Ăn chay - Chữa bệnh cũng cần đúng cách
Với quan niệm ăn chay tốt cho sức khỏe, có thể chữa được một số bệnh,
ngày càng nhiều người chuyển từ ăn mặn sang ăn chay. Nhưng theo các chuyên
gia dinh dưỡng, không phải ai cũng có thể ăn chay được. Và ăn chay cũng cần
phải đúng cách.
Các nghiên cứu về dinh dưỡng đã cho biết rằng, một thực đơn chay giàu
dinh dưỡng bao gồm: trái cây, rau, đậu các loại sẽ giúp giảm béo, giảm nguy cơ
bệnh tim, nguy cơ áp suất máu cao, chống lại sự gia tăng của bệnh tiểu đường và
phần nào giảm nguy cơ ung thư.
Nhưng ăn chay chỉ tốt trong những trường hợp cần ăn kiêng thực sự bằng
chế độ ăn chay.
Tác dụng của ăn chay trong một số trường hợp
Giảm cân: Theo bác sĩ Neal Barnard và cộng sự thuộc Ủy ban bác sĩ về
Trách nhiệm Y khoa, những người ăn chay trường thường có quá trình đốt cháy
calorie gia tăng sau mỗi bữa ăn so với những người ăn mặn.
Điều này có nghĩa là thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật có tác dụng như
nguồn cung cấp nguyên liệu cho cơ thể, trái ngược hoàn toàn với việc được tích
trữ của chất béo.
Theo nghiên cứu này, những người ăn chay trường có dáng người gọn hơn
những người ăn thịt, và họ được xếp vào nhóm những người ít nguy cơ mắc bệnh
tim mạch, tiểu đường, huyết áp cao và những bệnh do tăng trọng và béo phì.
Giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư: Theo thống kê của các nhà dịch tễ học,
35% trường hợp mắc ung thư là liên quan đến ăn uống. Người ăn chay ít mắc bệnh
và tử vong vì ung thư miệng họng, tiền liệt tuyến, nhất là đại tràng hơn người ăn
mặn.
Lý do là thức ăn chay chứa nhiều chất xơ, ít chất béo. Thức ăn chay còn
chứa nhiều chất có tiềm năng ngừa ung thư như: các chất chống oxy hóa và một số
hóa chất thực vật.
Giảm huyết áp: Ăn chay giúp làm hạ huyết áp và giảm nguy cơ bị bệnh tim
mạch. Chế độ ăn chay chứa nhiều kali, phức hợp carbohydrates, chất béo không
no, chất xơ, calcium, magnesium, vitamin C and vitamin A, tất cả có ảnh hưởng
tốt đến huyết áp.
Huyết áp của người ăn chay trường thường có khuynh hướng thấp hơn
người ăn mặn và ít tăng theo tuổi tác hơn. Các nghiên cứu cho thấy: càng ăn nhiều
thức ăn từ động vật, huyết áp càng có khuynh hướng tăng cao.
Giảm bệnh động mạch vành tim: Do thức ăn chay chứa nhiều xơ, ít béo, ít
cholesterol, tỷ lệ giữa chất béo không no và chất béo no cao, trong khi bệnh động
mạch vành tim gắn liền với lượng cholesterol máu, nên người ăn chay có lượng
cholesterol trong máu, nhất là loại LDL, thấp hơn hẳn so với người ăn chay có
dùng sữa và người ăn thịt.
Trên thực tế, lượng mỡ trong máu tùy thuộc nhiều vào số lượng và loại chất
béo mà người ăn chay ăn vào.
Giảm nguy cơ bị sỏi thận: Người ăn chay thải canxi, oxalat, axít uric ra
nước tiểu ít hơn người không ăn chay do đó ít bị sỏi thận hơn.
Ăn chay cũng có thể mang bệnh
Bên cạnh mặt tích cực, các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo, ăn chay
cũng có hạn chế vì nó có thể mang lại một số bệnh:
- Vô sinh: Nhiều nghiên cứu cho thấy ăn nhiều đậu tương (món ăn chính
của người ăn kiêng bởi vì nó cung cấp protein) có thể ảnh hưởng đến khả năng
sinh sản của phụ nữ.
Các nhà nghiên cứu ở trường ĐH King London cho biết hợp chất genistein
trong đỗ tương sẽ ngăn cản không cho tinh trùng bơi đến trứng, do đó phụ nữ nên
hạn chế ăn đỗ tương khoảng 1 tháng trong giai đoạn muốn thụ thai.
- Trầm cảm: Một trong những loại vitamin mà người ăn chay thường thiếu
nhất là vitamin B12 – vốn chỉ tìm thấy trong thịt và các sản phẩm từ sữa hoặc các
loại ngũ cốc chưa qua chế biến. Vitamin B12 được biết đến là một chất thiết yếu
cho sự phát triển của các tế bào và sự vận hành của hệ thần kinh.
Thiếu vitamin B12 có thể gây ra các rối loạn thần kinh, bao gồm sự thất
thường của cảm xúc và trầm cảm.
- Teo cơ: Theo Louise Sutton (chuyên gia dinh dưỡng của ĐH Leeds): Bất
kỳ ai chuyển từ chế độ ăn thịt sang ăn chay đều có nguy cơ bị teo cơ”, một trong
những tác dụng phụ thường gặp ở chế độ ăn giảm protein.
Những người không nên ăn chay
Theo BS Phan Bích Nga, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, những trường hợp
sau đây không nên ăn chay: Độ tuổi tăng trưởng (dưới 18 tuổi): Trẻ em và tuổi
thiếu niên nếu ăn chay có thể nguy hiểm cho sự tăng trưởng.
Phụ nữ có thai ăn chay thường nhẹ cân, ít tăng cân và có nguy cơ sinh con
thiếu cân, do đó càng không nên ăn chay. Bà mẹ cho con bú, người gầy yếu, suy
dinh dưỡng, thiếu máu cũng là những đối tượng không nên ăn chay.
Nam giới tuổi dưới 50 - 60: Trong chế độ ăn chay, chất đạm chủ yếu là từ
đậu tương, mà trong đậu tương hàm lượng oestrogen (nội tiết tố chủ yếu của nữ
giới) thực vật cao, do đó sẽ phần nào ảnh hưởng đến nam tính.
Nam giới không nên ăn quá nhiều đậu phụ hoặc các sản phẩm chế biến từ
đậu tương như người ăn chay tuyệt đối.
Những người nên ăn chay
Cùng theo BS Phan Bích Nga, những người do công việc phải tiếp khách
với các buổi tiệc tùng liên miên, bữa ăn quá nhiều chất đạm chất béo thì nên xen
kẽ ăn chay theo đơn vị tuần, hoặc tháng sẽ giảm sự tích trữ chất béo cho cơ thể.
Người thừa cân - béo phì, hoặc có nguy cơ bị thừa cân - béo phì Người bị
bệnh tim mạch: Tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, rối loạn chuyển hóa mỡ máu.
Người bị loãng xương hoặc có nguy cơ bị loãng xương nhất là phụ nữ tuổi
từ 40 trở lên, nhưng vẫn phải bổ sung một số thực phẩm từ động vật như thịt bò,
đồ hải sản để cung cấp nguồn canxi.