũng giảm. Điều này đã làm giảm đáng kể gánh nặng ngân sách Nhà nước trong
việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, góp phần bình ổn lãi suất cho vay của
NHNN, từ đó góp phần bình ổn kinh tế vĩ mô.[15] Bên cạnh đó, Chính phủ còn
bắt đầu thực hiện việc phát hành TPCP trên thị trường nước ngoài và ban đầu đã
đạt được kết quả khá khả quan. Năm 2005, khối lượng phát hành thành công
khoảng trên 750 triệu USD trên TTCK Newyork.
3.1.2. QLNN đối với hoạt động PHCK của các doanh nghiệp:
Xét dưới góc độ kinh tế, PHCK là một hoạt động kinh tế hết sức nhạy cảm,
vì tuy là giai đoạn đầu nhưng nó hàm chứa nhiều yếu tố dẫn đến rủi ro của
TTCK. Nó được ví như con dao hai lưỡi, có thể đem lại một nguồn vốn to lớn
cho đầu tư phát triển kinh tế, nhưng nếu không được quản lý tốt sẽ gây khủng
hoảng cho TTCK, gây thiệt hại xấu cho người đầu tư và thông qua đó ảnh
hưởng xấu tới nền kinh tế đất nước.

Ơ Việt Nam, từ khi TTCK còn ở giai đoạn manh nha, hoạt động chưa có tổ
chức cho tới nay, pháp luật đã có những quy định cụ thể về chứng khoán và
PHCK. Trong thời gian qua, cơ sở pháp lý cho hoạt động PHCK của các doanh
nghiệp đã được Nhà nước ban hành tương đối cụ thể và hoàn thiện từng bước.
Các văn bản pháp lý chung cung cấp các cơ sở pháp lý về PHCK doanh nghiệp
đã được Nhà nước ban hành, sửa đổi và hoàn thiện như Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư, các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Chứng khoán và các
văn bản hướng dẫn Luật…đã góp phần tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động PHCK.
Theo quy định của pháp luật về quyền PHCK của các doanh nghiệp đó là :
DNNN được phát hành trái phiếu, cổ phiếu; CtyCP được phép phát hành cổ
phiếu, trái phiếu; các NHTM quốc doanh được phép phát hành trái phiếu
NHTM; DNNN CPH được phát hành cổ phiếu. Việc Nhà nước cho phép nhiều
đối tượng khác nhau được PHCK góp phần tạo ra sự đa dạng về hàng hoá cho
TTCK, đặc biệt là thị trường tập trung. Các loại chứng khoán được phép phát
hành và giao dịch trên TTCK Việt Nam bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ quỹ và các loại chứng khoán phái sinh, các giao dịch về các loại hình chứng
khoán phái sinh đã bắt đầu manh nha hình thành nhưng vẫn còn ít. Trên TTCK
hiện nay chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ đang được giao dịch. Trên
phương diện pháp lý, có hai phương thức phát hành cơ bản là phát hành riêng lẻ
và PHCK ra công chúng. Tuy vậy, Luật Chứng khoán chứng khoán chỉ điều
chỉnh hoạt động PHCK ra công chúng.
Các điều kiện PHCK ra công chúng đã được Chính phủ điều chỉnh linh hoạt
cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế trong từng thời kì. Nếu như trước kia
Nghị định 48/1998/NĐ-CP quy định khá chặt chẽ các điều kiện PHCK ra công
chúng ( doanh nghiệp có vốn điều lệ 10 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh có lãi
trong hai năm liên tục gần nhất, thành viên HĐQT phải có kinh nghiệm quản lý
kinh doanh, có phương án khả thi việc sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán,..).
Số vốn điều lệ là 10 tỷ đồng khi đó là một yêu cầu khá cao cho các doanh
nghiệp trong giai đoạn đó nên chưa tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp
PHCK, mặt khác, quy định về kinh nghiệm quản lý và kinh doanh của HĐQT

và giám đốc lại là một quy định chủ yếu mang tính định tính, khó xác định.
Trong Nghị định 144/2003/NĐ-CP đã giảm bớt và nới lỏng các điều kiện này:
doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 5 tỷ đồng đối với phát hành cổ phiếu và trên
10 tỷ đồng đối với phát hành trái phiếu, hoạt động kinh doanh liền trước năm
đăng kí phải có lãi, có phương án khả thi trong việc sử dụng nguồn vốn huy
động được; nếu phát hành trái phiếu thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành và
xác định đại diện người sở hữu trái phiếu. Sự nới lỏng này vừa tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận công chúng để huy động
vốn, vừa góp phần thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển. Tuy vậy, theo Luật
Chứng khoán thì điều kiện để PHCK đối với các doanh nghiệp đã được thắt chặt
hơn. Theo đó, đối với phát hành cổ phiếu: doanh nghiệp phải có mức vốn điều
lệ tại thời điểm đăng kí chào bán phải là 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi
trên sổ kế toán, hoạt động năm liền trước năm đăng kí chào bán phải có lãi…;
đối với các công ty mới thành lập trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc lĩnh vực
công nghệ cao tiến hành chào bán chứng khoán ra công chúng đợt đầu phải có
tổ chức bảo lãnh phát hành và phải có ngân hàng giám sát việc sử dụng vốn thu
được từ đợt chào bán. Đối với phát hành trái phiếu thì yêu cầu vốn điều lệ đã
góp tại thời điểm đăng kí chào bán tối thiểu 10 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh
của năm liền trước năm đăng kí chào bán phải có lãi,…Đối với việc phát hành
chứng chỉ quỹ đầu tư là tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng kí chào bán tối thiểu 50
tỷ đồng…Như vậy, các điều kiện phát hành được yêu cầu cao và chặt chẽ hơn
bởi xét theo tình hình mới của nền kinh tế, có rất nhiều doanh nghiệp thoả mãn
được điều kiện trên, đồng thời để tạo tiền đề tăng cung hàng hoá có chât lượng
cho TTCK.
Các thủ tục trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng đã được Chính
phủ hoàn thiện theo hướng đơn giản hoá, rút ngắn thời gian làm thủ tục cho
doanh nghiệp. Theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP thì thời hạn UBCKNN trả lời
việc cấp hay từ chối là 45 ngày kể từ ngày nhận đủ bộ hồ sơ hợp lệ. Tuy vậy,
theo nghị định 144 và sau đó là tới quy định theo Luật Chứng khoán thì thời
gian này rút xuống còn 30 ngày. Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư

93/2005/TT-BTC để sửa đổi Thông tư 60/2004/TT-BTC hướng dẫn việc PHCK
ra công chúng, trong đó đã bỏ hẳn yêu cầu TCPH phải nộp hồ sơ quyết toán
thuế khi muốn phát hành ra công chúng. Việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức
hay việc phát hành thêm cổ phiếu thưởng để tăng vốn điều lệ từ nguồn vốn chủ
sở hữu chỉ đòi hỏi hồ sơ đăng kí phát hành gồm đơn đăng kí phát hành, quyết
định của Đại hội đồng cổ đông và bản giải trình nguồn vốn hợp pháp để phát
hành thêm. Đây là những quy định tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Việc tổ chức xét duyệt và cấp chứng nhận đăng kí PHCK ra công chúng cho
các TCPH đã được UBCKNN đảm bảo đúng quy định. Theo Quyết định
301/QĐ-UBCKNN do Chủ tịch UBCKNN ban hành vào ngày 9/5/2006 thì hiện
tại UBCKNN đảm nhận việc cấp chứng nhận đăng ký PHCK ra công chúng,
cấp phép niêm yết, cấp phép hoạt động cho các tổ chức kinh doanh theo một
quy trình gồm 6 bước: tiếp nhận hồ sơ; thẩm tra hồ sơ; phân tích, lập báo cáo
trình lên Chủ tịch UBCKNN và Hội đồng xét duyệt; họp Hội đồng xét duyệt;
hoàn tất thủ tục cấp phép; công bố cấp phép. Quy trình này tương đối chặt chẽ,
đảm bảo sự giám sát của các bộ phận chức năng liên quan và đảm bảo được tính
khách quan của bộ phận xét duyệt.
Công tác CPH đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nguồn cung hàng hoá,
thúc đẩy TTCK phát triển. Những cải tiến của Nhà nước trong việc chuyển
DNNN thành CtyCP đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc phát hành cổ
phiếu để huy động vốn. Công tác CPH đã được tiến hành với những quy định
phù hợp hơn để thúc đẩy, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển đổi sang
hình thức CtyCP như theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP và nay được thay bằng
Nghị định 109/2007/NĐ-CP. Theo nội dung của các Nghị định này thì xoá bỏ
việc định giá doanh nghiệp thông qua hội đồng, thực hiện xác định giá trị doanh
nghiệp thông qua tổ chức chuyên nghiệp để nâng cao tính minh bạch trong định
giá, cho phép định giá linh hoạt; thực hiện công khai minh bạch trong việc bán
đấu giá cổ phần; quy định các DNNN chuyển thành CtyCP phải thực hiện bán
đấu giá cổ phần qua tổ chức tài chính trung gian nếu khối lượng bán ra từ 1-10
tỷ đồng, và qua TTGDCK nếu khối lượng bán ra lớn hơn 10 tỷ đồng. Hình thức

bán đấu giá cổ phần trên một mặt khắc phục được tình trạng CPH khép kín nội
bộ, mặt khác quan trọng hơn để hình thành cơ chế công khai minh bạch, tạo các
bước đi thích hợp để doanh nghiệp tiến tới tham gia trên TTCK. CPH được mở
rộng về diện và quy mô cả Tổng công ty Nhà nước, NHTM, tổ chức tài chính
Nhà nước, thu hẹp DNNN nắm giữ 100% vốn hay cổ phần chi phối thông qua
việc bán bớt cổ phần của Nhà nước trừ một số lĩnh vực trọng yếu; không hạn
chế việc mua cổ phần của nhà đầu tư trong nước, nhà ĐTNN hạn chế mua ở
mức 49%... Chính phủ đã mở màn bằng việc CPH một số doanh nghiệp có quy
mô lớn, có giá trị doanh nghiệp lên tới hàng trăm tỷ đồng như Công ty Sữa Việt
Nam Vinamilk ( giá trị doanh nghiệp 2500 tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước là
1500 tỷ đồng), Thuỷ điện Vĩnh Sơn- sông Hinh với giá trị tương ứng là 1253 tỷ
đồng và 114 tỷ đồng, Công ty bảo hiểm Tp. Hồ Chí Minh với giá trị tương ứng
là 1311 đồng và 650 tỷ đồng. Những đổi mới này tạo điều kiện cho cá doanh
nghiệp thuộc đối tượng CPH có thể dễ dàng tiếp cận được với công chúng đầu
tư để PHCK huy động vốn, đồng thời đảm bảo giá trị cổ phần doanh nghiệp
được hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường.
Theo quy định của Luật Chứng khoán, TCPH thực hiện việc chào bán chứng
khoán ra công chúng phải đăng kí với UBCKNN ( trừ chào bán TPCP và trái
phiếu của tổ chức tài chính quốc tế được Chính phủ Việt Nam chấp thuận, cổ
phiếu của các DNNN mới chuyển thành CtyCP và chào bán chứng khoán theo
quyết định của toà án). UBCKNN có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc chào bán
chứng khoán ra công chúng nếu như TCPH vi phạm, không thực hiện được các
điều kiện đặt ra. Cũng theo Luật Chứng khoán, các TCPH đã hoàn thành việc
chào bán cổ phiếu ra công chúng trở thành công ty đại chúng và phải thực hiện
nghĩa vụ của công ty đại chúng theo quy đinh của pháp luật.
Công tác QLNN đối với việc PHCK đã đạt được bước đầu thuận lợi, tuy vậy
vẫn còn tồn tại một sô hạn chế làm giảm hiệu quả của hoạt động này. Đối với
việc phát hành TPCP thì hạn chế bắt nguồn từ lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài chính
còn thấp, chưa thực sự hấp dẫn, phương thức trả lãi thiếu linh hoạt. Bộ Tài
chính vừa phát hành trái phiếu qua đấu thầu, vừa phát hành trái phiếu bán lẻ qua

KBNN trong cùng một thời gian với cùng một kì hạn trái phiếu, cùng một lãi
suất đã không khuyến khích các tổ chức tài chính trung gian đấu thầu TPCP để
bán lại trên thị trường thứ cấp. Việc phát hành TPCP qua hệ thống KBNN
thường dài trong nhiều tháng, hình thức phát hành TPCP chủ yếu là dưới dạng
chứng chỉ, trái phiếu kho bạc thì thường phát hành dưới dạng chứng chỉ có ghi
tên người nắm giữ. Điều này làm tăng chi phí cho lưu kí chứng khoán, sau đó
vừa làm cho TPCP khó đáp ứng các yêu cầu cần thiết để giao dịch trên TTCK
thứ cấp. Bên cạnh đó, chúng ta còn chưa hình thành hệ thống phân phối TPCP
trên thị trường sơ cấp, năng lực bảo lãnh và làm đại lý phát hành của các tổ
chức nhận bảo lãnh và phát hành còn hạn chế, cho nên tồn tại khối lượng lớn
TPCP do các tổ chức này giữ lại mà không phân phối ra công chúng. Việc quy
định lãi suất trần trong đấu thầu TPCP quá thấp so với lãi suất huy động vốn
bình quân trên thị trường đã làm cho nhiều phiên đấu thầu TPCP có kết quả

×