Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.07 KB, 10 trang )

THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY
HỘ CHĂN NUÔI CÁ TRA-BASA TẠI NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG
2.1 VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ
HỘI TỈNH AN GIANG
2.1.1 Về điều kiện tự nhiên
An Giang là một tỉnh thuộc ĐBSCL, Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh
Đồng Tháp; Phía Tây Bắc giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài
gần 96,6 km; Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang; Phía Đông Nam
giáp Thành phố Cần Thơ. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.536,8 km
2
. Tỉnh có 11
đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm : TP Long Xuyên, Thị xã Châu Đốc và
09 huyện là Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ Mới,
Phú Tân, Tân Châu, An Phú với 150 phường, xã, thị trấn. Dân số năm 2006
khoản 2.210.000 người tương ứng với mật độ dân số là 625 người/km
2
.
An Giang có hai nhánh sông chảy qua là sông Tiền và sông Hậu, sông
Tiền chảy qua An Giang không liên tục, là ranh giới chung của hai tỉnh An
Giang – Đồng Tháp (ở Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới). Sông Hậu đi qua tỉnh An
Giang chia tỉnh thành hai phần : các huyện cù lao An Phú, Tân Châu, Phú Tân,
Chợ Mới; Các huyện còn lại nằm ở khu vực tứ giác Long Xuyên, ngoài ra An
Giang còn rất nhiều nhánh sông, kênh rạch,…
Nghề nuôi cá bè truyền thống của tỉnh An Giang tập trung chủ yếu trên
sông Hậu, ngoài ra các mô hình nuôi cá ao cũng tập trung chủ yếu hai bên tả
ngạn và hữu ngạn của sông Hậu. Do sông Hậu có tốc độ dòng chảy thấp, thấp
hơn so với sông Tiền, độ sâu của lòng sông thấp, địa hình đáy sông Hậu thoai
thoải, chiều rộng lòng sông lớn rất thích hợp cho nghề nuôi cá bè.
Mặt khác cộng đồng dân cư của tỉnh An Giang sống tập trung vùng lưu
vực sông Hậu nhiều hơn phía sông Tiền, cơ sở hạ tầng tốt hơn như : đường giao


thông bộ, bệnh viện, trường học, chợ, bưu chính viễn thông,…Đất dùng cho
nuôi trồng thủy sản vùng lưu vực sông Hậu tỉnh An Giang rất nhiều tiềm năng
(về diện tích), chủ yếu là đất canh tác nông nghiệp.
Với những lợi thế trên nghề nuôi trồng thủy sản mà nhiều nhất là nghề
chăn nuôi cá tra-basa phát triển rất mạnh và là một trong những ngành kinh tế
chủ lực của tỉnh.
2.1.2 Về tình hình kinh tế - xã hội
Năm 2007 tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh tăng 13,73%, cao nhất trong
vòng 17 năm qua kể từ năm 1990, tăng 4,68% so với năm 2006, đứng hàng thứ
5 trong các tỉnh ĐBSCL. Từ đó làm cho thu nhập của người dân trong tỉnh tăng
lên từ 9,6 triệu đồng/người (năm 2006) tăng lên 11,8 triệu đồng/người (năm
2007).
Về cơ cấu GDP theo từng lĩnh vực : Nông, Lâm, Thủy sản là 35,47%;
Công nghiệp – xây dựng là 12,14% và Dịch vụ là 52,39%. Kim ngạch xuất khẩu
trên địa bàn đạt 540 triệu USD, tăng 21,5% so với năm 2006 và vượt kế hoạch
20% (trong đó : gạo xuất khẩu đạt 502.000 tấn tương đương 148 triệu USD
bằng 91,6% về sản lượng và tăng 5,1% về kim ngạch so với năm 2006, Thủy
sản đông lạnh xuất khẩu đạt 125.000 tấn tương đương 335 triệu USD tăng
20,2% về lượng và 31,2% về kim ngạch so với năm 2006). Tỷ lệ hộ nghèo là
8,93% giảm 1,86% so với năm 2006. Cụ thể :
Khu vực I (Nông lâm Thủy sản) : có mức tăng trưởng vượt bậc, người
dân trúng mùa, các mặt hàng nông sản được giá, xuất khẩu ổn định, đời sống
được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng cả năm đạt 9,36% cao nhất trong những năm
gần đây. Ngành nông nghiệp có diện tích gieo trồng tăng 20.916 ha so năm
2006, sản lượng thu hoạch trên 3,1 triệu tấn, tăng 219 ngàn tấn so với năm
2006. Ngành thủy sản có mức tăng trưởng cao nhất khu vực, đạt 26,97% so năm
2006, do nhu cầu tiêu thụ tăng, giá cả nguyên liệu ổn định ở mức cao, lợi nhuận
nhiều làm cho diện tích nuôi trồng ngày càng mở rộng thêm, sản lượng thủy sản
đạt 264.000 tấn, tăng 44,8% so năm 2006.
Khu vực II (Công nghiệp – xây dựng) : sản xuất công nghiệp ổn định

và đạt ở mức tăng trưởng cao, tốc độ tăng trưởng năm 2007 tăng 15,55% so
năm 2006, trong đó công nghiệp chế biến tăng mạnh 17,81%; những ngành
nghề hoạt động có hiệu quả như : chế biến thủy sản, quần áo may sẵn, gạch xây
dựng, xay xát gạo, nước máy thương phẩm, thức ăn gia súc, thủy sản,…Xây
dựng tăng 10,5% so năm 2006.
Khu vực III (Dịch vụ) : Hoạt động kinh doanh tiếp tục phát triển; khu
vực Nông Lâm Thủy sản tăng về lượng, với các mặt hàng chủ lực là lúa, cá tạo
điều kiện cho khu vực công nghiệp phát triển sản xuất, giá lúa, cá ở mức cao
làm tăng sức mua và khả năng thanh toán của người dân nông thôn, tăng sức
mua của xã hội. Thương mại phát triển đã bảo vệ được lợi ích của người sản
xuất và kích thích sản xuất phát triển. Tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt
15,80%, tăng 1,2% so năm 2006.
2.2 GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM VÀ GIỚI
THIỆU VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH AN GIANG
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng Công
thương Việt Nam (tên viết tắt là Vietinbank)
2.2.1.1 Lịch sử hình thành
- Giai đoạn thứ nhất (từ tháng 07/1988 đến hết năm 1990) : trong giai
đoạn này Ngân hàng Công thương Trung ương chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý
như một liên hiệp xí nghiệp đặc biệt, các Chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán
kinh tế độc lập.
- Giai đoạn thứ hai (từ tháng 01/1991 đến tháng 09/1996) : sau khi Pháp
lệnh ngân hàng có hiệu lực thi hành (tháng 10/1990), theo Quyết định 402/CT
ngày 14/11/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính
phủ), Ngân hàng Công thương Việt Nam mới thực sự trở thành một ngân hàng
thương mại có chức năng kinh doanh tiền tệ. Mô hình tổ chức kinh doanh được
định rõ : Ngân hàng Công thương Việt Nam là một pháp nhân thuộc sở hữu
Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có các Chi nhánh là các đơn vị
thành viên hạch toán phụ thuộc.

- Giai đoạn thứ ba (từ tháng 09/1996 đến nay) : theo mô hình Tổng Công
ty Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam được quản lý bởi Hội đồng
Quản trị, điều hành bởi Tổng Giám đốc, có các Chi nhánh là các đơn vị thành
viên hạch toán phụ thuộc (Chi nhánh cấp I).
2.2.1.2 Quá trình phát triển
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong những Ngân hàng
Thương mại Nhà nước lớn của Việt Nam. Ngày nay, Ngân hàng Công thương
Việt Nam có hệ thống mạng lưới rộng khắp bao phủ các tỉnh, thành phố trong
cả nước. Ngoài ra, Ngân hàng Công thương Việt Nam còn có các đơn vị trực
thuộc như : Văn phòng đại diện Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm đào tạo,
Trung tâm Công nghệ Thông tin, Công ty cho thuê Tài chính, Công ty trách
nhiệm hữu hạn Chứng khoán, Công ty Quản lý và Khai thác tài sản; tham gia
cùng với các Tổ chức tín dụng nước ngoài lập hai đơn vị liên doanh đầu tiên
thuộc hệ thống tín dụng Việt Nam là Indovina Bank và Công ty cho thuê Tài
chính Quốc tế Việt Nam và góp vốn một số liên doanh như Sài Gòn Công
thương, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng Công thương Việt Nam đã và đang vươn xa ra thế giới thông qua mạng
lưới hơn 600 Ngân hàng đại lý trên khắp Châu Lục.
Khách hàng của Ngân hàng Công thương Việt Nam là các tổ chức kinh tế
kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao
thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch, dịch vụ,…và các
khách hàng cá nhân tại các khu tập trung đông dân cư. Với phương châm “Nâng
giá trị cuộc sống” Ngân hàng Công thương Việt Nam đã góp phần quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước và sự thành đạt của các doanh
nghiệp.
2.2.2 Giới thiệu về Ngân hàng Công thương Chi nhánh An Giang
2.2.2.1 Mạng lưới tổ chức
NHCT Chi nhánh An Giang chính thức được thành lập theo Quyết định
số 54/NH-TCCB ngày 14/07/1988 của Tổng Giám đốc NHNN Việt Nam (nay
là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).

NHCT Chi nhánh An Giang có trụ sở chính tại số 270 đường Lý Thái Tổ,
Phường Mỹ Long, Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Ngân hàng Công
thương Chi nhánh An Giang là một trong 130 Chi nhánh của Ngân hàng Công
thương Việt Nam, thực hiện hạch toán nội bộ, là một Ngân hàng Thương mại
Nhà nước.
Từ khi thành lập đến nay, NHCT Chi nhánh An Giang phát triển không
ngừng và đã tận dụng tốt những điểm mạnh để phát huy lợi thế của một
NHTMNN có uy tín trong hệ thống ngân hàng, với chức năng kinh doanh trong
lĩnh vực tài chính và tiền tệ, nên chi nhánh hoạt động khá hiệu quả, lợi nhuận
tăng trưởng qua các năm, ngoài ra NHCT Chi nhánh An Giang còn góp phần
không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội trong tỉnh An Giang. Chi nhánh luôn
đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn của khách hàng, tạo được vị thế cạnh tranh
trong hoạt động kinh doanh của mình. Với những thành tích đạt được Chi nhánh
đã góp phần phát triển kinh tế của địa phương trong đó có 03 chương trình kinh
tế lớn của tỉnh đề ra là : khuyến công, khuyến nông và khuyến ngư.
Khi mới thành lập (tháng 7/1988), NHCT Chi nhánh An Giang ngoài trụ
sở chính chỉ có một Chi nhánh trực thuộc (Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc)
nhưng vào tháng 06 năm 2007 Chi nhánh NHCT thị xã Châu Đốc đã tách ra
khỏi NHCT Chi nhánh An Giang để nâng lên Chi nhánh cấp 1 ngang bằng với
NHCT Chi nhánh An Giang. Hiện nay, NHCT Chi nhánh An Giang gồm có 1
Hội sở chính và 03 Phòng Giao dịch đặt tại: TP. Long Xuyên, huyện Thoại Sơn
và huyện Chợ Mới.

×