Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

THỰC TRẠNG VỀ CC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.27 KB, 17 trang )

THỰC TRẠNG VỀ CC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1 Thực trạng về cc dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian
qua:
Nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua đã có nhiều bước tăng trưởng đáng kể, tốc
độ tăng trưởng GDP tăng dần hàng năm như năm 2003 là 7,34%, năm 2004 là 7,79%,
năm 2005 là 8,44%, năm 2006 là 8,17%, năm 2007 là 8,48%. Điều này đã tạo
điều kiện thuận lợi giúp môi trường hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển. Hệ
thống ngân hàng đã có những cải thiện đáng kể về năng lực, thể chế, tài chính, hoạt
động, công nghệ, quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động. Nhu cầu
về số lượng và chất lượng dịch vụ ngân hàng Việt Nam ngày càng tăng. Một số dịch vụ
ngân hàng hiện đại đã được triển khai và xã hội chấp nhận ( ngân hàng điện tử: home
banking, mobile banking, phone banking, thẻ ATM…). Số lượng các tổ chức cung cấp
dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng cùng với quá trình tự do hoá kinh tế và mở cửa thị
trường tài chính trong nước.
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã huy động và cho vay một khối lượng
vốn lớn cho nền kinh tế, hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân phát triển, phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế- xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và giải quyết các vấn đề xã hội. Với vai trò nòng cốt trong hệ thống tài chính, hệ
thống ngân hàng là kênh huy động và phân bổ nguồn lực tài chính chủ chốt, góp phần
tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian qua.
Giai đoạn 2002 - 2006, dư nợ tín dụng tăng trưởng bình quân 25% / năm, đạt qui mô tại
thời điểm cuối năm 2006 và tăng trưởng tiền gửi bình quân 37% / năm, đạt qui mô tại
thời điểm cuối năm 2006. Doanh số thanh toán trong nước tăng nhanh nhờ phát triển
các hệ thống thanh toán điện tử ( thanh toán liên ngân hàng, bù trừ, chuyển tiền ), bình
quân gần 34% / năm. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã đi vào hoạt động từ
tháng 5 năm 2002, đạt khối lượng giao dịch thanh toán trung bình.
Mặc dù có những bước tiến quan trọng về qui mô và trình độ phát triển, song hệ
thống dịch vu ngân hàng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập như:
2.1.1 Hạn chế về số lượng và chất lượng dịch vụ:
Dịch vụ của hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện còn khá thô sơ,


chủng loại nghèo nàn, chủ yếu là những dịch vụ mang tính truyền thống như nhận tiền
gửi, cho vay và thanh toán.
2.1.1.1 Huy động vốn:
Tính đến cuối năm 2007, tăng trưởng huy động vốn của toàn hệ thống ngân hàng
đạt 47,64% so với năm 2006, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 36,53% của năm 2006.
Trong đó, huy động vốn bằng VND tăng 53,99%, cao hơn so với mức 41,15% của năm
2006; huy động bằng ngọai tệ đạt 29,66% cao hơn so với mức 25,31% của năm 2006.
Biểu đồ 2.1. Huy động vốn từ nền kinh tế
(1)
(1)
Nguồn số
liệu: Báo
cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước năm 2007
Nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay vẫn
chủ yếu dưới dạng tiền gởi tiết kiệm có kỳ hạn của khách hàng cá nhân ( bình quân
chiếm hơn 70% tổng nguồn vốn huy động ), chỉ trừ một số ít ngân hàng như Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam hiện là trung tâm thanh toán của các tổ chức tín dụng ( ngoài
Ngân hàng Nhà Nước, phần lớn các tổ chức tín dụng đều mở tài khoản tại Ngân hàng
Ngoại thương để tiện giao dịch ).Tiền gởi thanh toán chiếm tỷ trọng khá thấp trong tổng
nguồn huy động với đa số là tiền gởi định kỳ. Một trong những ngân hàng thương mại
lớn là TMCP Á Châu tỷ trọng tiền gửi thanh toán cũng khá thấp chưa đến 20%.
Bảng 2.1. Tiền gởi của khách hàng và các TCTD khác
tại Ngân hàng TMCP Á Châu
(2)
Chỉ tiêu Năm 2005
(triệu VNĐ)
Năm 2006
(triệu VNĐ)
Năm 2007
(triệu VNĐ)

1. Tiền gởi của các TCTD khác:
Tiền gởi không kỳ hạn (thanh toán)
Tiền ký quỹ
Tiền gởi có kỳ hạn
2. Tiền gởi của các khách hàng:
Tiền gởi không kỳ hạn (thanh toán)
Tiền gởi có kỳ hạn
Tiền gởi tiết kiệm
Tiền gởi vốn chuyên dùng
Tiền ký quỹ
3. Tỷ trọng tiền gởi không kỳ hạn
1.103.576
13.242
1.090.334
19.984.920
2.608.012
402.610
16.360.429
22.516
591.353
12%
2.733.133
17.895
2.715.238
33.606.013
4.283.482
1.869.963
26.648.920
166.142
637.506

11,8%
6.994.030
25.275
16.056
6.952.699
55.283.104
10.121.064
4.212.542
39.891.744
57.956
999.798
16%
(2)
Nguồn số liệu: Báo cáo thường niên của NHTMCP Á Châu năm 2005, 2006, 2007
Tiền gởi tiết kiệm vẫn chỉ chung chung cho mọi đối tượng sử dụng, chưa có sự
phân biệt dành cho từng loại đối tượng khách hàng khác nhau ( như sinh viên học
sinh ), dịch vụ huy động thiếu sự đa dạng về mục đích gởi tiền của khách hàng ( như
tiết kiệm an sinh, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm du học, tiết kiệm mua nhà…).
Bảng 2.2. Bảng so sánh các hình thức huy động tiền gởi dành cho khách hàng cá
nhân của Ngân hàng TMCP Á Châu và Ngân hàng HSCB
(3)
NHTMCP Á Châu HSBC (Canada)
1. Bằng VNĐ
- Tiền gởi thanh toán
- Tiền gởi không kỳ hạn
- Tiền gởi có kỳ hạn
2. Bằng USD
- Tiền gởi thanh toán
- Tiền gởi không kỳ hạn
- Tiền gởi có kỳ hạn

3. Sản phẩm thẻ
- Thẻ thanh ton và rút tiền
nội địa
- Thẻ tín dụnng nội địa
- Thẻ tín dụng quốc tế
4. Bằng vàng
- Tiền gởi có kỳ hạn
- Kiểm định – Giữ hộ
5. Tiền gởi tích góp dự thưởng
1. Tiền gởi tiết kiệm ( Saving Account)
- Tiết kiệm đầu tư (Investment Savings)
- Tiết kiệm thông thường (Regular Savings)
- Tiết kiệm ngoại tệ (Foreign Currency)
2.Tiền gởi thanh toán séc (Chequing Account)
- Tài khoản trọn gói trực tiếp (Direct Banking
Package)
- Tài khoản cơ bản (Basic banking)
- Tài khoản trọn gói thực hiện (Performance
Package)
- Tài khoản đảm bảo kích hoạt (Performance
Activity)
- Tài khoản trọn gói chi phí thấp (Peak
Performance Package)
- Tài khoản cộng thêm (Performance PLUS)
- Tài khoản 60 (Performance 60)
(3
)
Nguồn: dữ liệu được lấy từ Website của 2 ngân hàng trên
Ở các nước phát triển, mọi giao dịch của khách hàng đều liên quan đến một loại
tài khoản thông dụng nhất là tài khoản séc (hay còn gọi là tài khoản tiền gởi thanh toán,

tài khoản vãng lai). Bằng tài khỏan này, khách hàng được chi trả lương, sử dụng séc để
thanh toán cho người thụ hưởng, sử dụng tài khoản để rút tiền từ ATM, để chuyển tiền
thanh toán tiền điện, nước, điện thoại…
Phương thức giao dịch và cung cấp dịch vụ huy động của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam chủ yếu là tập trung và tiếp xúc trực tiếp, các hình thức giao dịch
từ xa, phân phối dịch vụ phân tán dựa trên cơ sở nền tảng công nghệ thông tin và điện
tử chưa phổ biến. Các dịch vụ ngân hàng điện tử như home banking, telephone banking
… mới bắt đầu được đưa vào sử dụng tại một số ngân hàng nên chất lượng tiện ích và
hiệu quả kinh tế chưa cao. Khách hàng vẫn chưa thể sử dụng các phương tiện này để
thay thế cho toàn bộ các giao dịch phát sinh như mong muốn. Dịch vụ Internet banking
chưa được thực hiện rộng rãi ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam nên khách hàng
phải mất nhiều thời gian cho việc đi lại chuyển giao chứng từ, nộp tiền, rút tiền …
Chính các tiện ích khi sử dụng dịch vụ tiền gởi thanh toán còn nhiều hạn chế nên lượng
tiền mặt vẫn chưa thể giảm được trong lưu thông và chưa thu hút được tất cả các khách
hàng sử dụng loại dịch vụ này. Bên dạnh đó các dịch vụ này còn đòi hỏi tính an toàn và
bảo mật khá cao nhưng tại các ngân hàng Việt Nam chưa hề có dòng khuyến cáo nào về
vấn đề này khi truy cập dịch vụ online banking.
Mức độ ứng dụng công nghệ trong phát triển sản phẩm và tính liên kết sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng còn thấp khiến cho tiện ích ngân hàng chưa cao. Hệ thống
máy ATM của các ngân hàng chưa kết nối giao dịch, thanh toán chung giữa các Ngân
hàng thương mại trong nước hoặc các máy ATM vẫn chỉ sử dụng
tập trung đối với loại thẻ nội địa mà chưa có gắn kết với các loại thẻ thanh toán
thông dụng khác trên Thế giới. Tính năng của các máy ATM vẫn chưa được phát huy
triệt để như dùng để nạp tiền, chuyển tiền, thanh toán tiền điện nước … mà chỉ được sử
dụng cho nhu cầu rút tiền mặt là chủ yếu.
2.1.1.2 Cho vay:
Nghiệp vụ tín dụng của các ngân hàng chủ yếu dưới hình thức cho vay như cho
vay sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay mua
sắm bất động sản, tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay du học…
Năm 2007, dư nợ cho vay của hệ thống Ngân hàng đối với nền kinh tế tăng

53,89% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức tăng 25,44% của năm 2006 và mức
tăng 31,1% của năm 2005.
Biểu đồ 2.2. Tín dụng đối với nền kinh tế
(4)
(ĐVT: ngàn tỷ đồng)
(4)
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước năm 2007.
Trong khi đó , các loại hình cấp tín dụng khác vẫn chưa được triển khai phổ biến
như: Cho thuê tài chính: chỉ một số ít các ngân hàng đã có Công ty cho thuê tài chính
như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, riêng Ngân hàng Công Thương thì liên kết thành lập
Công ty cho thuê tài chính.
Cấp tín dụng tâp trung chủ yếu dưới hình thức cho vay đã trở thành một trong
những lĩnh vực tạo ra nhiều rủi ro nhất cho các ngân hàng. Hầu hết tài sản có rủi ro chất
lượng thấp nằm ở khối lượng nợ xấu ( tỷ lệ nợ xấu so tổng dư nợ tín dụng đã giảm từ
mức 7,2% năm 2002 xuống còn 2,65% năm 2006 theo tiêu chuẩn phân loại nợ của Việt
Nam, nhưng tỷ lệ này sẽ cao hơn, đối với một số ngân hàng có thể lên tới hai con số
theo tiêu chuẩn phân loại nợ quốc tế ). Trong khi đó, khả năng trích lập dự phòng rủi ro
còn hạn chế một số ngân hàng chưa trích dự phòng rủi ro đầy đủ.
2.1.1.3 Những dịch vụ khác:
Các nghiệp vụ phái sinh tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trong hoạt động kinh doanh vốn,
ngoại hối ( hoán đổi, kỳ hạn, tương lai, quyền chọn ), dịch vụ đầu tư, bảo hiểm, dịch vụ
tư vấn … chưa được triển khai hoặc đang trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm ở các
Ngân hàng thương mại Việt Nam.

×