Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU KHÍ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.12 KB, 43 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN TẠI TỔNG CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN DẦU
KHÍ VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về Tổng công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí
2.1.1. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam-quá trình hình thành và phát
triển
Hơn 30 năm trước, ngày 3/9/1975, Chính phủ ban hành Nghị định số
170/CP thành lập Tổng cụ Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam, tiền thân của Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam ngày nay. Một năm sau ngày thành lập, ngày
25/7/1976, ngành Dầu khí đã phát hiện nguồn khí thiên nhiên đầu tiên tại giếng
khoan số 61 ở Vùng Trũng Sông Hồng. 5 năm sau, vào tháng 6 năm 1981, dòng
khí công nghiệp ở mỏ khí Tiền Hải đã được khai thác để đưa vào phục vụ sản
xuất; và 10 năm sau ngày thành lập, ngày 26/6/1986, Xí nghiệp Liên doanh Dầu
khí Việt – Xô đã khai thác tấn dầu đầu tiên từ mỏ Bạch Hổ, ghi nhận một một
mốc dấu quan trọng - Việt Nam đã có tên trong danh sách các nước khai thác và
xuất khẩu dầu thô thế giới, khẳng định một tương lai phát triển đầy hứa hẹn của
cho ngành công nghiệp dầu khí đất nước. Kể từ đó đến nay, toàn ngành Dầu khí
đã khai thác được 205 triệu tấn dầu thô và hơn 30 tỷ mét khối khí, mang lại
doanh thu trên 40 tỉ USD, nộp ngân sách nhà nước gần 25 tỷ USD, tạo dựng
được nguồn vốn chủ sở hữu trên 80 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh hoạt động khai thác, công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí đã xác
định được trữ lượng dầu khí ước đạt từ 3 - 4 tỷ mét khối dầu qui đổi, trữ lượng
dầu khí xác minh đạt 1,05 – 1.14 tỷ tấn dầu qui đổi (trong đó trữ lượng tiềm
năng về khí thiên nhiên khoảng 60%) có tại trên 60 cấu tạo chứa dầu khí, đã lần
lượt đưa 8 mỏ dầu khí có giá trị thương mại vào khai thác. Mục tiêu gia tăng trữ
lượng dầu khí trong nhiều năm trở lại đây liên tục được hoàn thành với mức từ
30-40 triệu tấn dầu qui đổi/ năm, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc đảm
bảo cân đối bền vững, duy trì ổn định sản lượng dầu khí khai thác phục vụ nền
kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng của đất nước cho thời gian tới.
Tính từ khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1988)
cho đến nay, ngành Dầu khí đã ký 57 hợp đồng TDKT Dầu khí, thu hút vốn đầu


tư trên 7 tỷ USD, hiện nay 35 hợp đồng đang có hiệu lực. Để thực hiện được
mục tiêu đảm bảo cung cấp năng lượng và nhiên liệu cho nền kinh tế, chủ động
hội nhập cùng cộng đồng dầu khí quốc tế, những năm gần đây, Tập đoàn Dầu
khí đã mở rộng hoạt động thăm dò – khai thác dầu khí ra nước ngoài. Hiện nay,
Tập đoàn đang đầu tư 7 dự án ở nước ngoài, trong đó có 2 đề án tự điều hành,
đã thu được phát hiện dầu khí quan trọng ở Malaysia, Algieria. Đặc biệt tháng
9/2006, Tập đoàn đã có tấn dầu thô đầu tiên khai thác ở nước ngoài tại mỏ PM
304 (Malaysia).
Song song hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác, lĩnh vực công nghiệp
khí cũng đã được tích cực triển khai. Dòng khí đồng hành của mỏ Bạch Hổ
được đưa vào bờ đã mang lại hiệu quả cao đối nền kinh tế, cung cấp nguyên liệu
và năng lượng cho nhà máy điện, đạm Phú Mỹ cùng một khối lượng lớn khí hoá
lỏng LPG, condensate cho nhu cầu nội địa. Cùng với nguồn khí đồng hành Bể
Cửu Long, nguồn khí Nam Côn Sơn được đua vào khai thác tiếp đó đã hoàn
thiện đưa vào hoạt động cụm công nghiệp Khí - Điện - Đạm ở miền Đông Nam
bộ. Ở miền Tây Nam bộ, dự án tổ hợp Khí - Điện - Đạm Cà Mau có ý nghĩa rất
lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng sông Cửu Long đang
được khẩn trương thực hiện. Trong tương lai, nhiều mỏ khí mới như lô B, Sư
Tử Trắng… sẽ được khai thác và mở ra một giai đoạn mới đầy hứa hẹn của nền
công nghiệp khí Việt Nam.
Trong lĩnh vực chế biến khí và hoá dầu, Nhà máy lọc dầu Dung Quất đang
được khẩn trương triển khai xây dựng với mục tiêu đưa vào vận hành thương
mại năm 2009. Dự án khu Liên hợp Lọc hoá dầu Nghi Sơn và đề án Nhà máy
lọc dầu phí Nam đang được chuẩn bị tích cực để sớm đầu tư xây dựng đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng về nguyên liệu cho đất nước và bổ sung cho công
nghiệp hoá dầu những nguyên liệu và sản phẩm mới.
Cùng với sự phát triển các lĩnh vực trọng tâm của ngành công nghiệp dầu
khí, để khép kín và hoàn chình đồng bộ hoạt động của ngành, các hoạt động
dịch vụ kỹ thuật kỹ thuật phụ trợ, thương mại, tài chính, bảo hiểm … của ngành
dầu khí đã được hình thành và phát triển, doanh số hoạt động ngày càng tăng

trong tổng doanh thu của toàn ngành. Thực hiện mục tiêu xây dựng Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam trở thành tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước, công
tác hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý và cơ cấu tổ chức, công tác đổi mới và cổ
phần hoá doanh nghiệp đã được triển khai có hiệu quả, hoạt động SXKD của
các đơn vị cổ phần hoá được cải thiện rõ rệt, hoạt động SXKD của Tập đoàn
đang được xác lập theo hướng hiệu quả nhất, phát triển thêm một số lĩnh vực
hoạt động mới để tận dụng tiềm năng thế mạnh của ngành.
Là một ngành kinh tế kỹ thuật yêu cầu công nghệ cao, vốn đầu tư lớn, có
mức độ rủi ro cao, con người luôn là yếu tố quyết định, đặc biệt trong giai đoạn
đất nước bước vào hội nhập. Ý Thức được điều đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
đã sớm đầu tư xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật, đặc
biệt là những cán bộ khoa học và những cán bộ quản lý có trình độ cao. Đến nay
Tập đoàn Dầu khí Việt nam đã có đội nguc chuyên gia, cán bộ hơn 22 nghìn
người đã và đang đảm đương tốt đẹp công việc được giao phó.
Chặng đường xây dựng và phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam trên 30
năm qua hết sức vẻ vang, Đảng, Nhà nước và nhân dân đã luôn quan tâm tạo
điều kiện cho ngành Dầu khí phát triển. Từ năm 1988, Bộ Chính trị đã có Nghị
quyết 15 về phát triển ngành dầu khí. Năm 2006 vừa qua, Bộ Chính trị đã có
quyết định số 41-KL-TW ngày 19/01/2006 về phát triển ngành Dầu khí Việt
Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025; Thủ tướng Chính phủ đã có
quyết định số 386/QĐ-TTg này 09/03.2006 phê duyệt chiến lược phát triển
ngành Dầu khí Quốc gia Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025
và ngày 29/8/2006 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 198,
199/2006/QĐ-TTg về phê duyệt đề án Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và
Thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Từ đây, ngành
Dầu khí Việt Nam bắt đầu một giai đoạn phát triển mới, với một vóc dáng mới.
Tự hào và phát huy những thành thành tích đạt được, tin tưởng mãnh liệt vào
tương lai tươi dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, Tập
đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam sẵn sàng vượt qua mọi thách thức, phấn đấu
vươn lên không mệt mỏi để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước

giao. Trong giai đoạn đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025, Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam xác định mục tiêu và nhiệm vụ phát triển như sau:
Mục tiêu tổng quát:
Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam trở thành ngành kinh tế kỹ thuật quan
trọng, đồng bộ, bao gồm: tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến,
tàn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất, nhập khẩu. Xây dựng Tập đoàn Dầu khí
mạnh, kinh doanh đa ngành trong nước và quốc tế.
Các mục tiêu cụ thể:
Về tìm kiếm thăm dò dầu khí: Đẩy mạnh việc tìm kiếm thăm dò, gia tăng trữ
lượng có thể khai thác; ưu tiên phát triển những vùng biển nước sâu, xa bờ; tích
cực triển khai đầu tư tìm kiếm thăm dò dầu khí ra nước ngoài. Phấn đấu gia tăng
trữ lượng dầu khí đạt 35-40 triệu tấn qui dầu.
Về khai thác dầu khí: Khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm nguồn
tài nguyên dầu khí trong nước để sử dụng lâu dài; đồng thời tích cực mở rộng
hoạt động khai thác dầu khí ở nước ngoài để bổ sung phần thiếu hụt từ khai thác
trong nước. Phấn đấu khai thác 25-35 triệu tấn qui dầu/ năm, trong đó khai thác
dầu thô giữ ổn định ở mức 18-20 triệu tấn/ năm và khai thác khí 6-17 tỷ
m3/năm.
Về phát triển công nghiệp khí: Tích cực phát triển thị trường tiêu thụ khí
trong nước, sử dụng khí tiết kiệm, hiệu quả kinh tế cao thông qua sản xuất điện,
phân bón, hoá chất, phục vụ các nành công nghiệp khai thác, giao thông vân tải
và tiêu dùng gia đình. Xây dựng và vân hành an toàn, hiệu quả hệ thống đường
ống dẫn khí quốc gia, sẵn sàng kết nối với đường ống dẫn khí khu vực Đông
Nam Á phục vụ cho nhu cầu xuất nhập khẩu khí. Riêng Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam sản xuất 10-15% tổng sản lượng điện của cả nước.
Về công nghiệp chế biến dầu khí: Tích cực thu hút vốn đầu tư của mọi thành
phần kinh tế, đặc biệt là đầu tư từ nước ngoài để phát triển nha công nghiệp chế
biến dầu khí. Kết hợp có hiệu quả giữa các công trình lọc, hoá dầu, chế biến khí
để ạo ra được các sản phẩm năng lượng cần thiết phục vụ nhu cầu của thị trường
ở trong nước và làm nguyên liệu cho các ngành công nnghiệp khác.

Về phát triển dịch vụ dầu khí: Thu hút tối đa các thành phần kinh tế tham gia
phát triển dịch vụ để tăng nhanh tỷ trọng doanh thu dịch vụ trong tổng doanh
thu của cả ngành. Phấn đấu đến năm 2010, doanh thu dịch vụ kỹ thuật dầu khí
đạt 25-30%, đến năm 2015 đạt 30-35% tổng doanh thu của ngành và ổn định
đến năm 2025.
Về phát triển khoa học công nghệ: Tăng cường phát triển tiềm lực khoa học
công nghệ, đầu tư trang thiết bị hiện đại để hiện đại hoá nhanh ngành dầu khí;
xây dựng lực lượng cán bộ, công nhân dầu khí mạnh cả về chất và lượng để có
thể tự điều hành được các hoạt động dầu khí cả ở trong nước và ở nước ngoài.
2.1.2. Vai trò của PVFC trong Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam
Công ty Tài chính trong Tập đoàn kinh doanh là sản phẩm tất yếu của nền
kinh tế thị trường và là bước phát triển cao hơn của Tập đoàn kinh doanh, làm
tăng hiệu quả huy động vốn cho Tập đoàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong
Tập đoàn và phát huy triệt để sức mạnh của Tập đoàn trên thị trường tài chính.
Xuất phát từ ý tưởng đó, mô hình Công ty tài chính trong Tổng công ty được
nghiên cứu từ những năm 90 của thế kỷ XX và Công ty tài chính trong Tổng
công ty Nhà nước đầu tiên được thành lập tại Việt Nam vào năm 1998 và đến
năm 2000- Công ty tài chính Nhà nước cuối cùng (cho đến hiện tại) được thành
lập là PVFC- hình thành nhóm Công ty tài chính thuộc Tổng công ty Nhà nước
gồm 5 Công ty có vốn điều lệ 305 tỷ VNĐ, gồm:
- Công ty tài chính Dệt may được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy
phép hoạt động từ năm 1998, trụ sở chính tại TP. HCM, vốn điều lệ khi thành
lập là 30 tỷ VNĐ.
- Công ty tài chính Cao su thuộc Tổng công ty Cao su được NHNN Việt
Nam cấp giấy phép hoạt động từ năm 1998, trụ sở chính tại Hà Nội, vốn điều lệ
khi thành lập là 70 tỷ VNĐ.
- Công ty tài chính Bưu điện thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông được
NHNN Việt Nam cấp giấy phép hoạt động từ năm 1998, trụ sở chính tại Hà
Nội, vốn điều lệ khi thành lập là 70 tỷ VNĐ.
- Công ty Tài chính Tàu thuỷ thuộc Tổng công ty Tàu thuỷ được NHNNN

Việt Nam cấp giấy phép hoạt động từ năm 2000, trụ sở chính tại Hà Nội, vốn
điều lệ khi thành lập là 70 tỷ VNĐ.
Thực hiện chủ trương xây dựng Tổng công ty Dầu khí Việt nam thành tập
đoàn kinh tế mạnh, bằng Quyết định số 04/2000/QĐ - VPCP, Chính phủ đã cho
phép Tổng công ty Dầu khí Việt nam thành lập Công ty Tài chính Dầu khí -
định chế tài chính 100% vốn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, doanh nghiệp
thành viên hạch toán kinh tế độc lập nhằm đảm bảo nhu cầu vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Tổng công ty và các đơn vị thành viên với chức năng của một tổ
chức tín dụng phi Ngân hàng tại Tổng công ty Dầu khí Việt nam để thực hiện
mọi dịch vụ liên quan đến việc quản lý sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn của
các tổ chức tín dụng, các đơn vị, tổ chức và cá nhân trong Tổng công ty trên
nguyên tắc sinh lời.
Với mục đích nói trên, Công ty Tài chính Dầu khí đã ra đời và đã đặt được
những dấu mốc quan trọng trên bước đi ban đầu của mình:
19/6/2000: Bằng quyết định số 903/QĐ - HĐQT của Hội đồng quản trị Tổng
công ty Dầu khí Việt nam, Công ty Tài chính Dầu khí được chính thức thành
lập.
30/9/2000: Công ty Tài chính Dầu khí chính thức đặt trụ sở đầu tiên với đầy đủ
trang thiết bị và bộ máy hoạt động tại 34B Hàn Thuyên - Quận Hai Bà Trưng -
Hà Nội.
12/10/2000: Bằng quyết định số 4098/QĐ – HĐQT của Hội đồng quản trị Tổng
công ty Dầu khí Việt Nam, điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty được ban
hành.
25/10/2000: Thống đốc NHNN chính thức cấp giấy phép số 12/GP - NHNN cho
phép Công ty hoạt động và phê chuẩn điều lệ hoạt động của Công ty.
5/2/2001: Lễ khai trương Công ty Tài chính Dầu khí đã được Tổng công ty Dầu
khí Việt nam tổ chức trọng thể tại Hà Nội đánh dấu sự hội nhập chính thức của
Công ty vào cộng đồng các đơn vị trong Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, vào
cộng đồng các định chế tài chính trong nước và quốc tế.
Với tám năm hình thành và phát triển, tuy không phải là một thời gian dài

nhưng cũng đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của một định chế tài chính
còn non trẻ.
Ngay trong những năm đầu thành lập, dù chỉ với số vốn điều lệ là 100 tỷ,
PVFC đã có những bước tăng trưởng và phát triển vượt bậc. Với tư cách là định
chế tài chính của PetroVietnam, PVFC đã triển khai các hoạt động:
- Thu xếp vốn tín dụng cho các dự án đầu tư
- Thực hiện các đề án phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế cho
PetroVietnam

×