Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM TỪ 2007 - 2010.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.86 KB, 62 trang )

CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
S$TỶ GIÁ VND/USDD$
Thâm hụt
PHÁ GIÁLƯỢNG USDViệc phá giá đồng tiền
t
r
o
n
g
nước sẽ góp phần làm
gi

m
thâm hụt thương
m

i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA NGÂN HÀNG
BÀI TIỂU LUẬN
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG

Giáo viên hướng dẫn PGS -TS. Trương Quang Thông
Lớp Ngân Hàng 9 – K34
Trần Thị Diệu An 108207302
Trịnh Thị Mỹ An 108207502
Hoàng Thị Dạ Lan
Phạm Thị Ngọc Linh
Nguyễn Thị Phương Thảo
Phạn Thị Hiền 108207409
Phạm Thị Thảo Nguyên 108207425


Đặng Thị Minh Kiên 108207416
Võ Thị Thanh Trúc 108207543
Võ Phương Thúy Anh 108207101
Nguyễn Văn Thiết 108207436
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng
về nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước vào năm 1986. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; ký Hiệp định thương mại song phương
Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư
song và đa phương khác. Đặc biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng
với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Để nắm
bắt được những cơ hội cũng như chủ động đối phó với các thách thức trong quá trình hội
nhập, Việt Nam đã và đang tiến hành cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Để có thêm
kiến thức về vấn đề này, chúng ta sẽ tìm hiểu về cán cân thanh toán của Việt Nam và các
nguyên nhân cũng như giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt
Nam.
GVHD Trương Quang Thông Page 2
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
GVHD Trương Quang Thông Page 3
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
A. TỔNG QUAN VỀ CÁN CÂN

THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Khái niệm về cán cân thanh toán quốc tế:
Cán cân thanh toán quốc tế là một công cụ dùng để đo lường tất cả các giao dich quốc tế
phát sinh giữa người dân trong nước và người dân nước ngoài qua một thời kỳ nhất định.
Cán cân thanh toán quốc tế (BOP) cũng là một bản đối chiếu giữa các khoản tiền thu được
từ nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia.
Vậy cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam là một tài liệu thống kê, có mục đích cung
cấp sự kê khai đầy đủ dưới hình thức phù hợp với yêu cầu cần phân tích những quan hệ
kinh tế tài chính của Việt Nam với nước ngoài trong một thời gian xác định.
Một điều lưu ý là các khoản mục của cán cân thanh toán quốc tế có thể có sự thâm hụt
hoặc thặng dư còn cán cân thanh toán quốc tế tổng thể thì phải luôn luôn cân bằng.
2. Cấu trúc của cán cân thanh toán quốc tế:
Cán cân thanh toán quốc tế bao gồm hai khoản mục chính là tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn/tài chính. Ngoài ra tài khoản dự trữ ngoại hối để ghi nhận các giao dịch ngoại
tệ của chính phủ và cuối cùng là phần sai số thống kê nhằm đảm bảo cho cán cân thanh
toán luôn cân bằng.
1. Tài khoản vãng lai:
Tài khoản vãng lai là thước đo rộng nhất của mậu dịch quốc tế về hàng hóa và dịch vụ của
một quốc gia.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm
1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
Cán cân mậu dịch: đo lường giá trị giao dịch của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa
GVHD Trương Quang Thông Page 4
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
Cán cân dịch vụ: đo lường giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ giữa các nước ( dịch vụ ngân
hàng, du lịch, hàng không, vận tải…)
Cán cân thu nhập:
 Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản
thu nhập khác bằng tiền, hiện vật người lao động ở nước ngoài chuyển về nước.

 Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ
đầu tư giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa
người cư trú và không cư trú.
Chuyển giao vãng lai: ghi nhận các khoản thanh toán phát sinh liên quan đến việc thay
đổi quyền sỡ hữu một loại tài sản nào đó, tài sản thực hoặc tài sản tài chính. Bất kỳ các
giao dịch nào có tính một chiều từ một quốc gia này với một quốc gia khác (Các khoản
viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác bằng tiền, hiện
vật…) đều được phản ánh lên tài khoản vãng lai.
2.Tài khoản vốn – Tài khoản tài chính:
Tài khoản vốn/tài chính đo lường tất cả các giao dịch kinh tế quốc tế liên quan đến tài sản
tài chính.
2.1. Tài khoản vốn:
Ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản
tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở
quốc gia khác. Thực tế cho thấy giá trị những giao dịch loại này chiếm một tỷ trọng nhỏ so
với những phần còn lại của cán cân thanh toán.
2.2. Tài khoản tài chính:
 Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI): là hình thức mà nhà đầu tư nắm toàn
bộ quyền kiểm soát tài sản hay hoạt động đầu tư
 Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI): là hình thức nhà đầu tư không nắm
quyền kiểm soát toàn bộ tài sản.
GVHD Trương Quang Thông Page 5
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
 Đầu tư khác
3.Sai số thống kê:
Sai số thống kê phản ánh những sai sót trong tính toán và trong giao dịch vì trên thực tế
các tài khoản thường không cân bằng do các dữ liệu lấy từ các nguồn khác nhau hay một
số hạng mục hạch toán không đầy đủ.
4.Dự trữ ngoại hối:

Tài khoản dự trữ ngoại hối đo lường toàn bộ khối lượng dự trữ chính thức của một quốc
gia do ngân hàng trung ương nắm giữ.
GVHD Trương Quang Thông Page 6
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
B. THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH
TOÁN VIỆT NAM TỪ 2007 - 2010
1. Tài khoản vãng lai
Cán cân văng lai từ năm 2007-2010:
2007 2008 2009 2010
Tài khoản văng lai (7) (10.787) (7.440) (6.050)
1. Cán cân thương mai (10.483) (12.782) (8.306) (8.200)
2. Dịch vụ ròng (897) (915) (1.129) 550
3. Chuyển tiền ròng 6.43 7.311 6.527 6.900
4. Thu nhập từ đầu tư ròng
(2.190) (4.401) (4.532) (4.200)
Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai:
- Ảnh hưởng của lạm phát:
Lạm phát tăng → mua hàng nước ngoài tăng → giảm cán cân tài khoản vãng lai.
xuất khẩu sang nước khác giảm
Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch thì
tài khoản vãng lai của các quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
- Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái:
Hình: Thâm hụt cán cân thương mại nhìn từ góc độ tỷ giá hối
đ
o
á
i
GVHD Trương Quang Thông Page 7
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG

CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
Thâm hụt thương mại được xem xét trong mối quan hệ với tỷ giá
hối

đoái
cho nên việc
nâng giá hoặc giảm giá đồng tiền sẽ góp
phần
cải thiện cán cân thương mại.Từ cách
tiếp cận trên có thể thấy thâm hụt thương mại có nguyên nhân trực tiếp ở
việc
định giá
cao đồng tiền trong nước. Việc thâm hụt sẽ càng tăng khi đồng tiền trong nước lên giá
mạnh.
Đ
ồng
thời, ở
khía
cạnh ngược lại, tình trạng thâm hụt càng lớn khả năng giảm giá đồng
tiền càng cao mà ở mức độ lớn hơn là đồng
tiền

trong
nước có thể bị phá giá để bảo
đảm cán cân thương mại được cải thiện hay để lấy lại điểm cân bằng mới.
Đ
ây

biện
pháp mà nhiều nước đã từng áp dụng như Hoa Kỳ áp dụng năm 1971 và 1973 để phá giá

đồng đô la. Năm 1986, đồng
Yên
buộc phải nâng giá so với các ngoại tệ khác đã làm
cho hàng hoá Nhật Bản trở nên kém tính cạnh tranh hơn so với
các

hàng
hoá nước khác.
Năm 1994, Trung Quốc đã áp dụng biện pháp phá giá đồng nhân dân tệ để thúc đẩy
xuất khẩu
hàng
hoá của Trung Quốc và cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á năm
1997 đã gây tình trạng phá giá hàng loạt các
đồng
tiền, sau đó 1-1.5 năm, cán cân
thương mại các nước đã được cải thiện đáng kể. Từ góc nhìn tỷ giá và thâm hụt
thương
mại, biện pháp phá giá đồng tiền được coi là giải pháp thường được lựa chọn hơn cả.
Song trong điều kiện hiện tại,
việc
phá giá đồng tiền chịu tác động của nhiều loại ràng
buộc khác nhau như khả năng trả đũa của các đối tác thương mại, năng
lực
cạnh tranh
của hàng hoá xuất khẩu chua hẳn đã được cải thiện đáng kể nhờ phá giá, các mối quan
hệ ràng buộc lẫn nhau
về
thương mại và đầu tư và những mặt trái của hoạt động phá giá
đối với nền kinh tế trong nước như việc tăng giá của các
hàng

hoá nhập khẩu gây ra lạm
phát nhập khẩu...
Đối
với Việt Nam, việc phá giá đồng tiền chưa phải là sự lựa chọn tối ưu
trong
điều
kiện hiện tại đặc biệt về khả năng kiểm soát tình hình giao dịch thương mại và đầu tư
quốc tế sau khi phá giá
của

Việt
Nam còn rất hạn chế, các công cụ điều chỉnh tỷ giá
chưa được thực tế khẳng định độ tin cậy và các giao dịch
ngầm
trong nền kinh tế còn
GVHD Trương Quang Thông Page 8
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
rất lớn, tình trạng đô- la hoá còn nặng và khả năng kiểm soát khu vực tư nhân còn
chưa
cao...
-Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân: các yếu tố cấu thành tổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
Công thức xác định GDP được thể hiện như
sau:
Y = C + I + G + X – M
(1)
Trong đó Y là GDP, C là tiêu dùng của dân cư, I là đầu tư, G là chỉ tiêu của chính phủ, X-
M là cán cân thương
mại.

Vì Y = C+S + T (2) và S là tiết kiệm, T là khoản thu thuế của chính
phủ
Kết hợp công thức (1) và (2) thu được:
(S – I) + (T
-
G) = X - M
Cán cân thương mại được đo lường bằng tổng mức tiết kiệm ròng của tư nhân và mức
tiết
kiệm ròng của chính phủ. Công thức trên còn cho thấy mối quan hệ giữa các cân đối
trong nước và cân đối đối
ngoại.
Những mất cân đối đối ngoại đặc biệt là cân đối cán
cân thương mại có thể được sửa chữa bằng các tác động của các
cân
đối đối nội. Biện
pháp để cải thiện cán cân thương mại từ cách tiếp cận này cho thấy cần tăng mức tiết
kiệm trong dân cư

tiết kiệm trong chi tiêu của chính phủ hoặc cố gắng để cải thiện
tình hình thu thuế...Trong các biện pháp được đề xuất
từ
góc độ tiếp cận này có thể
thấy việc cắt giảm chi tiêu của chính phủ và cắt giảm chi tiêu của tư nhân là biện pháp

tác
động tới việc cải thiện cán cân thương mại. Các khoản chi tiêu lớn chưa thật cần
thiết có thể điều chỉnh lại tiến độ giải
ngân,
hạn chế việc nhập khẩu càng hàng hoá tiêu
dùng tư nhân xa xỉ...bằng các biện pháp tăng

thuế h
oặc hạn chế định lượng song phải cố
gắng tuân thủ các cam kết trong WTO. Biện pháp điều chỉnh thâm hụt thương mại
từ
việc
điều chỉnh các yếu tố cầu thành GDP tạo ra được sự ổn định dài hạn hơn so với các
giải pháp điều chỉnh tỷ giá hối
đoái.
Nếu kết hợp cả hai cách tiếp cận trên sẽ tạo ra được một hệ thống các giải pháp đồng
bộ
và đa dạng nhằm giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân thương mại.
Đ
iều
đó cho
GVHD Trương Quang Thông Page 9
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
thấy vấn đề thâm hụt cán cân thương
mại
không đơn thuần chỉ giải quyết bằng một
biện pháp mà cần thực hiện trong một hệ thống các giải pháp đồng
bộ.
1. Cán cân thương mại và dịch vụ
1.1. Năm 2008
Ta thấy được rằng có thâm hụt tài khoản văng lai cũng như cán cân thương mại lớn nhất
trong những năm gần đây nhất là năm 2008, mức thâm hụt tài khoản văng lai là 10.787 tỷ
USD, thâm hụt cán cân
thương
mại lên tới gần 12.782 tỷ USD.
Nguyên nhân:

Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008: tình trạng bất ổn định tài chính như đói tín
dụng và thu hồi nợ, mất giá tiền tệ, sụt giá chứng khoán diễn ra đồng thời nhiều nơi trên
thế giới từ tháng 8 năm 2008. Cuộc khủng hoảng này là sự phát triển và lan tỏa của cuộc
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 và nó tiếp tục diễn ra cho đến năm 2009. Cuộc
khủng hoảng tài chính đă ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, khởi đầu từ thị
trường tín dụng dưới chuẩn (cho vay thế chấp rủi ro cao) tại Mỹ, sau đó tiếp tục từ lĩnh
vực tài chính-tiền tệ lan sang các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác, gây ra suy thoái kinh
tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác.
Khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Mỹ lan rộng thành khủng hoảng toàn cầu:
Ngày 15/9/2008, ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Mỹ Lehman Brothers nộp đơn bảo hộ phá
sản, cùng ngày hôm đó ngân hàng lớn thứ ba Merrill Lynch cũng bị ngân hàng Mỹ mua
lại. Ngày 16/9, công ty Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Quốc tế Mỹ AIG đă bị chính phủ Mỹ
tiếp quản.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lan rộng ra trên khắp các thị trường tài
chính phát triển. Hàng loạt các ngân hàng lớn nhỏ bị sụp đổ, bị sáp nhập hoặc quốc hữu
hóa. Tín dụng toàn cầu bị co rút lại. Có rất nhiều ngân hàng từ châu Á sang châu Âucho
Lehman Brothers và các ngân hàng Mỹ phá sản vay những số tiền rất lớn. Ngoài ra, có
nhiều ngân hàng quốc tế đă bị “nhiễm độc” với trái phiếu MBS và các hợp đồng CDS.
GVHD Trương Quang Thông Page 10
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các ngân hàng toàn cầu có mối quan hệ tín dụng đan xen
nhau nhằng nhịt, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế lớn nhất là Mỹ đă nhanh
chóng lây lan sang các nước khác như hiệu ứng đô-mi-nô.
Cuộc khủng hoảng kinh tế lan rộng: bắt đầu từ địa ốc, ảnh hưởng đến tín dụng, lan dần
sang nhiều ngành nghề công nghiệp: hàng không, sản xuất xe hơi, điện tử, …. Đối với từng
khu vực, từng lĩnh vực, tác động sẽ khác nhau vì nó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế
thực tế trong lĩnh vực vay trả nợ, xuất nhập khẩu, đầu tư kỹ thuật, công nghệ, những nước
nào hoặc những khu vực nào phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ sẽ chịu ảnh hưởng lớn và bị tác
động trực tiếp.

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều, song chủ
yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do sự hội nhập
ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác
động nhất định, tuy không trực tiếp.
Năm 2008, kinh tế Việt Nam đă gặp phải hai cú sốc:
Thứ nhất : là luồng vốn ồ ạt đổ vào Việt Nam cuối năm 2007 dẫn đến tình trạng bong
bóng giá cả trên thị trường bất động sản và nhập siêu
Thứ hai là kinh tế thế giới suy thoái vào cuối năm 2008 kèm theo khủng hoảng tài chính,
giá cả hàng hóa biến động mạnh và thương mại thế giới sụt giảm.
1.1.1. Tình hình xuất khẩu:
Để đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến tình hình xuất khẩu
của Việt Nam, trước tiên ta hăy xem một số ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may,dầu
thô ,nông sản, thủy sản…đă bị tác động như thế nào ,và từ đó,nó lại tác động trở lại đến
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra sao?
- Dệt may:
Tác động lan truyền từ cuộc khủng hoảng toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam trở nên rõ
ràng từ tháng 10 năm 2008. Tình hình xuất khẩu dệt may của các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam giảm rõ rệt. Số lượng đơn hàng, giá gia công đă giảm bình quân 20%-30%. Chỉ
GVHD Trương Quang Thông Page 11
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000

T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T1 T2
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
NĂM 2008 & ĐẦU 2009 (triệu usd)
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
trong quý 4/2008, mức đơn hàng đă giảm khoảng 20% so với quý 4/2007. Điều này dẫn tới
kết quả xuất khẩu dệt may của Việt Nam năm 2008 chỉ đạt 9,1 tỷ USD.
Tới tận đầu năm 2009, Trước những tác động của sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tình hình
vẫn gặp nhiều khó khăn, khi kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp trong đó có
dệt may... giảm mạnh do nhu cầu nhập khẩu từ các thị trường lớn đều giảm từ 30-40%.
Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam chỉ đạt mức 550 triệu USD, giảm 33% so với cùng
kỳ năm 2008, giảm 24% so với tháng 12/2008.Đây là lần đầu tiên trong vòng bảy năm gần
đây, ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gặp khó khăn ngay từ quý đầu tiên của năm.
Rõ ràng, cuộc khủng hoảng này đă ảnh hưởng một cách trực tiếp và mạnh mẽ đến tình
hình xuất khẩu của nước ta, nhóm hàng dệt may vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim
ngạch xuất khẩu cả nước trong năm 2008 và đầu năm 2009 đã giảm đáng kể.
Thực trạng chung của nhiều doanh nghiệp dệt may do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
toàn cầu là có đơn hàng cũng không dám ký vì tình trạng thiếu hụt vốn, giá nguyên liệu
đầu vào lại biến động thất thường. Một số doanh nghiệp ký được đơn hàng phải chịu cảnh
giảm giá hoặc đơn hàng bị sụt giảm nghiêm cảnh giảm giá nghiêm trọng.
- Dầu thô:
Trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, dầu thô luôn được coi là một trong những
nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Bên
cạnh đó, nguồn thu ngân sách quốc gia Việt Nam cũng phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu
GVHD Trương Quang Thông Page 12
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
dầu thô và tài nguyên khoáng sản. Chính vì thế, mỗi sự biến động của sản lượng hay giá
xuất khẩu của mặt hàng này, đều ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Và năm 2008 chính là một điển hình cho sự biến động của giá dầu.

Theo số liệu thống kê cho biết, trong quý 1-2008, lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam là
là 3,67 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2.757 triệu USD; bằng 149% so cùng kỳ 2007
và chiếm 21,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đạt được mức tăng trưởng trên
cũng nhờ sự đóng góp quan trọng của việc giá xuất khẩu dầu tăng.
Tuy nhiên đang từ ngưỡng đỉnh cao
147USD/thùng hồi tháng 7.2008, giá dầu thô thế giới đột ngột giảm thấp thủng đáy
50USD/thùng. Đối với DN xuất khẩu dầu thô thì việc dầu giảm giá lại là một tín hiệu
không vui. Giá dầu sụt giảm vì những lo ngại là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 sẽ
làm chậm lại nền kinh tế toàn cầu và giảm bớt mức cầu nhiên liệu, đặc biệt những nước có
nguồn cầu số 1 thế giới phải cắt giảm dự trữ và tiêu thụ như Mỹ, Trung Quốc khiến dầu
tuột dốc không phanh. Giá dầu giảm đương nhiên sẽ tác động đến nguồn thu từ xuất khẩu
dầu mỏ của VN. Ngày 18/12/2008 giá dầu thô đứng ở mức 39,9USD/thùng. Sự sụt giảm
giá dầu thô là nguyên nhân chủ yếu khiến xuất khẩu Việt Nam sụt mạnh trong những tháng
cuối năm.
GVHD Trương Quang Thông Page 13
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU DẦU THÔ CỦA
VIỆT NAM NĂM 2008 & ĐẦU 2009
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T1 T2
triệu tấn
0
200

400
600
800
1000
1200
1400
triệu $
sản lượng giá trị
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
Biểu đồ thể hiện sự biến động của giá dầu thô trên thế giới năm 2008 & đầu 2009.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đă tác động làm giá dầu thô giảm mạnh
- Nông sản:
Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản gặp thuận lợi về giá cả và thị
trường do thị trường thế giới về các mặt hàng nông sản luôn trong tình trạng cung thấp
hơn cầu. Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt trên 4,2 tỉ USD, tăng 31%;
GVHD Trương Quang Thông Page 14
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
giá là yếu tố chính làm tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản.Với tốc độ phát triển đạt được,
hơn nửa đầu năm 2008, xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng trưởng trên 100% so với
cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới,
xuất khẩu nông sản cuối năm 2008 và đầu năm 2009 gặp nhiều khó khăn.
Cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề tại các thị trường chủ chốt như Hoa Kỳ, EU, Trung
Quốc, Nhật Bản..chính là nguyên nhân khiến sức cầu sụt giảm mạnh. Rắc rối của hệ thống
ngân hàng tại những thị trường lớn làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh
nghiệp nhập khẩu hàng từ Việt Nam. Những tháng cuối năm 2008, hàng nông sản bắt đầu
có dấu hiệu tồn đọng ở các hải cảng của Hoa Kỳ và một số nước do các đối tác không mở
được thư tín dụng .Chỉ tính riêng hai thị trường Hoa Kỳ và EU, các doanh nghiệp nhập
khẩu gỗ vẫn tồn kho khoảng 30% số hàng nhập từ năm 2007. Một lượng lớn hàng nhập

năm 2008 bị ế ẩm.
Một đặc điểm chính của thị trường nông sản và cũng là thách thức lớn nhất cho xuất khẩu
Việt Nam là tính biến động cao của giá cả. Những biến động trong năm 2008 đă là những
minh chứng cụ thể cho đặc điểm này.Trong vòng chưa đầy hai tháng, từ tháng 8 đến tháng
10/2008, nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: cà phê, cao su,
hạt điều, hồ tiêu… đang choáng váng trước ảnh hưởng của cuộc khủng kinh tế toàn cầu.
Đầu tiên là sự xuống dốc "không phanh" của giá xuất khẩu mủ cao su. Mặc dù 60% thị
trường xuất khẩu cao su của Việt Nam là Trung Quốc, hơn 15% là Nhật Bản - những quốc
gia nằm ngoài tâm cơn băo tài chính. Tuy nhiên, những nước này nhập cao su chủ yếu để
sản xuất lốp ô tô cho thị trường Mỹ và EU nên giá mủ cao su đă sụt giảm nhanh chóng.
Chỉ trong vòng 2 tháng từ 12.8 đến 12.10 giá mủ cao su chưa chế biến đă giảm từ 50 triệu
đồng /tấn xuống còn 19, 3 triệu đồng/tấn.Nguyên nhân, theo Hiệp hội Cao su Việt Nam,
giá dầu thô thế giới giảm gần 50% khiến xu hướng sử dụng cao su tổng hợp từ dầu (chiếm
khoảng 50%) trở lại, đă làm giảm một phần nhu cầu cao su thiên nhiên. Quan trọng hơn,
cuộc khủng hoảng tài chính đă làm chậm tốc độ phát triển kinh tế, lượng mua sắm ôtô và
săm lốp ở các nước phát triển chững lại.
Không xuống dốc nhanh như giá cao su, song cà phê cũng là một trong những mặt hàng
xuất khẩu chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Vào dịp tháng
GVHD Trương Quang Thông Page 15
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
2.2008 giá cà phê ở vào thời kỳ hoàng kim 40.000 - 42.000 đồng /kg; thì đến cuối năm giá
cà phê trong nước chỉ còn 26.000 - 27.000 đồng /kg
Qua tình hình biến động như trên, ta có thể thấy trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, giá
cả nông sản ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách
tiền tệ, sự cân bằng ngân sách quốc gia, tỉ giá, các chính sách thương mại quốc tế và cả
đầu tư nước ngoài. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ khiến cho tất cả các quốc gia xem xét,
điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều này sẽ lại làm cho giá cả xuất nhập khẩu
trở nên khó lường. Bên cạnh đó, nhiều quỹ đầu tư đồng loạt rút vốn ra khỏi hoạt động đầu
tư nông sản dẫn tới sự giảm cầu trên các thị trường kỳ hạn, cũng tác động làm giá nông

sản giảm đột ngột. Nhìn lại những diễn biến của thị trường nông sản năm 2008, các
chuyên gia đều đánh giá “nhiều mặt hàng nông sản đă lên rồi xuống giá theo sóng hình
sin, với biên độ doăng ra rất rộng, ngoài khả năng ứng phó của các cơ quan quản lý, DN
và nông dân”.
Năm 2009, tình hình vẫn chưa thể chuyển biến theo chiều hướng lạc quan, khi mà các mặt
hàng nông sản xuất khẩu đang là thế mạnh của VN đều bị suy giảm cả về giá và khối
lượng, trong khi sức mua của thế giới vẫn giảm.
Bên cạnh việc xem xét tình hình xuất khẩu nông sản nói chung, chúng ta hăy xem tình hình
xuất khẩu gạo-một mặt hàng nông sản chính và cũng gặp phải nhiều biến động trong năm
qua. Một điều đáng lưu ý là do tác động của khủng hoảng, kim ngạch xuất khẩu của các
mặt hàng nông sản khác sụt giảm nghiêm trọng nhưng gạo lại đạt được sự tăng trưởng
trong kim ngạch của mình.
- Gạo:
Nhìn tổng quan về tình hình phát triển trong năm,có thể đưa ra nhận xét chung rằng thị
trường gạo năm 2008 có nhiều biến động lớn.
Trước hết, lo ngại khủng hoảng lương thực toàn cầu lan rộng từ giữa tháng 4 đến đầu
tháng 5 đă khiến giá cả lương thực tăng vọt. Nguyên nhân là do các nước sản xuất gạo
chính trên thế giới như Việt Nam, Ấn Độ áp lệnh cấm xuất khẩu gạo khiến nguồn cung trên
thị trường bị thu hẹp, Philippin, quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới, đă gia tăng
khối lượng nhập khẩu gạo lên gấp 1,5 lần so với năm ngoái do lo ngại khan hiếm lương
GVHD Trương Quang Thông Page 16
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
NĂM 2008 & ĐẦU 2009
0
100
200
300
400
500
600

700
800
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T1 T2
nghìn tấn
0
50
100
150
200
250
300
350
400
triệu $
sản lượng giá trị
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
thực. Đến cuối năm, giá cả hàng hoá lại một lần nữa chịu ảnh hưởng, đồng loạt sụt giảm
mạnh khi nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu đi xuống, so với tháng 9, giá lúa gạo trên thị trường
trong nước tháng 10 tiếp tục giảm do nguồn cung dồi dào vì lúa hè thu đă có mặt đầy đủ
trên thị trường.
- Thủy sản:
Nhìn chung tình hình trong năm 2008, có thể nhận thấy năm 2008 là một năm thiên nhiên
khá ưu đăi cho toàn ngành thủy sản Việt Nam .Tuy nhiên do tác động của suy giảm kinh tế
ảnh hưởng tới sự ổn định thị trường xuất khẩu cùng với việc phá vỡ quy hoạch trong nuôi
trồng thủy sản ở các địa phương, dẫn đến sản phẩm thủy sản bị ứ đọng. Do vậy, sản phẩm
thủy sản vẫn trong cơn khó khăn của việc "được mùa mất giá".
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam, năm 2008 xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
đạt 1,236 nghìn tấn, trị giá 4,509 tỷ USD, tăng 33,7% về khối lượng và 19,8% về giá trị so
với cùng kỳ năm trước.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến xuất khẩu thủy sản cả nước tụt giảm mạnh cả về
khối lượng và giá trị. Nhiều doanh nghiệp đang lỗ lă kéo dài do không thể cạnh tranh nổi.
Các DN thủy sản đang đứng trước nhiều áp lực: thị trường thu hẹp, tiêu chuẩn nhập khẩu
ngày càng khó, biên độ tỷ giá của đồng tiền các nước nhập khẩu so với đồng USD lớn hơn
biên độ của tiền đồng so với USD...
GVHD Trương Quang Thông Page 17
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
Qua xem xét tình hình xuất khẩu những mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong năm 2008 và
những tháng đầu 2009, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy tình hình xuất khẩu của Việt
Nam đă chịu tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng tài chính.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nên khó có thể
tránh khỏi những tác động không thuận cho sự ổn định và phát triển. Trước hết đó là ảnh
hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta
hiện nay,suy giảm kinh tế và khủng hoảng tài chính làm cho sức mua của người tiêu dùng
Hoa Kỳ giảm đáng kể kéo theo số lượng các hợp đồng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa
Kỳ cũng giảm theo. Mặt khác, suy thoái của nền kinh tế Mỹ đă tác động gián tiếp tới các
nền kinh tế khác như EU, Nhật Bản... đây cũng là thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam.
Tác động lan truyền từ cuộc khủng hoảng toàn cầu đă trở nên rõ ràng hơn kể từ tháng 10
năm 2008, xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trong tháng đă sụt giảm rất mạnh. Hầu hết các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, dầu thô, gạo, thủy sản... đều có
mức tăng trưởng rất thấp và đang đi xuống. Các doanh nghiệp phải đối mặt với giá giảm,
thị trường bị thu hẹp do tổng cầu thế giới giảm và cạnh tranh trên các thị trường sẽ khó
khăn. . Rõ nhất là nhu cầu tiêu dùng những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao của Việt
Nam ở nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU giảm sút. Đối với những mặt hàng nhu cầu tiêu
dùng không giảm cũng khó khăn do những nhà nhập khẩu ở các thị trường này không vay
được vốn ngân hàng để nhập hàng. Bên cạnh đó, khó khăn lớn khác hiện nay đe doạ khả
năng xuất khẩu của các doanh nghiệp được các chuyên gia chỉ ra là do các đối tác nước
ngoài không thể mở L/C. Đơn giản vì các nước đang siết chặt tín dụng nên các ngân hàng

sẽ ngưng cho vay khiến cho nhiều nhà nhập khẩu không mở được L/C, theo đó phía Việt
Nam sẽ không giao được hàng. Biểu hiện rõ nhất là trong tháng 10, kim ngạch xuất khẩu
dự tính sẽ giảm nhẹ so với mức bình quân từ đầu năm đến nay là 5,4 tỷ USD/tháng, đạt 5,1
tỷ USD nhưng kết quả thực tế đă giảm khá mạnh chỉ đạt 4,7 tỷ USD, giảm tới 700 triệu
USD so với tháng trước.
Quả thực, kinh tế thế giới suy giảm đă ảnh hưởng rõ nét đến kim ngạch xuất khẩu Việt
Nam trong những tháng cuối năm 2008 và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến xuất khẩu những
GVHD Trương Quang Thông Page 18
0
1
2
3
4
5
6
7
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 T1 T2
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
NĂM 2008 & ĐẦU 2009(tỷ usd)
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
tháng đầu 2009. Trong 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm giầy dép, thủy sản, cà phê, hạt
điều, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính thì có đến 12 mặt hàng giảm từ 10-20%.
1.1.2. Tình
hình nhập khẩu
Tình hình nhập khẩu trong năm 2008.
GVHD Trương Quang Thông Page 19
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
Do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu khiến giá hàng hoá,

vật tư, máy móc, thiết bị giảm mạnh. Vì vậy, các doanh nghiệp ở trong nước sẽ tranh thủ
cơ hội này để gia tăng lượng hàng nhập về với giá rẻ. Điều này sẽ khiến khối lượng nhập
khẩu ở một số mặt hàng tăng cao, nhất là ở nhóm hàng máy móc, thiết bị.
Năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt khoảng 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm
2007, bao gồm khu vực kinh tế trong đạt khoảng 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu
năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm 7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm
2007 tỷ trọng của 03 nhóm hàng này týõng ứng là: 90,4%; 7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu tố
tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm
2007.
Nhập siêu năm 2008 đạt khoảng17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng 27,8%
tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhập siêu đă giảm nhiều so với dự báo những tháng trýớc
đây nhýng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao, trong đó châu Á có mức nhập siêu lớn
nhất, đứng đầu là thị trýờng Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hõn 1,7 tỷ USD so với năm
2007.
Tổng trị giá nhập khẩu dịch vụ năm 2008 đạt khoảng 7,9 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm
2007, trong đó dịch vụ du lịch 1,3 tỷ USD, tăng 6,6%; dịch vụ vận tải hàng không 800 triệu
USD, giảm 2,4%; dịch vụ hàng hải 300 triệu USD, tăng 20%
1.2. Năm 2009
Tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế
toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở những nước vốn là thị trường
xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU... Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009
đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008. Tình hình xuất khẩu như vậy không
đến nỗi quá xấu nếu chúng ta nhìn vào nguyên nhân của nó. Kim ngạch xuất khẩu giảm là
do giá cả thế giới giảm (riêng yếu tố giảm giá trong 9 tháng đầu năm làm kim ngạch xuất
khẩu giảm trên 6 tỷ USD) - một yếu tố ngoài tầm kiểm soát của chúng ta; trong khi đó khối
lượng hàng hoá xuất khẩu có sự tăng đáng kể giúp chúng ta giảm thiểu được đáng kể đến
tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và xa hơn là giảm thiểu được tác động tiêu cực đến việc
GVHD Trương Quang Thông Page 20
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG

CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
làm và thu nhập của người lao động. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu bộc lộ trong
nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ,
hải sản. Các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất
khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các
ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng
xuất khẩu. Trong thời gian tới, xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là
trong bối cảnh tác động của khủng hoảng những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều
với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng
xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản, nông, lâm, hải sản.
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 đạt 67,5 tỷ USD, giảm 16,4% so với năm 2008. Điều
này phản ánh những khó khăn của sản xuất trong nước do suy giảm kinh tế. Tuy nhiên,
trong các tháng cuối năm, nhu cầu nhập khẩu có thể tăng lên khi các biện pháp hỗ trợ sản
xuất phát huy tác dụng. Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều giảm
sút, nhưng do tốc độ giảm kim ngạch xuất khẩu chậm hơn tốc độ giảm kim ngạch nhập
khẩu, nên nhập siêu năm 2009 giảm xuống chỉ còn khoảng 11 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đă có sự cải
thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt
hàng không cần thiết. Song mức nhập siêu vẫn còn cao thể hiện việc phát triển các ngành
công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm.
Những nguyên nhân của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam trong
năm
2009 có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Những yếu tố tác động trực tiếp đến cán
cân thương mại Việt Nam
bao

gồm
các yếu tố tác động đến kim ngạch xuất khẩu và các
yếu tố tác động đến kim ngạch nhập
khẩu..

Thứ nhất, Việt Nam là thành viên của WTO và đang trong giai đoạn thực hiện các cam
kết về giảm thuế quan và
các
hạn chế thương mại, mở cửa thị trường theo các cam kết
quốc tế. Trong khoảng thời gian kể từ ngày gia nhập, mức
thuế
nhập khẩu trung bình
của Việt Nam phải được cắt giảm từ 17,4% xuống còn 13,4% trong vòng 5-7 năm cho
nên kim
ngạch
nhập khẩu tăng nhanh và xu hướng này còn có khả năng tăng nhanh hơn
nữa trong thời gian tới khi Việt Nam thực hiện
đầy
đủ các cam kết trong WTO. Nhu cầu
về nhập khẩu cả tư liệu sản xuất thể hiện ở máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật
liệu,
GVHD Trương Quang Thông Page 21
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng kể cả hàng tiêu dùng xa xỉ tăng lên vì một bộ phận
dân cư cải thiện được thu
nhập...
Đ
iều
này cũng cho thấy hàng rào thương mại của
Việt Nam trước khi thực hiện các cam kết giảm thuế và các hàng
rào
thương mại khác
đóng vai trò to lớn trong việc giảm thiểu tình trạng thâm hụt thương
mại.

Thứ hai, những biến động trên thị trường thế giới theo hướng bất lợi đối với hoạt
động
xuất khẩu của Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu đã
làm giảm khá mạnh cầu vê
hàng
nhập khẩu của Việt Nam đặc biệt là sự suy giảm mạnh
của nền kinh tế Hoà Kỳ- bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam
làm
giảm kim ngạch
xuất khẩu. Giá hàng xuất khẩu giảm mạnh gây ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu mà
cụ thể là sự
giảm
giá của mặt hàng nông sản, thuỷ sản.
Đ
ây
là những mặt hàng có tỷ
trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam.
Nhóm mặt hàng chế biến, công
nghiệp và thủ công nghiệp gặp phải tình trạng thu hẹp thị trường, Nhóm hàng
nguyên
liệu, khoáng sản gặp phải khó khăn do tình trạng giá giảm... Chẳng hạn, trong 7 tháng
đầu năm 2009, kim ngạch xuất
khẩu
đạt 7,13 tỷ USD, giảm 8,2% so với cùng kỳ năm
2008, tức là vào khoảng 638 triệu
USD,
trong đó phần giảm xuống do giá giảm
khoảng 1,88 tỷ USD và phần tăng lên do lượng khoảng 1,24 tỷ
USD.

Thứ ba, nhóm hàng nhập khẩu chủ yếu là nhóm hàng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên
vật
liệu chiếm tỷ trọng đáng kể (70-80%) tổng kim ngạch nhập khẩu và nhóm này có xu
hướng tăng lên do nhu cầu thúc
đẩy
xuất khẩu cũng như nhu cầu sản xuất- kinh doanh
trong nước tăng lên. Tình trạng nhập siêu còn cho thấy khả năng
cạnh
tranh không cao
của các hàng hoá thay thế nhập khẩu. Nhưng tình trạng nhập siêu này có thể coi là điều
kiện quan trọng
để

cải
thiện nhập siêu trong chu kỳ kinh doanh tiếp theo khi các loại máy
móc, thiết bị, nguyên vật liệu được sử dụng để
sản
xuất các loại hàng hoá xuất khẩu.
Nhiều mặt hàng tiêu dùng cũng có xu hướng tăng nhập khẩu nhưng có thể hạn chế
bằng
các công cụ và biện pháp quản lý mang tính hành
chính...
Từ những phân tích và xem xét trên đây có thể thấy, tình trạng thâm hụt cán cân
thương mại Việt Nam năm
năm
2009 chủ yếu do sự thay đổi của cung cầu về các nhóm
hàng hoá có liên quan đến xuất- nhập khẩu, các nguyên nhiên
liệu,
máy móc, thiết
bị..., những biến động bất lợi của thị trường thế giới và khả năng cạnh tranh chưa thật

cao của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy giảm
GVHD Trương Quang Thông Page 22
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
kinh tế toàn cầu gây ra chứ không phải do ảnh hưởng
của

tỷ
giá hối đoái. Trong năm
2009, tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ có điều chỉnh theo hướng
giảm
nhẹ
đồng Việt Nam đã góp phần hạn chế tính cứng nhắc của tỷ giá so với những
biến động trên thị trường tự do song vẫn
bảo
đảm sự ổn định của nó phục vụ có hiệu
quả cho việc lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp và ổn định kinh tế vĩ

sau
khủng hoảng. Hơn nữa, mức độ thâm hụt cán cân thương mại chưa phải đến mức báo
động (chỉ vào khoảng
10-12%
GDP) vì việc nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu...là nhóm hàng chủ yếu nhằm tạo khả năng thúc đẩy sản
xuất
trong nước và đẩy
mạnh xuất khẩu trong giai đoạn tiếp theo. Do đó, thâm hụt thương mại với xu hướng
gia
tăng


còn
là sự phản ánh quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế để phù hợp với xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể
nói
thâm hụt thương mại Việt Nam năm 2009 là
“thâm hụt để chữa trị thâm hụt” trong giai đoạn tiếp
theo.
1.3. Năm 2010
1.3.1. Cán cân tài khoản dịch vụ:
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2010 đạt khoảng 7,46 tỷ USD, tăng 29,4% so với năm
2009.Trong đó, dịch vụ du lịch đạt 4,45 tỷ USD, tăng 45,9%; dịch vụ vận tải 2,3 tỷ USD,
tăng 11,8%.
Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2010 đạt khỏang 8,32 tỷ USD, tăng 20,6% so với năm
2009, trong đó dịch vụ vận tải đạt khoảng 5 tỷ USD, tăng 17,2%; dịch vụ du lịch 1,47 tỷ
USD, tăng 33,6%.
1.3.2. Cán cân thương mại:
Hết năm 2010, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt gần 157 tỷ
USD, tăng 23,6% so với năm 2009. Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt 72,19 tỷ USD, tăng
26,4% và nhập khẩu là 84,8 tỷ USD, tăng 21,2%. Nhập siêu là 12,61 tỷ USD, bằng 17,5%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tăng trưởng xuất nhập khẩu
Trong năm 2010:
GVHD Trương Quang Thông Page 23
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
- Cán cân thương mại thâm hụt -10,1 tỷ USD
- Cán cân dịch vụ thâm hụt -1,9 tỷ USD
- Hết năm 2010, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt gần 157
tỷ USD, tăng 23,6% so với năm 2009. Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt 72,19 tỷ USD, tăng
26,4% và nhập khẩu là 84,8 tỷ USD, tăng 21,2%. Nhập siêu là 12,61 tỷ USD, bằng 17,5%

kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
- Hết năm 2010, tổng trị giá xuất nhập khẩu của khu vực FDI là 70,92 tỷ USD, tăng
41,5% so với năm trước. Trong đó, trị giá xuất khẩu là 34,1 tỷ USD, tăng 41,2% và chiếm
47% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trị giá nhập khẩu của khu vực này là 36,97 tỷ
USD, tăng 41,8%, chiếm 43,6% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Xuất khẩu tăng là do sự đóng góp lớn của những mặt hàng công nghiệp chế biến cộng với
sự phục hồi của kinh tế thế giới làm cho xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản được lợi về
giá. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu đă bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ
thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, dệt may, da giầy…
Hơn nữa, các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất
khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các
ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng
xuất khẩu lớn. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay có sự thay đổi ở một số
nhóm hàng hóa so với năm trước, trong đó, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp tăng từ 42,8% lên 46%; nhóm hàng công nghiệp năng và khoáng sản giảm từ
29,4% xuống 27,2%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản
phẩm vàng từ 4,6% xuống 4%. Đặc biệt, Việt Nam đă có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất
khẩu trên 1 tỉ USD, tăng 6 mặt hàng so với năm 2009. Lần đầu tiên, dệt may đạt trên 11 tỉ
USD, đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong 26 mặt hàng chính. Thủy sản, da giày đă
vượt dầu thô “soán ngôi” top 3 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm trước. Một số mặt
hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao, bao gồm xăng dầu, tăng 225,2%; lúa mì tăng
70,4%; kim loại thường khác tăng 57,7%; nguyên phụ liệu dệt may, giầy dép tăng 36%;
chất dẻo tăng 33,9%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 30,7%; vải tùng 27,2%...
GVHD Trương Quang Thông Page 24
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
CÁN CÂN THANH TOÁN VIỆT NAM 2007 - 2010
Nhìn chung, tính đến cuối năm 2010, thâm hụt tài khoản văng lai vẫn ở mức cao trong khi
dự trữ ngoại hối vẫn ở mức thấp, gây sức ép lên tỉ giá. Nhập siêu năm 2010 đạt mức dưới
20% kim ngạch xuất khẩu, nhưng vẫn ở mức cao. Nếu loại trừ đá quý, kim loại quý xuất

khẩu thì khả năng nhập siêu vẫn trên 23%. Đây là nhân tố chính làm cán cân văng lai
thâm hụt khoảng 10% GDP. Nhập siêu cao và kéo dài trong nhiều năm, nhất là từ năm
2007 cho đến nay đă làm sụt giảm nguồn dự trữ ngoại hối, tăng nợ quốc gia và gây sức ép
giảm giá đồng nội tệ. Thâm hụt cán cân văng lai lớn cùng với thâm hụt ngân sách cao, nợ
công có xu hướng tăng nhanh sẽ là những trở ngại lớn cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế trong những năm tới đây.
2. Kiều hối
Kiều hối là sự di chuyển tiền bạc từ những người đang lao động ở nước ngoài đến thân
nhân của họ tại quê hương. Đây là một nguồn lực quý giá theo nhiều nghĩa, là một kênh
mang lại ngoại tệ mạnh cho đất nước mà không một kênh nào có thể sánh nổi về hiệu quả.
Nhìn chung giai đoạn này, lượng kiều hối đổ về việt nam gần như tăng mạnh qua các năm.
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Kiều hối ( tỷ usd) 4.5 5.5 7.2 6.3 8.0
2007 : lượng kiều hối chuyển về đạt 5.5 tỷ, tăng 1 tỷ so với năm 2006.
2008 : 7.2 tỷ USD, tương đương khoảng 8% (GDP) của Việt Nam
2009 : lượng kiều hối giảm xuống còn khoảng 6,3 tỷ USD do ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế toàn cầu.
2010 : lượng kiều hối đạt kỷ lục 8 tỷ USD. Nguyên nhân do nền kinh tế thế giới đang đần
được phục hồi, đặc biệt là thị trường Mỹ. thời gian gần đây, nguồn kiều hối đổ về ngoài
việc chuyển tiền hỗ trợ thân nhân cũng đổ về cho mục đích kinh doanh vàng, chứng khoán
và bất động sản do chính sách liên quan đến kiều hối đã thoáng hơn trước. hoạt động xuất
khẩu lao động ngày càng phát triển mạnh cũng khiến nguồn kiều hối về Việt Nam ngày
càng dồi dào hơn. Có thể lý giải việc kiều hối về nước tăng mạnh trong các năm qua là do
các nguyên nhân chính sau :
GVHD Trương Quang Thông Page 25

×