Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN BÌNH PHƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.14 KB, 28 trang )

1
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN BÌNH PHƯỚC
3.1 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội Bình Phước đến năm 2020
3.1.1 Quan điểm phát triển và mục tiêu tổng quát
Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động, phát triển đô thị theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng Bình Phước
trở thành Tỉnh có kinh tế phát triển toàn diện, xã hội văn minh, môi trường sinh thái
được bảo vệ, an ninh, quốc phòng được giữ vững; phấn đấu trở thành tỉnh phát triển
mạnh trong khu vực và cả nước.
3.1.2 Mục tiêu cụ thể phát triển kinh tế - xã hội Bình Phước đến năm 2020
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 14% - 15%/năm thời kỳ 2006 -
2010, 15,5%/năm thời kỳ 2011 - 2015 và 13,5%/năm thời kỳ 2016 - 2020.
GDP bình quân đầu người đạt 560 - 600 USD vào năm 2010 và 1.628 USD vào
năm 2020 (theo giá thực tế).
Cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Giai
đoạn 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân ngành công nghiệp - xây dựng là
29,3%/năm, giai đoạn 2011 - 2015 là 21,9%/năm và giai đoạn 2016 - 2020 là
16,3%/năm, tương ứng với cơ cấu kinh tế sau: Năm 2010: ngành nông, lâm, ngư nghiệp
chiếm 42,9%, công nghiệp - xây dựng 28,8% và dịch vụ 28,3% trong GDP; Năm 2020
tương ứng là: 19,5%, 43% và 37,5%.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 410 triệu USD và năm 2020 là 2.700 triệu
USD. Thu ngân sách đến năm 2010 đạt 1.500 - 1.600 tỷ đồng và năm 2020 đạt 6.370 tỷ
đồng.
Huy động nguồn vốn đầu tư toàn xã hội cho phát triển kinh tế - xã hội bình quân
hàng năm chiếm 20% GDP.
Đinh hướng phát triển kinh tế - xã hội Bình Phước đến năm 2020
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát triển nông nghiệp theo hướng thâm
1


1
2
canh, chuyên canh để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; hình thành các vùng
sản xuất tập trung, chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế so sánh của Tỉnh như:
vùng trồng cây công nghiệp dài ngày (cao su, tiêu, điều); vùng cây ăn quả; vùng đồng cỏ
phục vụ chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò). Phấn đấu chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ
ngành: đến năm 2010 giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 11,96% và năm 2020 chiếm
19,9% tổng giá trị của ngành.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Tập trung cao độ mọi khả năng, nguồn lực
để phát triển công nghiệp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ngành xây
dựng. Nhanh chóng xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp; đẩy mạnh tiến độ
đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp trên cơ sở phân kỳ đầu tư hợp lý, phù hợp với tiến
độ thu hút các dự án đầu tư. Tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, trước hết
là nhóm ngành chế biến nông sản; đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm; mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Phát triển công nghiệp khai thác đá xây dựng, sản xuất xi
măng, gạch ngói và sản xuất, phân phối điện, nước.
Thương mại - dịch vụ: Mở rộng giao thương với các địa phương trong và ngoài
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và với nước ngoài. Đối với thị trường nước ngoài cần
tập trung phát triển các mặt hàng chủ lực nằm trong chiến lược xuất khẩu của tỉnh như:
cao su, hạt điều, đồ gỗ tinh chế, ...; mở rộng buôn bán với Campuchia và các nước trong
khu vực cùng với việc phát triển kinh tế cửa khẩu Hoa Lư.
3.2 Định hướng phát triển hệ thống NHTM Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn
đến năm 2020
Ngày 24/5/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 112/2006/QĐ-TTg
phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 theo hướng
cơ cấu lại một cách toàn diện mô hình tổ chức và hoạt động của NHNN và các TCTD.
3.2.1 Đối với NHNN
Nâng cao vị thế của NHNN, đảm bảo NHNN là NHTW thực sự, độc lập tự chủ
trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Mục tiêu chủ yếu là ổn định tiền tệ,

kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ – ngân hàng, góp phần tạo dựng
môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNN từ trung ương xuống các chi nhánh theo
hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực và khả năng xây dựng, thực thi chính
2
2
3
sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến, thực hiện các
thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTW, hội nhập với cộng đồng tài chính
quốc tế. Sắp xếp lại các doanh nghiệp trực thuộc NHNN theo hướng chỉ giữ lại Nhà
máy In tiền Quốc gia.
Điều hành chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thận trọng, linh hoạt và hiệu quả
trên nền tảng các công cụ CSTT hiện đại và công nghệ tiên tiến, xây dựng và thực thi
chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, từng bước nâng cao tính chuyển đổi của
VND.
Tăng cường hiệu lực của NHNN về quản lý, giám sát các giao dịch ngoại hối, tự
do hóa giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách
thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính. Tăng nhanh dự trữ ngoại
hối Nhà nước, thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị
trường.
Xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại và hiệu quả, cả về thể chế, mô
hình tổ chức, nguồn nhân lực và phương pháp thanh tra giám sát nhằm đáp ứng yêu cầu
thực tế về phát triển hệ thống ngân hàng, thực hiện đúng các nguyên tắc và chuẩn mực
quốc tế về giám sát ngân hàng. Thành lập cơ quan giám sát an toàn hoạt động ngân hàng
thuộc NHNN trên cơ sở Thanh tra NHNN hiện nay, đảm bảo sau năm 2010 sẽ xây dựng
được cơ quan giám sát tài chính tổng hợp, đồng thời hoàn thiện các điều kiện cho một
hệ thống giám sát có hiệu quả, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các phương pháp giám
sát ngân hàng.
3.2.2 Đối với các TCTD
Cải cách triệt để và phát triển hệ thống các TCTD theo hướng đa năng, hiện đại,

đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, có quy mô lớn và hoạt động theo nguyên tắc thị
trường với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế
vào hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Cơ cấu lại hệ thống NHTM, tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương
mại, bảo đảm quyền kinh doanh của các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết
song phương và đa phương đã ký kết với các nước và các tổ chức quốc tế, gắn cải cách
ngân hàng với cải cách doanh nghiệp. Tiếp tục cơ cấu lại một cách toàn diện hệ thống
TCTD theo các đề án đã được phê duyệt, cụ thể là:
3
3
4
- Tăng cường năng lực thể chế thông qua cơ cấu lại tổ chức và hoạt động, phân
biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị và ban điều hành,
mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra, quản lý rủi ro,
bảo đảm an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, phát triển các hệ thống quản lý của
NHTM phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế;
- Tăng cường năng lực tài chính, đảm bảo các NHTM có đủ nguồn vốn để tiếp
tục tăng vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời, xử
lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTM;
- Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn
định kinh tế – xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài, nhất là các ngân hàng có tiềm lực về tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín được
mua cổ phiếu và tham gia quản trị, điều hành NHTM tại Việt Nam;
- Phát triển quỹ tín dụng nhân dân thành TCTD hợp tác độc lập, hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh tiền tệ;
- Tuân thủ các quy định của các Hiệp định song phương với các nước và quy
định của WTO về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng;
- Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích, được định hướng
theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các
dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời nhanh chóng tiếp cận và phát triển các loại

hình dịch vụ mới với hàm lượng công nghệ cao.
3.2.3 Về hội nhập kinh tế quốc tế
Trên cơ sở lộ trình mở cửa dịch vụ ngân hàng và hội nhập quốc tế, hệ thống pháp
luật ngân hàng của Việt Nam cũng sẽ được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo hướng
phù hợp với các cam kết trong đàm phán gia nhập WTO và các thông lệ chuẩn mực
quốc tế trong hoạt động ngân hàng, cụ thể là:
- Xây dựng và điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp lý về cấp phép thành lập và
tổ chức hoạt động ngân hàng theo hướng không phân biệt đối xử, phù hợp với các cam
kết và lộ trình gia nhập WTO;
- Rà soát danh mục các dịch vụ tài chính – ngân hàng theo phụ lục về dịch vụ tài
chính – ngân hàng của GATS và thông lệ quốc tế. Trước mắt, sửa đổi, bổ sung Nghị
định 82 về mức vốn pháp định của TCTD và Nghị định 49 về tổ chức và hoạt động của
NHTM.
4
4
5
Đối chiếu với yêu cầu, thách thức của việc hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập
WTO, ngành Ngân hàng còn rất nhiều việc phải làm. Do vậy, ngành Ngân hàng cần phải
tập trung phấn đấu hoàn thành tốt các kế hoạch và mục tiêu của chính sách tiền tệ, triển
khai tích cực và có hiệu quả các đề án cải cách và đổi mới hệ thống ngân hàng Việt
Nam, tiếp tục hoàn thiện và thực thi Chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế của
ngành, nhằm đem lại lợi ích tối đa cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước và của
hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
3.3 Định hướng phát triển các ngân hàng thương mại Bình Phước đến năm 2020
Căn cứ mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ phát triển hệ thống NHTM Việt Nam
đến năm 2020, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội Bình Phước, các NHTM Bình Phước
đề ra mục tiêu phát triển cụ thể như sau:
3.3.1 Mục tiêu định hướng
Tiếp tục đổi mới các mặt hoạt động ngân hàng theo định hướng của nhà nước và
của ngành trong từng thời kỳ. Phát triển các NHTM trên địa bàn hoạt động an toàn, hiệu

quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ tiên tiến, tập trung vào các mục tiêu
và chương trình phát triển kinh tế địa phương.
Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Đẩy mạnh huy động
vốn để chủ động đáp ứng nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế.
Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước trên
lĩnh vực tiền tệ. Nâng cao năng lực thanh tra, kiểm tra, giám sát đảm bảo hệ thống ngân
hàng hoạt động theo hướng an toàn, cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững.
3.3.2 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển khách hàng thông qua việc tiếp thị các sản phẩm
hiện có nhằm mở rộng thị trường hoạt động tín dụng tới mọi lĩnh vực, mọi đối tượng
khách hàng mà pháp luật cho phép.
Đẩy mạnh cho vay đối với các DN ngoài quốc doanh, các DNV&N, đẩy mạnh
bán lẻ đối với tư nhân cá thể, hộ gia đình, các khu công nghiệp,.. Đồng thời điều chỉnh
cơ cấu tín dụng hợp lý, nâng cao chất lượng tín dụng, đo lường và quản trị được rủi ro
trong hoạt động tín dụng nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu và không vượt quy định của NHNN.
5
5
6
Hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ và quy trình cung cấp các sản phẩm dịch vụ hiện
có thông qua việc tăng cường ứng dụng và khai thác công nghệ thông tin nhằm đơn giản
hóa thủ tục xử lý công việc, từ đó đáp ứng một cách nhanh nhất yêu cầu của khách
hàng.
Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng để phù hợp với từng đối tượng khách hàng nhằm
thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu hoạt động tín dụng. Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật trong
lĩnh vực quản lý rủi ro, ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ.
Đồng thời, ứng dụng các chuẩn mực kế toán và quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc
tế.
Tăng cường đào tạo nhân viên tín dụng và các cá nhân khác cùng tham gia trong
hoạt động cung cấp dịch vụ để bồi dưỡng kỹ năng tiếp thị, bán hàng, các kiến thức liên
quan đến các sản phẩm, dịch vụ hiện có và các sản phẩm, dịch vụ mới.

Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý trung gian nhằm nâng cấp các kỹ
năng lập kế hoạch phát triển kinh doanh, đánh giá và phân tích cạnh tranh, quản trị rủi
ro và quản trị nhân sự.
3.4 Những giải pháp ở cấp độ vĩ mô
3.4.1 Giải pháp từ chính phủ
3.4.1.1 Lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ cho phù hợp với NHNN thời kỳ mới:
Hiện tại, NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân
hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về
mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi
chính sách tiền tệ. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động
của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và gây chậm
trễ trong chính sách, không phù hợp tình hình thực tế.
NHNN Việt Nam cần được trao quyền độc lập, tự chủ hơn trong việc đưa ra các
quyết định chính sách mà không có sự can thiệp từ phía các cơ quan nhà nước hay các
áp lực chính trị; đồng thời được quyền kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới
các mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhất là về vấn đề chống lạm phát, hạn chế việc tài
trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, cũng cần trao cho
NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính, tức là tự chủ về ngân sách. Có như vậy
6
6
7
thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả
nhất.
3.4.1.2 Chính phủ nên kịp thời hỗ trợ Trung tâm thông tin tín dụng (TTTTTD) tư
nhân ra đời
Hiện nay TTTTTD Nhà nước mới thu thập về các khoản cho vay lớn của các
ngân hàng mà không đủ khả năng để theo dõi các khoản vay nhỏ hơn cho các DNV&N
hoặc cho vay tiêu dùng. Nước ta chưa có trung tâm TTTD tư nhân. Tốc độ tăng trưởng
nhanh của tín dụng tiêu dùng, đặc biệt là thẻ tín dụng càng đòi hỏi về thông tin tín dụng

nhiều hơn mà một cơ quan như TTTTTD Nhà nước chưa thể đáp ứng đầy đủ được. Do
hạn chế này, phạm vi thu thập thông tin tín dụng ở Việt Nam là rất hẹp so với ở nước có
trung tâm TTTD tư nhân. Đây có thể là một trong những lý do giải thích tại sao
DNV&N và cá nhân ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều rào cản khi tiếp cận tín dụng.
Mặc dù TTTTTD tư nhân có thể giúp tăng cường dung lượng tín dụng và cải
thiện khả năng tiếp cận tín dụng, các trung tâm này sẽ không thể hoạt động thành công
nếu thiếu một khung pháp lý tạo điều kiện cho sự hoạt động của cả thị trường tín dụng
nói chung và của các TTTTTD tư nhân nói riêng. Vì vậy Chính phủ cần đóng một vai
trò vô cùng quan trọng trong quá trình này: Chính phủ có thể tạo ra một môi trường
thuận lợi cho TTTTTD tư nhân thông qua việc ban hành và thực thi các văn bản pháp
luật tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ thông tin tín dụng nhưng vẫn bảo vệ được
quyền lợi hợp pháp của các cá nhân và DN đối với những thông tin này. Những văn bản
pháp luật liên quan tới hoạt động của trung tâm TTTD gồm các văn bản liên quan tới
bảo mật trong ngân hàng, bảo vệ dữ liệu và luật bảo vệ người tiêu dùng.
3.4.1.3 Tạo điều kiện để phát triển thị trường mua bán nợ xấu của các NHTM
Đối với hoạt động mua bán nợ xấu, hệ thống NHTM có các Công ty Quản lý nợ
và Khai thác tài sản (AMC). Tuy nhiên, thị trường mua bán nợ chưa có cơ chế rõ ràng
và một sân chơi có hành lang pháp lý đầy đủ. Tính đến cuối năm 2008, nợ xấu của hệ
thống ngân hàng Việt Nam ở khoảng 43.500 tỷ đồng, chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng.
Trong bối cảnh nền kinh tế được còn gặp nhiều khó khăn, nhiều chuyên gia dự đoán số
nợ xấu sẽ còn tăng lên đáng kể trong năm 2009.
Việc mua bán nợ xấu ngân hàng ở Việt Nam hầu như chưa có và nếu có thì diễn
ra rất khó khăn từ việc lập hồ sơ, đưa lên tòa, đến thi hành án rất lằng nhằng, phức tạp,
thậm chí 2 - 3 năm không xong được việc. Sở dĩ việc mua, bán nợ xấu ngân hàng chưa
7
7
8
nhiều trên thị trường là do: Chính phủ vẫn chưa để mắt tới vấn đề này và chưa cho phép
lực lượng nước ngoài tham gia vào thị trường. Mặc dù, khi nói đến thị trường thì phải
bao gồm nhiều đối tượng: trong nước và ngoài nước, quốc doanh và tư nhân cùng tham

gia. Hoạt động này trên thế giới thông suốt là do những quốc này có một hệ thống pháp
lý hoàn hảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thị trường này phát triển như nhân lực có
tay nghề cao, cung cấp dịch vụ bài bản...
Trong thời điểm nền kinh tế đang đối mặt với nhiều khó khăn, Chính phủ nên
dành sự ưu đãi và quan tâm đầu tư cho lĩnh vực mua bán nợ, đặc biệt là mua bán nợ xấu
ngân hàng: Nhà nước cần đưa ra các cơ chế chính sách rõ ràng, cải tiến và đơn giản hóa
các thủ tục hành chính, giảm bớt chi phí xử lý nợ giữa ngân hàng và các doanh nghiệp,
nhằm làm lành mạnh mạch máu cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của
nền kinh tế Việt Nam.
3.4.1.4 Đề nghị sửa điều 476 trong Bộ luật dân sự liên quan đến quy định về trần lãi suất:
Tại Điều 476 của Bộ Luật dân sự có quy định “Lãi suất vay do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với
loại cho vay tương ứng”. Mục tiêu chính của quy định này là nhằm ngăn chặn việc cho
vay nặng lãi trong nền kinh tế, thường xảy ra trong quan hệ giữa dân với dân và để tạo
ra căn cứ cho tòa án xét xử khi có tranh chấp xảy ra.
Tuy nhiên, quy định trên trong thực tế vẫn được hiểu là áp dụng để xử lý lãi suất
cho vay cho các TCTD, mặc dù hoạt động của TCTD được điều chỉnh bởi 2 Luật
NHNN và Luật TCTD. Bốn lý do để bỏ bỏ trần lãi suất:
- Thứ nhất, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là một biện
pháp can thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ
động và linh hoạt của các NHTM trong vấn đề huy động vốn và cho vay, vì lãi suất (giá
cả) hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường
- Thứ hai, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các
loại hình tín dụng làm cho các ngân hàng rất khó đa đạng hóa các sản phẩm dịch vụ, vì
mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác nhau.
- Thứ ba, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền
tệ, NHNN đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp
8
8
9

vốn, nghiệp vụ thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng mà không cần giải
pháp hành chính cứng nhắc như điều 476 của Bộ Luật dân sự đã quy định.
- Thứ tư, Nghị quyết số 23/2008/NQ -QH12 ngày 6/11/2008 có cho phép “ Các
TCTD điều hành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN theo quy định
của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản
xuất kinh doanh có hiệu quả cao”. Để thực hiện Nghị quyết trên của Quốc hội, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những biện pháp
cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép “TCTD thực hiện việc
cho vay theo lãi suất thỏa thuận...”.
Lúc này rất cần giải pháp năng động, linh hoạt của Nhà nước đó là dỡ bỏ trần lãi
suất, cởi trói cho hoạt động ngân hàng để các NHTM được thực hiện cho vay theo lãi
suất thỏa thuận trong khuôn khổ của Luật NHNN và Luật các TCTD đã quy định. tôi
xin đề xuất sửa Điều 476 của Bộ Luật dân sự theo phương án: Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội giải thích Điều 476 Bộ Luật dân sự theo hướng “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố”, quy định
này không điều chỉnh các quan hệ tín dụng của các TCTD. TCTD hoạt động theo quy
định của Luật NHNN và Luật các TCTD. Nghĩa là TCTD và khách hàng được thỏa
thuận mức lãi suất trong các hoạt động ngân hàng, không phụ thuộc vào quy định của
Bộ luật dân sự vì bản chất hoạt động kinh doanh ngân hàng của TCTD khác về bản chất
với hoạt động cho vay trong quan hệ dân sự thông thường.
3.4.2 Giải pháp từ ngân hàng nhà nước Việt Nam
3.4.2.1 Cơ cấu lại căn bản, toàn diện tổ chức và hoạt động của NHNN:
Để NHNN có đủ năng lực xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc
thị trường và công nghệ tiến tiến, thực hiện các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về vai
trò, chức năng của NHTW nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tiền tệ – ngân hàng, làm cơ sở để phát triển NHNN thành NHTW hiện
đại. Trọng tâm đổi mới NHNN tập trung vào những vấn đề sau:
- Đảm bảo cho NHNN được độc lập tự chủ trong việc xây dựng, điều hành
chính sách tiền tệ, lãi suất và tỉ giá hối đoái, thực hiện chức năng của NHTW thực sự, là
ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng, là trung tâm thanh toán quốc

gia, điều hành thị trường tiền tệ;
9
9
10
- Đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNN từ trung ương đến chi nhánh theo hướng
tinh gọn và hiện đại, đảm bảo cho NHNN gánh vác trọng trách trong việc tạo lập môi
trường hoạt động thông thoáng và thuận lợi cho các tổ chức tài chính hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam;
- Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường.
- Tiếp tục hiện đại hệ thống thanh toán nhằm tăng cường tính tiện ích của dịch
vụ NH cung cấp, tăng nhanh tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua
ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả hoạt động ngân hàng,
NHNN có thể kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông và giảm thiểu rủi ro tài chính.
3.4.2.2 Cải cách toàn diện hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng
Cải cách toàn diện hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu
thực tế về phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và phù hợp với các nguyên tắc,
chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng. Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy Thanh tra,
đổi mới hoạt động và quy trình thanh tra - giám sát theo hướng nâng cao năng lực, chất
lượng thanh tra - giám sát, đảm bảo tôn trọng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức tín dụng, kiểm soát được chất lượng hoạt động nhằm mục đích an toàn của từng tổ
chức tín dụng và an toàn hệ thống. Phấn đấu đến năm 2010, hệ thống giám sát an toàn
hoạt động ngân hàng Việt Nam đáp ứng căn bản các chuẩn mực quốc tế về giám sát
ngân hàng, cụ thể:
- Thứ nhất, cần bổ sung các yêu cầu về tính minh bạch và chế độ báo cáo, đặc
biệt đối với chế độ kiểm toán hai lần một năm.
- Thứ hai, tăng cường tái cơ cấu các cơ quan giám sát tài chính hiện tại, bao gồm,
cơ quan giám sát trong lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng và chứng khoán để hướng tới một
hệ thống giám sát tích hợp và độc lập. Về giám sát bảo hiểm, cần tái cơ cấu hoa hồng
bảo hiểm. Văn phòng giám sát cần được thành lập tại NHNN kết hợp với các phòng
chức năng cùng với chức năng chống rửa tiền.

- Thứ ba, thực hiện giám sát và điều tiết dựa trên rủi ro theo các tiêu chuẩn quốc
tế.
- Thứ tư, nâng cao tầm quan trọng của hệ thống cảnh báo sớm và tăng cường
theo dõi các tổ chức tài chính lớn một cách có hệ thống.
10
10
11
3.4.2.3 Nâng cao chất lượng Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC)
Một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện quản trị rủi ro tốt là hệ thống
thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của
TTTTTD là rất cần thiết nên CIC cần chú trọng đổi mới và hiện đại hóa các trang thiết
bị, thiết lập hệ thống sao cho việc thu thập cũng như cung cấp thông tin tín dụng được
thông suốt, kịp thời.
Ngoài ra, NHNN cần phải có biện pháp khuyến khích và đi dần đến quy định bắt
buộc các NHTM hợp tác, cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho trung tâm vì hiện nay,
các NHTM chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ yếu là do muốn giữ bí mật thông tin
về khách hàng để cạnh tranh. Thanh tra NHNN nên kiểm tra việc báo cáo, khai thác
thông tin của các ngân hàng, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với
những ngân hàng vi phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng.
3.4.2.4 Cho phép thành lập các Trung tâm thông tin tín dụng tư nhân
Dự báo đến năm 2010, Việt Nam sẽ có khoảng hơn 25 triệu khách hàng vay tiêu
dùng - đây là một lượng khách hàng rất lớn mà CIC Nhà nước không thể phục vụ hết
được. Tính đến năm 2010, khả năng của CIC cũng chỉ có thể phục vụ đựợc khoảng 10
triệu khách hàng trong đó 500.000 là khách hàng DN, còn lại là khách hàng cá nhân. Đã
đến lúc NHNN cần cân nhắc thành lập TTTTTD tư nhân để có đủ khả năng phục vụ
phần còn lại của thị trường tốt hơn. TTTTTD tư nhân sẽ giúp cảnh báo về các khách
hàng có tiền sử vay nợ quá nhiều hoặc đã từng không thanh toán đúng hạn; qua đó giúp
các ngân hàng giảm bớt rủi ro tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu không thu hồi được
Song hoạt động thông tin tín dụng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, liên quan đến
không chỉ quyền lợi và nghĩa vụ của các TCTD mà còn liên quan tới quyền được bảo vệ

và bí mật kinh doanh, bí mật riêng tư của doanh nghiệp, của cá nhân. Đây là một lĩnh
vực còn mới mẻ đối với Việt Nam, vì vậy việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế là rất cần
thiết để chúng ta lựa chọn được mô hình phù hợp với điều kiện của Việt Nam mà vẫn
đáp ứng được các yêu cầu thông lệ quốc tế tiên tiến cần thiết để hội nhập.
NHNN có thể xem việc lập trung tâm TTTD tư nhân ở Singapore: mô hình trung
tâm TTTD tư nhân ở Singapore là 75% cổ phần do một công ty tư nhân nắm giữ, 25%
còn lại do một hiệp hội tài chính nắm giữ để các ngân hàng hội viên đều có lợi ích trong
trung tâm này, qua đó đảm bảo sự cam kết của các ngân hàng trong việc trao đổi thông
11
11

×