Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN NỢ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.12 KB, 39 trang )

Tính lỏng thấp Tăng cường tí tính lỏng Tính lỏng cao hơn Chứng khoán giao dịch Phát hành chứng khoán
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN NỢ TRONG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
***
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN
NỢ
1.Khái niệm chứng khoán hoá
Khái niệm chứng khoán hoá chính thức xuất hiện trong những năm 70.
"Chứng khoán hóa là việc phát hành ra các trái quyền dưới dạng các
chứng khoán có thể bán trên thị trường trên cơ sở một tập hợp các tài sản đảm
bảo cho nó"
Mục tiêu của chứng khoán hóa là chuyển các tài sản có tính lỏng thấp
thành tài sản có tính lỏng cao.
Tính lỏng thấp Tính lỏng cao
Hình 1: Minh hoạ mục tiêu của chứng khoán hoá
*Vài nét sơ lược về quá trình phát triển của chứng khoán hóa
+Sự ra đời chứng khoán thế chấp nhà
Vào năm 1970, Hiệp hội cho vay nhà thế chấp liên bang đã phát hành
chứng khoán được bảo đảm bởi khoản thế chấp nhà, viết tăt là MBS đầu tiên tại
Mỹ. Ngay năm sau đó, Công ty mua bán nhà thế chấp liên bang đã phát hành
MBS. Những chứng khoán đầu tiên của chính phủ phát hành có cấu trúc tương
đối đơn giản mà không có sự phân bổ đặc biệt nào về dòng tiền hoặc sự tăng
cường tín dụng. Thực chất trong trường hợp này việc tăng cường tín dụng là
không cần thiết bởi các chứng khoán được phát hành với sự bảo lãnh của chính
phủ nên có điểm xếp hạng tín dụng rất cao. Rủi ro duy nhất gặp phải là rủi ro trả
trước vì những người vay mua nhà thế chấp không chịu bất kỳ khoản phạt nào
trong trường hợp họ thanh toán trước. Hậu quả là khi nào lãi suất trên thị trường
có xu hướng giảm người đi vay thường thanh toán khoản vay trước hạn còn
người nắm giữ chứng khoán buộc phải tái đầu tư vốn gốc với thu nhập không
dự tính trước.
+Sự ra đời chứng khoán bảo đảm bằng tài sản cầm cố


Vào năm 1983, Công ty Boston đã phát hành thêm một loại hình công cụ
tài chính mới được bảo đảm bằng các tài sản cầm cố CMO. Sự khác nhau cơ
bản giữa CMO và MBS là CMO giúp ngân hàng chuyển khoản vay có thế chấp
bằng bất động sản từ nội bảng ra hạch toán ngoại bảng và sau khi phát hành nó
được phân thành nhiều hạng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
+Sự ra đời chứng khoán bảo đảm bởi tài sản
Sự thành công, những kinh nghiệm mà các ngân hàng đầu tư có được từ
thị trường MBS đã giúp cho thị trường của công cụ tài chính linh hoạt khác ra
đời. Chứng khoán được đảm bảo bởi động sản ABS (Asset Backed Security)
được ra đời với sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ cũng như các ngân hàng đầu
tư hàng đầu lúc đó là Solomon Brother, First Boston và Drexel Burhan Lambert.
Chứng khoán loại này được phát hành đầu tiên vào tháng 4 năm 1985 khi
mà First Boston bão lãnh phát hành 192 triệu USD chứng khoán trên khoản thuê
máy tính của tập đoàn Sperry. Vào tháng 12 năm 1985 General Motors
Acceptance .Corp cộng tác với First Boston phát hành lượng chứng khoán giá
trị 500 triệu USD. Đồng thời vào năm đó công ty này đã chiếm lĩnh hoàn toàn
thị trường này khi phát hành chứng khoán giá trị 8 tỷ USD. Yếu tố tạo nên sự
thành công là nó đã hạn chế được rủi ro trả trước, một loại rủi ro thường gặp ở
vay mua ô tô.
Vào năm 1987, những chứng khoán đầu tiên phát hành trên cơ sở khoản
phải thu của thẻ tín dụng ra đời dưới sự bảo lãnh của Solomon Brother do Banc
Gre phát hành. Cũng như các loại chứng khoán khác, chứng khoán hoá thẻ tín
dụng đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày nay nó vẫn chiếm
một tỷ trọng khá lớn, đứng đầu là Citibank.
Vào đầu những năm 1990, nhiều ngân hàng, các công ty tài chính trên thế
giới gặp phải khó khăn về tài chính. Họ đã nhanh chóng áp dụng mô hình ABS
để chứng khoán hoá các khoản vay, loại những khoản nợ xấu, lành mạnh hoá
hoạt động tài chính. Công cụ này gọi là CDO (Collateratized Debt Obligation).
CDO đã nhanh chóng trở thành một công cụ tài chính quan trọng đối với các tổ
chức kinh doanh, đặc biệt là ngân hàng. Và sau này các nhà tài chính trên thế

giới còn phát minh ra biến thái của CDO là CLO (Collateratized Debt
Obligation) và CBO (Collateratized Bond Obligation). Những công cụ mới như
trên trong chứng khoán hoá đã giúp cho giới tài chính trên toàn thế giới có thêm
nhiều công cụ cực kỳ mạnh mẽ và linh hoạt tham gia thị trường tài chính thế
giới.
Việc nghiên cứu sự phát triển của thị trường chứng khoán hoá cho thấy
có rất nhiều cách phân loại các sản phẩm của chứng khoán hoá như chứng
khoán trên cơ sở vay nhà thế chấp, trên cơ sở vay tiêu dùng (mua ô tô, phải thu
thẻ tín dụng...) hoặc trên cơ sở thương mại (thuê tài chính, giấy tờ thương
mại). . . Nhưng trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài và để tiện nghiên cứu ta sẽ
tập trung vào nghiên cứu vào CDO và các biến thái của nó để thấy được vai trò
vô cùng to lớn của CDO đối với quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nói
riêng cũng như thị trường tài chính hiện đại nói chung.
2.Đặc tính các loại tài sản có thể được chứng khoán hoá
Như ta biết bất cứ doanh nghiệp nào từ doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ
cho tới nhưng doanh nghiệp đặc biệt như ngân hàng đều nắm giữ rất nhiều các
loại tài sản khác nhau. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng không phải
bất cứ các loại tài sản nào cũng có thể được chứng khoán hoá. Muốn được
chứng khoán hoá tài sản phải có những đặc điểm sau.
2.1.Tài sản phải được quy về dòng tiền
Một yếu tố cơ bản của loại tài sản đem chứng khoán hoá là phải phát sinh
một dòng tiền từ con nợ. Giá trị của mỗi dòng tiền lại phụ thuộc vào phương
thức thanh toán như đã thoả thuận giữa các bên ban đầu, có thể theo phương
thức thanh toán gốc đều, niên kim. . .Trong thực tế ta thấy các khoản vay có tài
sản bảo đảm được thực hiện bằng cách người đi vay sẽ đứng ra đem tài sản của
mình làm vật thế chấp rồi sẽ vay tiền theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tài
sản thế chấp. Sau đó theo kỳ hạn người đó sẽ thanh toán gốc và lãi. Và nguyên
tắc cơ bản của chứng khoán hoá là phải luôn có một dòng tiền chảy qua giữa
con nợ, chủ nợ, trung gian đặc biệt rồi tới nhà đầu tư. Nếu trong điều kiện bình
thường, hoạt động diễn ra suôn sẻ thì chứng khoán hoá sẽ hoạt động về cơ bản

là như vậy. Tuy nhiên trong trường hợp lãi suất trên thị trường thấp, con nợ sẽ
tìm cách vay tiền để thanh toán cho ngân hàng và ngân hàng chịu rủi ro trả
trước (Prepayment risk). Người ta cũng có thể chứng khoán hoá khoản phải thu
trên thẻ tín dụng vì nó hàm chứa một dòng tiền. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là
dòng tiền của thanh toán thẻ tín dụng sẽ rất bất thường, khó dự đoán được tâm
lý của người tiêu dùng. Việc nhận được các khoản phải thu của chủ nợ sẽ phụ
thuộc vào nhu cầu cũng như mức thu nhập của người sử dụng thẻ.
2.2.Tính hợp pháp
Để đảm bảo cho các giao dịch chuyển nhượng, điều quan trọng và cần
thiết là các loại tài sản có liên quan tới giao dịch chứng khoán hoá phải hợp
pháp. Tính hợp pháp ở đây có nghĩa tài sản phải được chứng nhận quyền sở hữu
hợp pháp của chủ sở hữu và không có bất cứ sự tranh chấp nào xảy ra khi
nhượng bán. Và đặc biệt là tài sản phải không nằm trong danh mục hàng cấm
của nhà nước.
2.3.Tính nhượng bán
Những tài sản đem thế chấp phải là những tài sản có tính nhượng bán
tương đối cao trên thị trường. Những tài sản đảm bảo thường là nhà cửa, ô tô,
máy tính. . . Đặc tính này nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư trong trường hợp
người đi vay bị phá sản thì vẫn có những thứ tài sản đảm bảo thanh toán
2.4.Tính phân tán rủi ro
Tài sản đồng thời cũng phải có tính phân tán rủi ro hoặc rủi ro được đảm
bảo bởi một tỷ lệ hỗ trợ tín dụng cần thiết. Ví dụ với một khoản vay tiêu dùng
có giá trị tương đối nhỏ, nếu phát hành chứng khoán trên khoản vay đó thì rủi ro
quá lớn, do vậy nếu ngân hàng tập hợp rất nhiều khoản vay lại để chứng khoán
hoá thì hoạt động thanh toán của một khoản vay sẽ không làm ảnh hưởng hay
bóp méo toàn bộ kết quả thanh toán của toàn bộ danh mục. Kết quả là toàn bộ
danh mục tài sản có thể được coi là 1 tài sản có thể dự tính được khả năng thanh
toán của nó. Trong trường hợp một số tài sản trong danh mục hoạt động tốt,
triển vọng thanh toán cao có ảnh hưởng tích cực tới danh mục tài sản cho vay
thì sẽ được phân tích theo hướng làm hấp dẫn toàn bộ danh mục đem chứng

khoán hoá.
2.5.Tính độc lập với người khởi tạo
Đây là một đặc tính quan trọng có tác dụng làm tăng tính hấp dẫn của các
chứng khoán phát hành trên tài sản đó. Sự tồn tại hay khả năng sinh lời của tài
sản hoàn toàn độc lập với sự tồn tại của người khởi tạo, thậm chí ngay cả khi
người khởi tạo bị phá sản. Để đảm bảo điều này quá trình lập hợp đồng phải rõ
ràng, người khởi tạo phải chuyển nhượng hoàn toàn các giấy tờ pháp lý cho
trung gian đặc biệt (Special Purpose Vehicle- SPV) và không được dùng tài sản
thế chấp nhiều lần vào các mục đích khác. Một yếu tố hấp dẫn cho các chứng
khoán là trong lần đi vay ngân hàng đã có sự thẩm định tư cách tín dụng của
người đi vay, đồng thời mặc dù đã chuyển nhượng các chứng từ liên quan cho
SPV nhưng tổ chức khởi tạo vẫn giám sát hoạt động thanh toán của người đi
vay để hưởng phí dịch vụ.
2.6.Tính đồng nhất của tài sản
Quá trình chứng khoán hoá được thực hiện khi người khởi tạo tập hợp các
loại tài sản khác nhau lại thành danh mục rồi bán cho SPV. Tiếp đó SPV lại tập
hợp các danh mục từ các tổ chức khởi tạo khác nhau để phân tích, làm tăng tính
hấp dẫn của tài sản rồi từ đó phát hành chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên
nguyên tắc tập hợp tài sản là phải có tính đồng nhất. Ví dụ không thể gộp khoản
phải thu từ thẻ tín dụng với khoản phải thu từ vay mua nhà thế chấp vì chúng có
Tổ chức khởi tạo
Trung gian đặc biệt(SPV)
Nhà đầu tư
Tiền
Phải thu
Tiền
Khách hàng
Tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng
sự khác biệt lớn về dòng tiền. Đặc tính này cũng rất quan trọng. Nó yêu cầu bản
thân tổ chức khởi tạo cũng như SPV phải phân tích, tính toán để tạo ra được một

tập hợp tài sản hợp lý mà đủ lớn.
3.Các thành viên liên quan
Hình 2: Mô hình chứng khoán hoá đơn giản
Một triết lý đơn giản ở đây là: mỗi thành viên tham gia đều phải có những
lợi ích nhất định tương xứng sự đóng góp của họ. Do vậy để có thể hiểu được
quy trình làm việc của chứng khoán hoá thì cũngcần thiết phải biết được lợi ích
của các đối tượng tham gia. Tuy nhiên đề tài chỉ giới hạn trong việc phân tích
các thành viên tham gia cơ bản.
Ta sẽ xem xét mô hình chứng khoán hoá đơn giản trên và phân tích các
thành viên theo sơ đồ của hoạt động chứng khoán hoá .
3.1.Tổ chức khởi tạo
Người khởi tạo là các doanh nghiệp tài chính hoặc phi tài chính có những
khoản mục tài sản cần chứng khoán hoá. Người khởi tạo vì những mục đích
khác nhau mà tiến hành chứng khoán hoá khoản mục tài sản trên bảng cân đối
tài sản của mình ví dụ như khoản phải thu, khoản cho vay dài hạn, đầu tư dự
Chứng
khoán
án... Một đặc điểm nhận thấy rõ ở đây là bản thân tổ chức khởi tạo không phải
là người chịu trách nhiệm thanh toán khoản tiền khi đã chuyển quyền nhận các
lợi ích từ tài sản cho Trung gian đặc biệt. Do đó, lợi thế đặc biệt khi phát hành
các ABS (Assets Backed Security) là dù cho xếp hạng tín dụng của tổ chức khởi
tạo thấp thì vẫn có thể phát hành những chứng khoán có chất lượng cao. Ví dụ,
tổ chức khởi tạo chỉ xếp hạng Aab vẫn có thể phát hành những chứng khoán xếp
hạng AAA. Đồng thời do tài sản độc lập với tổ chức khởi tạo nên dù cho tổ
chức khởi tạo có vấn đề về tài chính hoặc lâm vào tình trạng phá sản thì vẫn
không ảnh hưởng tới sự chuyển dịch của dòng tiền. Đây được gọi là cơ chế
phòng ngừa phá sản (Bankcrupcy remoteness) trong quá trình chứng khoán hoá.
Ngoài ra, việc xếp hạng chứng khoán cao không những giúp giảm chi phí
nguồn vốn mà còn cho phép các nhà đầu tư lớn như các công ty bảo hiểm, đối
tượng thường bị cấm đầu tư vào các tài sản có tính lỏng hoặc xếp hạng thấp, có

thể mua các loại chứng khoán này.
3.2.Trung gian đặc biệt (SPV)
Là một tổ chức độc lập hợp pháp (thường là các công ty tài chính, AMC,
các quỹ tín thác...) với các biện pháp đặc biệt nhằm tăng tính hấp dẫn của các
loại chứng khoán phát hành (tên tiếng Anh là Special Purpose Vehicle – sau đây
tạm gọi là SPV). SPV mua lại quyền nhận các khoản phải thu từ tổ chức khởi
tạo. Trên cơ sở những nhận định về con nợ của người khởi tạo, đồng thời với
những phân tích về tư cách tín dụng riêng đối với cả tổ chức khởi tạo lẫn khách
hàng vay vốn SPV định ra một mức giá thích hợp cho khoản phải thu mà nó sẽ
mua lại. Ở đây SPV sẽ phải quan tâm tới lãi suất khoản vay, các khoản phí liên
quan, phần bù rủi ro đối với khoản vay, tài sản thế chấp. . . Sau đó trên cơ sở
những tính toán về thu nhập dự tính và đánh gía rủi ro nó sẽ phát hành chứng
khoán có thứ hạng khác nhau ra công chúng đầu tư. Nói chung SPV cũng phải
đáp ứng những yêu cầu pháp lý như vốn pháp định, điều lệ hoạt động.
Khi có một sự kiện rủi ro xảy ra dẫn tới sự phá sản của SPV thì những
hợp đồng đang thực hiện vẫn sẽ tiếp tục cho đến khi kết thúc nhưng do một
SPV khác hoặc tổ chức khởi tạo đảm nhận. Đây cũng là một lá chắn bảo vệ các
nhà đầu tư, tạo ra tính hấp dẫn của chứng khoán.
3.3.Nhà đầu tư
Trên thực tế thị trường cho các chứng khoán loại này (ABS) được phát
hành hầu hết là các định chế tài chính hoặc phi tài chính, chỉ một số lượng
không lớn các nhà đầu tư cá nhân. Các đối tượng này bao gồm các quỹ hưu trí,
quỹ tương trợ, công ty bảo hiểm, thậm chí các ngân hàng đâu tư . . . ABS cung
cấp cho giới đầu tư một công cụ tài chính có tính an toàn tương đối cao với lợi
tức hợp lý mà khó có thể tìm được ở các loại chứng khoán do các tổ chức có thứ
hạng tín dụng thấp phát hành. thêm vào đó số lượng lớn các nhà đầu tư đã tạo ra
một vòng tuần hoàn ảo làm tăng tính lỏng cho thị trường ABS.
Ngoài ra việc hạch toán ngoại bảng từ phía tổ chức khởi tạo cho phép nhà
đầu tư tránh được rủi ro tín dụng liên quan tới người khởi tạo.
3.4.Tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng

Như đã nói chứng khoán hoá không thể thành công nếu không có sự bảo
lãnh của chính phủ. Với sự tham gia của chính phủ thì khả năng thanh toán của
chứng khoán là rất cao. Trong trường hợp không có sự tham gia của chính phủ
thì các tổ chức tư nhân sẽ thay thế bằng các biện pháp tăng cường tín dụng.
Tăng cường tín dụng có hai hình thức là tăng cường tín dụng trong ( Internal
Credit Enhancement) và tăng cường tín dụng ngoài. Các tổ chức này sẽ thu phí
thông qua các cam kết hỗ trợ cho chương trình chứng khoán hoá.
3.5.Cơ quan xếp hạng tín dụng
Là một tổ chức độc lập có thể thuộc về chính phủ hoặc giới tư nhân với
nhiệm vụ phân tích, đánh giá mức độ rủi ro xếp hạng các chứng khoán và các
công ty. Kết quả xếp hạng của họ là căn cứ để các nhà đầu tư ra quyết định.
Trên thị trường nợ thế chấp những chứng khoán phát hành có điểm tín dụng
AAA sẽ rất được ưa chuộng. Nhưng có một mâu thuẫn là mặc dù là một cơ
quan ra quyết định độc lập nhưng khi cho điểm một loại chứng khoán cơ quan
này lại nhận phí từ các SPV - đòi hỏi cơ quan này phải cân đối giữa quyền lợi
của bản thân với trách nhiệm đối với giới đầu tư. Cũng vì lý do này mặc dù thị
trường chứng khoán phát triển rất cao trên toàn thế giới nhưng chỉ có duy nhất 4
cơ quan xếp hạng (Duff &Philips, Fitch IBCA, Standard & Poor's, và Moody'
s). Trong số này duy nhất S&P và Moody's có đủ tư cách và tín nhiệm để hoạt
động toàn cầu.
4.Điều kiện cần thiết để chứng khoán hoá các khoản nợ
4.1.Cung và cầu trên thị trường
-Nhu cầu bán nợ- cung về chứng khoán hoá: thực tiễn hoạt động của ngân
hàng tất yếu phát sinh nợ trong quá trình giao dịch với các chủ thể khác. Các
khoản nợ này phát sinh và tồn tại rất đa dạng trong mọi lĩnh vực ngành nghề của
nền kinh tế. Đồng thời nhu cầu vốn của tổ chức là rất lớn nên đòi hỏi phải bán
nợ để đẩy nhanh vòng tuần hoàn của vốn- nhu cầu bán nợ nảy sinh.
-Nhu cầu mua nợ- cầu về chứng khoán hoá: sự xuất hiện nhu cầu mua nợ
của các định chế tài chính đã thay đổi, dần dần trở thành cơ hội kinh doanh của
các định chế này. Sự khan hiếm cơ hội đầu tư hấp dẫn, sự hạn chế của các định

chế tài chính trong việc đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao, đồng thời sự dư thừa
tư bản đã khiến thị trường chứng khoán hoá ra đời
4.2.Sự phát triển cuả nền kinh tế và thị trường tài chính
Sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính là một yếu tố quan
trọng cho sự phát triển các sản phẩm của chứng khoán hoá. Nhưng không phải
theo một quy luật thông thường là cứ hễ nền kinh tế phát triển mạnh thì thị
trường này phát triển. Theo kinh nghiệm trên thế giới thì nền kinh tế vừa thoát
ra khỏi chu kỳ phát triển chậm thì tốc độ phát triển của chứng khoán hoá lại rất
cao. Đó là do những đòi hỏi từ nhu cầu về nguồn vốn cho đầu tư trong thời kỳ
bùng nổ kinh tế sắp tới.
4.3.Sự phát triển của công nghệ
ABS đã bắt đầu với sự trợ giúp rất lớn của công nghệ hiện đại. Chứng
khoán chuyển qua nguyên thuỷ (pass- through ) được tính toán hết sức đơn giản.
Việc phán đoán dòng tiền của chứng khoán thế chấp do các đại lý của chính phủ
phát hành ban đầu rất dễ dàng. Cho đến nay thị trường ABS đã có những bước
phát triển và mở rộng thêm nhiều loại tài sản mới là kết quả của việc phát kiến
ra các mô hình, sức mạnh tính toán, và công nghệ thông tin.
Mô hình mới cho phép các loại tài sản mới có thể nhanh chóng được
chứng khoán hoá mà không phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm lịch sử. Nó hạn
chế rủi ro khá tốt. Tốc độ mạnh mẽ của máy tính cho phép các mô hình chạy
thực nghiệm mang tính thời gian thực, cho phép các đối tượng liên quan hiểu
những dao động của chứng khoán. Đồng thời công nghệ thông tin, điển hình là
Internet, với lượng thông tin khổng lồ có tác dụng cung cấp cho nhà đầu tư
những thông tin chính xác để ra quyết định.
4.4.Sự hỗ trợ của chính phủ
Chính phủ đã và sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của
chứng khoán hoá, cụ thể là chính phủ cần có những biện pháp để thúc đẩy thị
trường này phát triển. Theo kinh nghiệm của Mỹ chính phủ đã thành lập 3 cơ
quan mua bán nhà thế chấp, những nhân tố khởi đầu hết sức quan trọng cho việc
tạo lập thị trường. Cụ thể hơn chính phủ cần có những biện pháp hỗ trợ đặc biệt

để tăng tính hấp dẫn của các chứng khoán như thành lập các tổ chức tư vấn, các
công ty phi lợi nhuận trong giai đoạn đầu để kích thích sự phát triển. . .
4.5.Hệ thống pháp luật hoàn thiện
Vì giao dịch chứng khoán hoá như đã nói trên là rất phức tạp nên để diễn
ra suôn sẻ đòi hỏi phải có cơ chế luật pháp hết sức rõ ràng. Luật pháp ở đây phải
bao gồm các vấn đề về :
+Cơ chế mua bán chuyển nhượng nợ
+Quy chế thành lập và phương thức hoạt động của SPV
+Vấn đề về thuế
+Vấn đề hạch toán kế toán
+Điều khoản cho hoạt động chuyển đổi , tái cơ cấu nợ trong ngân hàng và
doanh nghiệp
5.Lợi ích và rủi ro của chứng khoán hoá các khoản nợ
Như đã nói, một thị trường phát triển cần có các thành viên tham gia và
các thành viên cần biết rõ mình được lợi gì và mất cái gì trong thị trường đó.
Trên ý tưởng như vậy, ta sẽ đơn giản hoá bằng cách đứng trên quan điểm phân
tích lợi ích và rủi ro của tổ chức khởi tạo để làm rõ những ưu điểm và những
khía cạnh còn chưa được của nghiệp vụ này. Trên cơ sở đó ta thấy được vai trò
to lớn của nó đối với quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng
5.1.Lợi ích của chứng khoán hoá
Chứng khoán hoá đem lại rất nhiều lợi ích đối với tổ chức khởi tạo. thay
vì liệt kê chúng ra ta sẽ tiếp cận theo phương pháp mổ sẻ để tìm ra lợi ích thực
chất của chứng khoán hoá. Để phục vụ cho mục đích này chúng ta xây dựng
một bảng cân đối kế toán đơn giản của một ngân hàng XYZ như sau:
Bảng 1: Bảng cân đối kế toán của ngân hàng XYZ (Đơn vị: triệu
USD)
TÀI SẢN NGUỒN VỐN
Tiền mặt 100 Nợ đáo hạn vào năm xxx 300
Cho vay thế chấp 500 Nợ đáo hạn vào năm yyy 500
Khác 400 Vốn cổ phần 200

Tổng 1000 Tổng 1000
(Nguồn: tác giả xây dựng)
Giả sử trong trường hợp ngân hàng cần tiền mặt thì giải pháp huy
động thêm vốn trên thị trường bằng trái phiếu sẽ có chi phí rất cao. Để giảm chi
phí ngân hàng sẽ dùng tài sản mình nắm giữ đem thế chấp để vay từ các định
chế tài chính khác. Bảng cân đối kế toán của ngân hàng XYZ sẽ được lập lại
như sau:
Bảng 2: Bảng cân đối kế toán Ngân hàng XYZ sau khi vay bằng thế chấp
Đơn vị: triệu USD
TÀI SẢN NGUỒN VỐN
Tiền mặt 500 Nợ đáo hạn vào năm xxx 300
Cho vay có thế chấp 500 Nợ đáo hạn vào năm yyy 500
Nợ đáo hạn vào năm zzz 400
Khác 400 Vốn cổ phần 200
Tổng 1400 Tổng 1400
(Nguồn: tác giả xây dựng)
Tuy nhiên hai kỹ thuật huy động vốn trên vẫn là hạch toán nội bảng và bị
giới hạn bởi xếp hạng tín dụng của ngân hàng. Khi đó việc huy động vốn sẽ có
chi phí cao hơn đồng thời tỷ số nợ/ trên vốn cổ phần sẽ tăng từ 4 lên 6 đồng
nghĩa đòn bẩy là tài chính cao hơn, rủi ro cao hơn và ảnh hưởng tới xếp hạng
của ngân hàng. Chứng khoán hoá có thể hạn chế điều này.
5.1.1.Nguồn tài trợ ngoại bảng tăng lên
Giả sử ngân hàng có ý định bán nợ thông qua chứng khoán hoá.
Bảng 3: Bảng cân đối kế toán Ngân hàng XYZ Đơn vị: triệu
USD
TÀI SẢN NGUỒN VỐN
Tiền mặt 590 Nợ đáo hạn vào năm xxx 300
Đầu tư chứng khoán 10 Nợ đáo hạn vào năm yyy 500
Khác 400 Vốn cổ phần 200
Tổng 1000 Tổng 1000

(Nguồn: tác giả xây dựng)
Theo như quy định kế toán Mỹ thì tiền mặt thu từ bán tài sản được cộng
vào tổng tài sản, đồng thời tài sản đã được chuyển nhượng hoặc bán sẽ được
hạch toán vào khoản mục ngoại bảng.
Theo như bảng cân đối trên rõ ràng ngân hàng XYZ đã chuyển được
khoản cho vay thế chấp sang tiền mặt. Tuy nhiên ngân hàng vẫn nắm giữ 10
triệu USD coi như là khoản mục đầu tư chứng khoán từ chính tài sản đã được
chứng khoán hoá của mình.
5.1.2.Tránh được sự suy giảm của thị trường
Trong điều kiện ban đầu ngân hàng có thể đem bán tài sản thế chấp trên
thị trường thứ cấp. Nhưng để tìm được khách hàng mua với mức giá đúng bằng
giá trị thực của tài sản không phải là dễ và ngân hàng sẽ mất một khoản chi phí
không phải là nhỏ. Đặc biệt trong trường hợp thị trường của loại tài sản đó giảm
sút thì nguy cơ bán giá thấp là chắc chắn. Lúc đó chứng khoán hoá là một giải
pháp hay để bảo toàn giá trị tài sản đợi khi thị trường cho tài sản đó (đặc biệt là
thị trường bất động sản) đạt được độ ổn định.
5.1.3.Cải thiện được tỷ số tài chính
Một ưu điểm của chứng khoán hoá là giúp cho ngân hàng tìm kiếm nguồn
vốn với chi phí không cao mà vẫn duy trì được những chỉ số tài chính. Như đã
thấy, tỷ số nợ trên vốn cổ phần sẽ không thay đổi, đồng thời một loạt các chỉ số
liên quan khác sẽ không hề bị ảnh hưởng, thậm chí còn được cải thịên như chỉ
số phản ánh tính thanh khoản của bảng cân đối.
5.1.4.Cải thiện thứ hạng tín dụng
Một trong những điều kiện cho cấu trúc của chứng khoán hoá là cô lập
giữa tài sản của chủ nợ và con nợ. Sự tách biệt giữa tài sản có chất lượng tín
dụng tốt với yếu tố rủi ro của bản thân doanh nghiệp đã làm cho các chứng
khoán phát hành trên cơ sở tài sản bảo đảm có chất lượng tín dụng cao hơn bản
thân người chủ sở hữu của nó. Sự cải thiện xếp hạng tín dụng đến từ hai nguồn:
thứ nhất là chứng khoán mới phát hành được tài trợ bằng dòng tiền độc lập từ
tài sản mà không chịu bất cứ sự can thiệp nào từ người nắm giữ tài sản, điều đó

có nghĩa thứ hạng của chứng khoán không hề bị ảnh hưởng bởi thứ hạng của
người nắm giữ mà phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của tài sản; thứ hai, việc
chuyển nhượng tài sản từ tổ chức khởi tạo sang cho SPV là một giao dịch bán
tài sản thật sự và SPV có chức năng tăng cường tính hấp dẫn của chứng khoán
làm cho thứ hạng của chứng khoán tăng lên đáng kể.
5.1.5.Quản lý rủi ro tốt hơn
Chứng khoán hoá là một công cụ quản trị rủi ro tiên tiến của ngân hàng.
Nó cho phép ngân hàng và doanh nghiệp tránh được nhiều loại rủi ro khác nhau
từ rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cho tới rủi ro hối đoái. Bằng cách loại một
khoản mục tài sản ra khỏi bảng cân đối, tổ chức khởi tạo có thể sẵn sàng cho
các công cuộc đầu tư mới hoặc sẵn sàng đương đầu với một thời kỳ đen tối
trước mắt.
5.1.6.Yêu cầu nguồn vốn thấp hơn
Theo nguyên tắc quản lý rủi ro thì các ngân hàng hoặc một số định chế tài
chính khác phải có những khoản dự trữ bắt buộc cho tài sản mà nó nắm giữ.
Mỗi loại tài sản phải được phân thành rủi ro theo thứ hạng và định lượng rủi ro
đó. Nói chung, khoản cho vay thường có mức độ rủi ro lớn nhất. Ví dụ, khoản
cho vay thương mại có mức độ rủi ro là 100% và vay nhà dân chỉ khoảng 50%.
Những khoản vay được xếp hạng cao thường được đánh giá có mức độ rủi ro
thấp hơn. Ví dụ, chứng khoán của công ty thế chấp nhà liên bang có độ rủi ro là
20% trong khi đối với chứng khoán của chính phủ là 0%. Các tổ chức nắm
trong tay càng nhiều loại tài sản rủi ro bao nhiêu thì yêu cầu dự trữ vốn càng
cao.
Nếu một ngân hàng có một khoản tín dụng xếp hạng A trị giá 4 tỷ USD
thì nguồn dự trữ vốn sẽ là 8% (mức độ rủi ro là 100%), có nghĩa là ngân hàng
phải dự trữ 320 triệu USD. Trong trường hợp ngân hàng này chứng khoán hoá
97% của cả danh mục và nắm 3 % chứng khoán không xếp hạng (Unrated) như
là một cách để tăng cường tín dụng thì khoản dự trữ chỉ là 120 triệu USD. Việc
ngân hàng nắm giữ dự trữ lớn đồng nghĩa với việc được an toàn hơn nhưng lại
mất đi các chi phí cơ hội khác.

Rõ ràng qua chứng khoán hoá, tổ chức khởi tạo có thể có rất nhiều lợi ích
khác nhau. Chứng khoán hoá có thể tạo ra hàng loạt các công cụ tài chính năng
động từ chứng khoán ngắn hạn, dài hạn cho tới chứng khoán coupon thấp,
chứng khoán coupon cao, từ kỳ hạn hoàn vốn âm hay dương cho tới rủi ro thanh
toán trước thoả mãn mọi nhu cầu của giới đầu tư.
5.2.Một số rủi ro thường gặp trong chứng khoán hóa
Quá trình chứng khoán hoá nếu không tiến hành thận trọng không những
không có lợi cho tổ chức khởi tạo mà còn có thể để lại rủi ro cho tổ chức đó.
Nếu tài sản dùng để chứng khoán hoá chịu sự bóp méo của thị trường dẫn tới
chất lượng chứng khoán không như ý muốn thì sẽ có sự xung đột tiềm ẩn giữa
tổ chức khởi tạo, nhà cung cấp dịch vụ và người bảo lãnh.
5.2.1.Rủi ro phải mua lại các chứng khoán đã phát hành
Một ngân hàng người khởi tạo quá trình chứng khoán hoá có thể sẽ chịu
sức ép phải mua lại các chứng khoán đã phát hành nếu tài sản ngừng hoạt động
hoặc biểu hiện không tốt. Chính quá trình phức tạp của chứng khoán hoá đã tạo
ra sức ép đối với tổ chức khởi tạo. Việc có khá nhiều thành viên tham gia cùng
sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư đã gây ra sức ép tiềm ẩn. Nhưng vấn
đề mà tổ chức khởi tạo lo lắng nhất ở đây là rủi ro trong quá trình chứng khoán
hoá đối với các thành viên khác có thể làm ảnh hưởng tới danh tiếng của nó trên
thị trường, tạo ra những tiền lệ xấu về sau này.
5.2.2.Rủi ro chất lượng danh mục giảm
Trên thị trường, tổ chức khởi tạo có xu hướng tìm kiếm những những
nguồn huy động vốn mới. Do vậy, đôi khi nó muốn bán đi những tài sản có chất
lượng tốt và vì vậy có xu hướng làm tăng rủi ro trung bình đối với những tài sản
còn lại trong danh mục. Các nhà đầu tư cùng cơ quan xếp hạng luôn yêu cầu tài
sản có chất lượng cao và khuyến khích các tổ chức bán đi những tài sản tốt của
mình. Thêm vào đó, trong quá trình chứng khoán hoá với thời gian tương đối
dài ngân hàng phải chịu áp lực từ phía cổ đông nên thường có xu hướng giảm
nhẹ các tiêu chuẩn cho vay để giữ mức độ tăng trưởng. Và khi đó nhiều khoản
tín dụng mới được chấp nhận không những không làm cho chất lượng danh mục

×