Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.32 KB, 61 trang )


1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam nằm ở vĩ độ từ 8
0
27’ Bắc đến 23
0
27’ Bắc, trên kinh độ từ
102
0
8’ Đông đến 109
o
27’ Đông. Với diện tích tự nhiên là 330.991km
2
, vùng
biển rộng lớn trên 1 triệu km
2
, với các đảo và quần đảo, vùng trời thuộc lãnh thổ
nước ta. Việt Nam phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào, Campuchia,
phía Đông giáp biển Đông, với đường biển dài 3260km, đường biên giới trên bộ
dài 450km.
Tính đến hết năm 2006, dân số của Việt Nam đạt 84.155.800 người. Dân
cư đô thị chiếm 27,2% dân số, dân cư nông thôn chiếm 72,8% dân số. Tỷ lệ giới
tính được duy trì ổn định: Nam khoảng 49,1%, nữ khoảng 50,9%. Dân số Việt
Nam là loại dân số trẻ, 27,3% từ 0 đến 14 tuổi, 20,5% từ 14 đến dưới 18 tuổi,
45,2% từ 18 đến dưới 65 tuổi, chỉ khoảng 7,0% dân số có độ tuổi từ 65 trở lên
[12].
Lịch sử của dân tộc Việt Nam cho thấy chính lực lượng trẻ là thiếu niên


đã có công lao to lớn góp phần làm nên những chiến công vẻ vang cho non sông
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên
vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu hay không đấy là nhờ một phần lớn
ở công học tập của các cháu”.
Ngày nay, bên cạnh những thiếu niên chăm ngoan học giỏi thì vẫn còn
một bộ phận thiếu niên hư hỏng, suy thoái về đạo đức, sống theo lối sống thực
dụng, vi phạm pháp luật và phạm tội. Họ đã thực hiện những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, tính mạng, tài sản của nhân
dân, gây mối lo lắng và nhức nhối đối với từng gia đình và đối với toàn xã hội.
Nguy hiểm hơn là tình trạng ấy đang có xu hướng gia tăng, trở thành hiện tượng
phổ biến trong đời sống xã hội, đe doạ sự tồn vong hưng thịnh của quốc gia, của
dân tộc vì không ai khác, họ chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là
thế hệ kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tình trạng ấy đang gây nên
mối quan ngại cho toàn xã hội.

2

Do vậy, để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của thế hệ trẻ, sự phát
triển bền vững của xã hội tương lai thì điều không thể khác là phải kịp thời có
các giải pháp ngăn chặn sự gia tăng, tiến tới đẩy lùi và loại bỏ những biểu hiện
lệch lạc, tiêu cực nêu trên ra khỏi đời sống cộng đồng.
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ với phương châm: “Vì lợi ích trăm năm phải
trồng người”. Thế hệ trẻ chính là thế hệ tương lai của đất nước, là chủ nhân của
xã hội mai sau. Vì vậy đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành
niên (NCTN) thực hiện là một bộ phận cấu thành của sự nghiệp chăm sóc, giáo
dục và bảo vệ thế hệ trẻ, là sự nghiệp của tất cả các cấp, các ngành các cơ quan
Nhà nước, các đoàn thể quần chúng và của mọi gia đình.
Vì thế hệ tương lai của đất nước nhằm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan

trọng và cần thiết”. Cụ thể hoá di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chủ trương và biện pháp thích hợp. Và riêng đối với thế hệ trẻ,
với NCTN là đối tượng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Vì lẽ đó
mà nhiệm vụ “Đấu tranh phòng chống tội phạm lứa tuổi chưa thành niên” được
xác định là một đề án của chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm mà Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt từ năm 1998 [20].
Nhưng trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, trước xu
hướng hội nhập và mở cửa, toàn cầu hoá, song song với những cơ hội, chúng ta
còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức tiềm ẩn nhiều những nguyên
nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm (THTP). Việc đấu tranh phòng
chống tội phạm do NCTN thực hiện hiện nay không chỉ là vấn đề của Quốc gia
mà đã trở thành vấn đề được hầu hết các Quốc gia trên thế giới dành sự quan
tâm đặc biệt.
Vì những lý do trên đây, việc nghiên cứu đề tài “Đấu tranh phòng chống
tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam” trong điều kiện
hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn nhằm đề ra các giải pháp nâng

3

cao hiệu quả cho hoạt động đấu tranh phòng chống THTP do NCTN thực hiện ở
Việt Nam.


2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu đề tài: chỉ tập trung vào nghiên cứu THTP do NCTN
thực hiện ở Việt Nam từ năm 2000 – 2007, những nguyên nhân và điều kiện của
THTP do NCTN thực hiện dưới góc độ tội phạm và những biện pháp đấu tranh
phòng chống tội phạm của NCTN đang được thực hiện, trên cơ sở đó đề xuất để
tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các biện pháp phòng ngừa trên phạm vi cả nước.
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Cơ sở phương pháp luận: Nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp
luận biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
thanh niên; về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng
chống THTP do NCTN thực hiện nói riêng. Ngoài ra, trong quá trình nghiên
cứu, tác giả sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu cụ thể là:phương
pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp mô tả,
giải thích, toán học...
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Đề ra những giải pháp đấu tranh phòng, chống
THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam từ năm 2000- 2007, góp phần thực hiện
nhiệm vụ đấu tranh phòng chống THTP trên toàn quốc.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu THTP do NCTN thực hiện. Nhân thân của người phạm tội
CTN;
Nguyên nhân, điều kiện của THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam từ
năm 2000 – 2007;
Dự báo THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam ;

4

Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh phòng,
chống THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam .
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của khoá luận gồm: Lời nói đầu, Nội dung, Kết luận và Danh
mục tài liệu tham khảo.
Nội dung của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt
Nam từ năm 2000 – 2007.
Chương II: Nguyên nhân của tình hình tội phạm do người chưa thành

niên thực hiện ở Việt Nam từ năm 2000 – 2007.
Chương III: Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm do
người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam.

5

CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN
Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 - 2007

1. Thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện
Một người vi phạm pháp luật hình sự thì không có nghĩa là người đó khi
được sinh ra vốn là một tên tội phạm. Bởi vì như chúng ta đã biết nhân cách con
người được hình thành chịu sự ảnh hưởng rất lớn của giáo dục và hoàn cảnh môi
trường xung quanh, rồi cũng chính những yếu tố đó quyết định hành vi xử sự
của mỗi con người.
Có những đứa trẻ đang là con ngoan trò giỏi, bỗng một ngày lại vi phạm
pháp luật hình sự, gây những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ngược lại cũng có
những đứa trẻ sau khi phạm tội được giáo dục, cảm hoá, nhận ra lỗi lầm của
mình lại trở thành những công dân tốt của xã hội.
Theo Pháp luật quốc tế, cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới,
căn cứ để phân biệt NCTN là ở độ tuổi của họ. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì độ
tuổi của NCTN lại được qui định khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào truyền thống
văn hoá, điều kiện kinh tế – xã hội, lịch sử lập pháp, tập quán và các yếu tố tâm
sinh lý của con người trong mỗi quốc gia đó.
Pháp luật Việt Nam qui định NCTN là người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ
18 tuổi [8], [9], [13], [15], [17]. Cụ thể, theo Điều 12, Bộ luật hình sự (BLHS)
Việt Nam năm 1999 qui định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự (TNHS) về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng

chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng” [17]. Hay nói một cách khác đi thì: NCTNPT là
người có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được Luật hình sự qui định là tội phạm [7, tr.176], [10, tr.340], [17].

6


ỏnh giỏ thc trng v din bin ca THTP do NCTN thc hin Vit
Nam l xem xột tng s cỏc ti phm c th, s lng NCTN thc hin cỏc ti
phm ú v s thay i ca THTP trong khong thi gian t nm 2000 2007.
Theo thng kờ hỡnh s ca To ỏn nhõn dõn ti cao (TANDTC), t nm
2000 n Thỏng 12.2007 TANDTC ó a ra xột x s thm v kt ti 596.969
b cỏo, trong ú cú 34.831 b cỏo l NCTN, trung bỡnh chim trờn 5,8%/nm.
iu ú cú ngha l c 100 b cỏo b a ra xột x thỡ cú ti hn 5 b cỏo l
NCTN. Nu tớnh s tuyt i thỡ trung bỡnh mi nm cú trờn 4354 b cỏo l
NCTN trờn phm vi c nc. Xem bng s 1.1 di õy:
Bng 1.1. Tng s b cỏo v s b cỏo l NCTNPT b xột x
Vit Nam t nm 2000 2007
STT Nm Tng s b cỏo S b cỏo l NCTN
T l % (so vi
tng s b cỏo)
1 2000 61.309 3605 5,88%
2 2001 61.636 3427 5,56%
3 2002 60.389 3104 5,14%
4 2003 68.390 3994 5,84%
5 2004 75.370 2540 3,37%
6 2005 79.297 5305 6,69%
7 2006 93.641 6274 6,70%
8 2007 96.937 6582 6,79%

Tng s 596.969 34.831 5,83%
(Nguồn: Toà án nhân dân tối cao)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, từ năm 2000 2007, số NCTNPT có
chiều hớng gia tăng khá đều đặn. THTP do NCTN thực hiện có diễn biến phức
tạp, trong cơ cấu THTP thì NCTNPT nói chung vẫn chiếm tỉ trọng tơng đối ổn
định, gần 6%.
Qua nghiên cứu số liệu thống kê của TANDTC còn cho thấy, các loại tội
do NCTN thực hiện tập trung chủ yếu ở 04 nhóm tội, tơng ứng với các chơng

7

trong BLHS 1999. Trong từng nhóm tội ấy, NCTN chỉ phạm vào một hoặc một
số tội danh cụ thể đợc qui định tại các Điều (Đ) của BLHS 1999.
- Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con
ngời (Chơng XII), các bị cáo là NCTN chỉ phạm vào 04 tội: Tội cố ý gây
thơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ngời khác (Đ104); Tội giết
ngời (Đ93), Tội hiếp dâm (Đ111); Tội hiếm dâm trẻ em (Đ112).
- Nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chơng XIV), các bị cáo là NCTN chỉ
phạm vào 07 tội: Tội cớp tài sản (Đ133); Tội cỡng đoạt tài sản (Đ135); Tội
cớp giật tài sản (Điều 136); Tội trộm cắp tài sản (Điều 138); Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (Đ139); Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Đ140); Tội huỷ
hoại hoặc cố ý làm h hỏng tài sản (Đ143).
- Nhóm các tội về ma tuý (Chơng XVIII), các bị cáo là NCTN chỉ phạm
vào 01 tội: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
tuý (Đ194).
- Nhóm các tội phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chơng XIX),
các bị cáo là NCTN chỉ phạm vào 04 tội: Tội vi phạm qui định về điều khiển
phơng tiện giao thông đờng bộ (Đ202); Tội phá hủy công trình, phơng tiện
quan trọng về an ninh Quốc gia (Đ231); Tội gây rối trật tự công cộng (Đ245);
Tội đánh bạc (Đ248); Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Đ249).

Thực trạng của THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam từ năm 2000
2007 cho ta thấy: + Số NCTNPT so với tổng số tội phạm xảy ra có xu hớng gia
tăng và chiếm tỷ lệ khá cao;+ Các bị cáo là NCTN chỉ thực hiện hành vi phạm
tội chủ yếu ở 04 nhóm tội phạm tơng ứng với các chơng trong phần các tội
phạm cụ thể của BLHS Việt Nam 1999; +Trong mỗi nhóm các tội phạm, bị cáo
là NCTN chỉ phạm vào một hoặc một số tội cụ thể đợc qui định tại các điều của
BLHS Việt Nam 1999.
Song song với quá trình vận động và phát triển thì cái cũ mất đi, cái mới ra
đời nhng cha hoàn thiện lại chịu sự tác động của nền kinh tế thị trờng đã tạo
ra những môi trờng thuận lợi làm nảy sinh và phát triển những hiện tợng tiêu
cực trong xã hội, đặc biệt là các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm với tính
chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng.

8

Qua nghiên cứu về diễn biến của THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam từ
năm 2000 2007 cho thấy: THTP do NCTN thực hiện giai đoạn hiện nay có
chiều hớng gia tăng. Điều này là do ảnh hởng khá rõ nét của cơ chế tác động
vào NCTN trong giai đoạn đầu của hội nhập, mở cửa, toàn cầu hoá.
Xem bảng 1.2 và biểu đồ 1.1:
Bảng 1.2. Diễn biến của THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn cả nớc
từ năm 2000 2007
STT Năm Số bị cáo là NCTN
Tỉ lệ % so với năm
2000
Tỷ lệ gia tăng so
với năm 2000
1 2000 3605 100%
2 2001 3427 95% 5%
3 2002 3104 86,1% 13,9%

4 2003 3994 110,7% 10,7%
5 2004 2540 70,4% 29,6%
6 2005 5309 147,1% 47,1%
7 2006 6274 174% 74%
8 2007 6582 182,5% 82,5%
(Nguồn: Toà án nhân dân tối cao)

Biểu đồ 1.1. Diễn biến THTP do NCTN thực hiện ở Việt Nam
từ năm 2000 2007

0%
50%
100%
150%
200%

Tỡnh hỡnh ti phm tng cng phn no t chỳng ta trc vn l cn
lm rừ thc trng ny, i ụi vi cụng tỏc u tranh phũng chng ti phm do
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
100%
95%
86,1%
110,7%
70,4%
147,1%
174%
182,5%

9


NCTN thực hiện, tìm ra những giải pháp kịp thời nhằm ngăn chặn sự gia tăng
đã tiến tới đẩy lùi, loại bỏ THTP do NCTN thực hiện ra khỏi đời sống xã hội.
2. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện
Qua việc nghiên cứu và phân tích 34.831 NCTNPT bị truy tố ở Việt Nam
từ năm 2000 – 2007 cho thấy họ phạm hầu hết các tội danh đã được qui định
trong BLHS 1999. Tuy nhiên, cơ cấu tội phạm do NCTN được thực hiện có
những nét đặc thù về lứa tuổi, vị trí, vai trò xã hội của NCTN, và do cấu thành
tội phạm của một số tội đòi hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu đặc biệt. Nên về
mặt thực tế thì NCTN thực hiện chủ yếu là các tội phạm xâm phạm sở hữu và
các tội phạm có sử dụng bạo lực. Riêng các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
được qui định tại Chương XI BLHS Việt Nam 1999 đòi hỏi người phạm tội phải
có ý thức chính trị rõ ràng. Có trường hợp người thực hiện tội phạm đặc biệt
nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi, chưa có ý thức chính trị rõ ràng nên không bị xử lý về hình sự. Có trường
hợp người thực hiện tội phạm khác xâm phạm an ninh Quốc gia đủ 16 tuổi
nhưng chưa đủ 18 tuổi không bị xử lý về hình sự.
Để minh chứng cho nhận xét trên, ta xem bảng 1.3 sau:
Bảng 1.3. Cơ cấu của THTP do NCTN thực hiện
theo nhóm tội danh
STT Nhóm tội
Số bị cáo là
NCTN
Tỉ lệ % so với
tổng số bị cáo
CTNPT
1 Xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, con người
7196 20,66
2 Xâm phạm sở hữu 22243 63,86

3 Về ma túy 2947 8,46
4 Về an toàn công cộng, trật tự
công cộng
1867 5,36
5 Các tội phạm khác 578 1,36
Tổng số 34831 100%
(Nguồn: Toà án nhân dân tối cao)


10




Biểu đồ 1.2. Cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện theo nhóm tội danh
X©m ph¹m tÝnh m¹ng søc khoÎ con
ng−êi
X©m ph¹m së h÷u
VÒ ma tuý
VÒ an toµn c«ng céng, trËt tù c«ng
céng
C¸c téi ph¹m kh¸c

Trong cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện phổ biến và điển hình nhất là
nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV) với 22.243 bị cáo, chiếm tới
63,86% tổng số bị cáo là NCTNPT; Nhóm các tội phạm xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người (Chương XII) với 7196 bị cáo,
chiếm 20,66% tổng số bị cáo là NCTNPT; Nhóm các tội về ma tuý (Chương
XVIII) với 2947, chiếm 8,46% tổng số bị cáo là NCTNPT; Nhóm các tội xâm
phạm về ATCC, TTCC (Chương XIX) với 1867 bị cáo chiếm 5,36%; Nhóm

“Các tội khác” trong bảng thống kê có 578 bị cáo nhưng được phân tán ở các
nhóm tội khác nhau, chiếm 1,66% tổng số bị cáo là NCTNPT.
Một nét đặc thù có thể thấy ở tội phạm do NCTN thực hiện, đó là trong
mỗi nhóm các tội phạm nêu trên, NCTN chỉ phạm vào một hoặc một số tội nhất
định được qui định trong BLHS Việt Nam năm 1999. Xem bảng 1.4 và biểu đồ
1.3 minh hoạ sau đây:







11





Bng 1.4. C cu ca THTP do NCTN thc hin
theo ti danh c th qui nh cỏc iu ca BLHS 1999
STT Ti danh S b cỏo l
NCTN
T l %
1 Ti trm cp ti sn 9140 26,24
2 Ti cp ti sn 8718 25,03
3 Ti c ý gõy thng tớch 3793 10,89
4 Ti cp git ti sn 2174 6,24
5 Ti git ngi 1668 4,79
6 Ti tng tr, vn chuyn... ma tuý 1623 4,66

7 Ti hip dõm v hip dõm tr em 1484 4,26
8 Ti vi phm ATGT ng b 902 2,59
9 Cỏc ti phm khỏc 5329 15,3
Tng s b cỏo l NCTNPT 34,831 100%
(Ngun: To ỏn nhõn dõn ti cao)
Biu 1.3. C cu ti phm do NCTN thc hin
(theo ti phm c th) t nm 2000 2007
Tội trộm cắp tài sản
Tội cớp tài sản
Tội cố ý gây thơng tích
Tội cớp giật tài sản
Tội giết ngời
Tội tàng trữ, vận chuyển ma
túy
Tội hiếp dâm
Tội vi phạm ATGT đờng bộ
Các tội phạm khác


12


Các tội phạm cụ thể từ năm 2000 – 2007 do NCTN thực hiện ở Việt Nam
chủ yếu gồm 16 loại tội tương ứng với 16 tội danh được qui định trong BLHS
1999. Sau đây chúng ta cùng đi vào các tội danh cụ thể đó:
* Tội trộm cắp tài sản (Đ138): qua nghiên cứu 34831 NCTN bị truy tố từ
năm 2000 – 2007 cho thấy: Tội trộm cắp tài sản là tội được NCTN thực hiện
nhiều nhất với 9140 bị cáo, chiếm tới 26,24%. Những thiệt hại gây ra thường là
không đáng kể, những tài sản bị chiếm đoạt cũng chủ yếu là những đồ dùng
trong sinh hoạt gia đình hoặc cá nhân bởi những tài sản đó vừa dễ lấy trộm lại

vừa dễ dàng mang đi tiêu thụ.
* Tội cướp tài sản (Đ133): Tội cướp tài sản là loại tội chỉ đứng thứ 2 sau
tội trộm cắp tài sản do NCTN thực hiện, với 8718 bị cáo chiếm 25,03%. NCTN
thực hiện hành vi cướp cũng chỉ nhằm chiếm đoạt những tài sản có giá trị trung
bình với mục đích để tiêu xài, chơi game, chat... Nhưng cá biệt có những nhóm
cướp nhí rất liều lĩnh, gây các vụ cướp táo tợn khiến dư luận nhân dân hết sức
hoang mang như vụ cướp sau:
Khoảng 16h30’ ngày 5.3.2008, một phụ nữ tìm đến trụ sở công an thành
phố Lạng Sơn trình báo về việc nhà chị vừa bị một toán cướp xông vào cướp hết
tài sản. Đó là chị Đào Thị Ngọc Lan, trú tại xã Hùng Sơn, Huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên vừa lên thành phố Lạng Sơn thuê trọ tại nhà số 7 đường Lê Đại
Hành, phường Vĩnh Trại để bán nước kiếm tiền sinh sống. Vào khoảng 15h
cùng ngày, khi chị đang ở nhà trọ thì bất ngờ có 3 thanh niên mặt bịt kín chỉ hở
hai con mắt xông vào dùng dao và bình xịt hơi cay khống chế chị, cướp đi một
nhẫn vàng 1,5 chỉ, 1 dây chuyền vàng, 1 đầu đĩa và 2 điện thoại di động. Bọn
cướp đã ra tay hết sức táo tợn và nhanh chóng khiến chị quá sợ hãi và không kịp
có bất kỳ phản ứng nào. Đến khi chị Lan tri hô hàng xóm thì bọn cướp đã cao
chạy xa bay. Ngày 10.3.2008, công an thành phố Lạng Sơn đã bắt giữ được cả
ba đối tượng có liên quan đến vụ án. Đó là Vũ Việt Anh (tức Việt Cạp) sinh năm
1994, trú tại 295B đường Lê Lợi và Vũ Việt Anh (tức Việt Chíp) sinh năm
1992, trú tại 25 đường Chu Văn An, phường Vĩnh Trại Lạng Sơn, và Trần Mạnh

13

Tuấn (sinh năm 1985), trú tại đội 12, xã Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên. Hôm
đó, Tuấn cùng hai người bạn là Mạnh và Bờm (đều là người Thái Nguyên) đến
Lạng Sơn chơi và tụ tập với “Việt Cạp” và “Việt Chíp”. Trong khi ngồi uống
rượu, năm tên bàn bạc với nhau đi cướp tài sản lấy tiền ăn chơi, mua sắm. Nạn
nhân mà chúng nhằm vào là gia đình chị Đào Ngọc Lan, dì ruột của Tuấn. Lý do
chúng nhằm vào gia đình này vì Tuấn biết rõ qui luật sinh hoạt cũng như chỗ cất

giấu tài sản của gia đình chị Lan nên dễ dàng ra tay [21].
* Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
(Đ104) là tội chiếm tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện. Từ
năm 2000 – 2007, theo số liệu thống kê của TANDTC thì đã truy tố 3793
NCTNPT cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác,
chiếm 10,89%. NCTNPT cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của người khác chủ yếu là do va chạm với nhau trong lúc làm việc, trong lúc vui
chơi, hoặc do máu “yêng hùng”, muốn trở thành tâm điểm chú ý của bạn bè,
hoặc do động cơ trả thù cho người thân, hoặc cũng có thể do muốn trở thành
những tay hảo hán trong phim xã hội đen. Vũ khí để gây án thường đa dạng, dễ
sử dụng và thường là những vật thô sơ như gạch, dao, đá, vỏ chai, thậm chí là
những tuýp nước. Nạn nhân của loại tội phạm này thường là những người có thể
yếu hơn người phạm tội như trẻ em, kém tuổi, phụ nữ. Song điều nguy hiểm là ở
loại hành vi phạm tội này cho thấy sự coi thường tính mạng, sức khoẻ của người
khác, mang tính côn đồ, có trường hợp dẫn đến chết người hoặc gây cố tật suốt
đời cho nạn nhân. Đặc biệt trong thời gian gần đây, NCTN đã tham gia hoặc
thực hiện những hành vi cố ý gây thương tích nhưng ở mức độ rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng như: có tổ chức, sử dụng hung khí kiếm, côn, súng,
tính chất phạm tội côn đồ, hung hãn, hậu quả để lại là rất nghiêm trọng, để lại
thương tích, cố tật nặng cho nạn nhân, gây mất an toàn cho xã hội.
* Tội giết người (Đ93): Trong cơ cấu các tội do NCTN thực hiện thuộc
nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người khác
phải kể đến tội giết người do NCTN thực hiện. Tội giết người là tội đặc biệt
nghiêm trọng. Tội phạm do NCTN thực hiện những năm gần đây đã có diễn

14

biến khá phức tạp và việc NCTN tham gia thực hiện tội giết người từ năm 2000
– 2007 chiếm tới 4,79% với 1663 bị cáo trong tổng số 34.831 bị cáo là NCTNPT
đã bị truy tố.

Khách thể của tội phạm này là đặc biệt quan trọng, đó là quyền sống –
một trong những quyền tối cao của mỗi con người. Mặt khác, tuy chỉ mới ở độ
tuổi CTN mà các bị cáo đã phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng này, phần nào
cho thấy sự mất nhân cách của một bộ phận thế hệ trẻ, sự coi thường tính mạng
của những người khác là hồi chuông cảnh tỉnh đối với mỗi chúng ta. Như ví dụ
sau:
Nguyễn Văn Đông (sinh ngày 17.5.1988), Phạm Đức Nam (sinh ngày
26.01.1990) là bạn cùng học tại trường PTTH Hà Đông - Thanh Hà - Hải
Dương. Ngày 29.10.2006, Nam và Đông rủ nhau đi Bình Dương thăm người
quen nhưng không có tiền, Nam bàn với Đông đi cướp xe ôm bán lấy tiền. Đông
đồng ý và bàn với Nam phải giết lái xe ôm mới không bị phát hiện.
Ngày 03.11.2006, Đông và Nam đến gặp Phạm Văn Hoàng là bạn Nam
và học ở trường PTTH Thanh Hà, Hoàng đang trọ ở thị trấn thanh Hà xin ở nhờ.
Chiều 5.11.2006, Đông và Nam bàn nhau lên thành phố Hải Dương để cướp xe
máy, Nam hỏi mượn Hoàng 01 con dao phay cũ bằng sắt (dài 26cm, rộng
3,5cm) nhưng nói dối là để phòng thân. Nam cho dao vào cặp sách, sau đó Nam
và Đông thuê xe ôm lên thành phố Hải Dương rồi đi bộ đến đường Nguyễn Hữu
Cầu. Thấy con dao Nam mượn đã cùn, Đông bảo Nam phải mua dao mới, cả 2
vào cửa hàng chị Nguyễn Thị Mùa ở số 4A, Nguyễn Hữu Cần – TP Hải Dương
mua 01 con dao bằng thép (lưỡi dao dài 20cm, rộng 06 cm, chuôi gỗ dài 09cm,
đường kính chuôi 02cm) với giá 5.000đ. Cả hai đi chơi điện tử đến khoảng 18h
thì đi bộ từ đường Trần Hưng Đạo đến chân cầu vượt quốc lộ 5A, chúng thuê xe
ôm của anh Nguyễn Văn Tiến về Tứ Kỳ với giá 45.000đ. Trên đường đi, Đông
hướng dẫn anh Tiến đi theo con đường về thôn Thanh Kỳ – xã An Thanh –
huyện Tứ Kỳ, khu vực này là nghĩa trang và cánh đồng nên vắng người. Khi đến
cách nghĩa trang nhân dân thôn Thanh Kỳ khoảng 300m, do đã phân công nhau
từ trước nên Đông lấy trong cặp của Nam con dao mới mua và dùng tay bấm

15


vào người Nam ra hiệu hành động. Đông bảo anh Tiến dừng xe để Đông nhớ
đường, khi anh Tiến vừa chống 2 chân xuống đất thì Đông dùng tay phải cầm
dao vòng qua người Nam, kề phần lưỡi dao vào vùng cổ phía bên phải của anh
Tiến cứa mạnh từ trái sang phải. Theo phản xạ, anh Tiến vùng mạnh tay gạt dao
làm lưỡi dao bị bật khỏi chuôi vung xuống rìa đường bên phải, nhảy khỏi xe và
chạy về phía trước hô “cướp”. Do chạy xuống ruộng đã cày ải nên anh bị vấp
ngã và làm rơi sợi dây chuyền bạc. Được khoảng 70m thì Nam và Đông đuổi
kịp, Đông xông vào anh Tiến đấm đá, Nam dùng chân nhảy song phi vào người
anh Tiến làm anh ngã xuống ruộng, sau đó cả 2 cùng đấm đá anh Tiến. Anh
Tiến van xin chúng đừng giết anh và sẽ giao giấy tờ xe cho, nhưng chúng không
nghe. Đông dùng tay còng ghì cổ anh Tiến từ phía sau và giục Nam lấy dao
chém anh Tiến, Nam chém nhiều nhát vào người anh Tiến, có nhát chém cả vào
tay người Đông. Anh Tiến gạt tay làm con dao rơi xuống và vùng thoát khỏi tay
Đông chạy lên đường. Đông và Nam đuổi theo túm được anh Tiến và kéo xuống
ruộng. Đông bảo Nam đưa dao để Đông chém và chém nhiều nhát vào người
anh Tiến, sau đó Đông ngồi đè lên bụng anh rồi dùng dao cắt ngay cổ, anh Tiến
kêu “chết tôi rồi” và nằm im giả chết. Nam dùng chân đạp vào đầu anh vài nhát
rồi cùng Đông lật úp anh Tiến lên, móc một ví da màu đen trong túi quần anh.
Nghĩ anh Tiến đã chết, Đông vứt dao vào phần tường khu nghĩa trang, sau đó
Đông điều khiển xe máy và cả 2 tên đi theo đường bờ đê hướng Cao Quí – Tứ
Kỳ. Nam mở ví của anh Tiến thấy có 140.000đ cùng toàn bộ giấy tờ xe và giấy
tờ tuỳ thân của anh Tiến. Trên đường đi, chúng đỗ lại một mương nước để rửa
tay và thay quần áo, bỏ lại quần áo mặc khi gây án và chiếc cặp sách, sau đó
vào trạm y tế lau rửa vết thương của Đông rồi đi Hải Phòng để bán xe. Vì chúng
không phải là chủ sở hữu nên không bán được. Đến 7h45’ ngày 06.11.2006, 2
tên đến hiệu cầm đồ của anh Trần Trọng Duy ở Lễ Độ – Kim Anh – Kim Thành
– Hải Dương nhằm cầm đồ lấy tiền thì bị công an Kim Thành phát hiện.
TANDTP Hải Dương đã tuyên: Nguyễn Văn Đông và Phạm Đức Nam
phạm tội giết người và cướp tài sản [23].


16

* Tội hiếp dâm (Đ111) và Tội hiếp dâm trẻ em (Đ112): Chỉ tính riêng
trong năm 2005 đối với tội hiếp dâm đã xét xử 58 bị cáo là NCTN trong cả nước
chiếm 11,30% tổng số bị cáo đã xét xử về tội hiếp dâm trong cả nước. Và cũng
trong năm này toà án đã xét xử 92 bị cáo phạm tội hiếp dâm trẻ em chiếm tới
14,53% tổng số bị cáo đã xét xử về tội này trong cả nước. Vào những năm trước
đây thì loại tội hiếp dâm do NCTN thực hiện có đặc điểm nổi rõ nét là lợi dụng
sự thiếu hiểu biết, lợi dụng hoàn cảnh vắng vẻ ít người qua lại để thực hiện tội
phạm. Nhưng thời gian gần đây, tội hiếp dâm trẻ em có nét nổi bật đó là tội hiếp
dâm do NCTN thực hiện thường là hiếp dâm tập thể, công khai trắng trợn và rất
táo tợn, nạn nhân là các em gái còn rất nhỏ tuổi và phần lớn các vụ hiếp dâm trẻ
em được thực hiện vào ban ngày khi người nhà các em đi làm vắng. Đây là hồi
chuông cảnh giác đối với lớp trẻ nhưng đã có những suy thoái về đạo đức, sự
nhận thức sai lầm do những luồng văn hoá không lành mạnh từ bên ngoài du
nhập vào các em.
*Có thể nhận thấy ngay rằng so với hành vi phạm tội của người đã thành
niên thì hành vi phạm tội của NCTN thường là đơn giản hơn và mức độ nguy
hiểm cho xã hội thấp hơn nhiều. Hậu quả của hành vi phạm tội do NCTN gây ra
cũng không lớn lắm.
Những năm 80 thấy rất ít các trường hợp NCTN có sử dụng bạo lực để
phạm tội. Song đến những năm gần đây thì tính chất phạm tội của NCTN ngày
càng trở nên táo bạo. THTP của NCTN đang diễn ra hết sức phức tạp.
Song song với tính chất táo bạo của hành vi (có sử dụng bạo lực), hành vi
phạm tội của NCTN còn thể hiện cả ở ý thức để phạm tội có sự chuẩn bị trước.
Điều này được minh chứng ra việc khảo sát thấy các em có dùng phương tiện
như: lê, côn, gậy, dao, súng, kìm cộng lực, búa... để gây án. NCTN cũng đã biết
biến những hoàn cảnh bất lợi thành thuận lợi cho hành vi phạm tội của mình, đã
biết sử dụng những kinh nghiệm phạm tội của mình do có được trong những lần
phạm tội trước đó, và đặc biệt là do phạm tội cùng với người đã thành niên.

Điều này được thể hiện ở một số vụ NCTNPT thực hiện như lừa đảo, lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

17

Về tính chất phạm tội có dấu hiệu phạm tội theo nhóm (2 người trở lên) ở
NCTNPT. NCTN thường tụ tập theo nhóm để phạm tội và thường xảy ra nhiều
ở các tội như: Trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản...
Còn tội phạm ít tụ tập theo nhóm để thực hiện đó là tội giết người. Vì
NCTNPT giết người thường do bột phát, không có dự mưu từ trước, do không
kìm chế được tính “hăng máu” của tuổi trẻ.
Địa bàn phạm tội của NCTN xảy ra phổ biến ở các đô thị, thị xã, thị trấn,
nhất là các thành phố lớn. Theo số liệu của VKSNDTC thống kê về tội phạm do
NCTN thực hiện từ năm 2000 – 2007 thì địa bàn phạm tội của NCTN đứng đầu
cả nước là thành phố Hồ Chí Minh với 3.370 người, chiếm 11,83% tổng số
NCTNPT; Hà Nội với 2.433 người, chiếm 8,34% tổng số người NCTNPT; Nghệ
An là 935 người, chiếm 3,28% tổng số NCTNPT; Hải Phòng với 933 người,
chiếm 3,27% tổng số NCTNPT; các tỉnh, thành phố khác trong cả nước có số
NCTNPT cao là Vũng Tàu: 654 người (2,30% tổng số NCTNPT), Tây Ninh:
671 người (2,36% số NCTNPT), Đà Nẵng: 534 người (1,88% tổng số
NCTNPT), Nam Định: 528 người (1,85% tổng số NCTNPT), Cần Thơ là: 451
người (1,58% tổng số NCTNPT), Phú Thọ với 323 người chiếm 1,13% tổng số
NCTNPT [11].
Ở mỗi địa bàn khác nhau, tội phạm do NCTN thực hiện cũng có những
đặc trưng khác nhau, nếu như ở các vùng nông thôn và miền núi, tội phạm do
NCTN thực hiện chủ yếu và phổ biến là trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích
và một số ít tội ít nghiêm trọng khác thì các đô thị, ngoài những tội trên, các tội
rất đặc trưng cho vị thành niên còn là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản,
cướp giật tài sản, gây rối trật tự công cộng và chống người thi hành công vụ.
Và một điều đáng chú ý nữa mà chúng ta dễ nhận thấy đó là:phạm tội của

các em trong thời gian gần đây thường tập trung ở những chỗ đông người như
các hội hè, chợ, bến tàu, bến xe, nhà ga, công viên, rạp hát... để có thể nhanh
chóng và dễ dàng thực hiện hành vi trộm, cướp rồi tẩu thoát mau lẹ. Nhưng
không chỉ thực hiện tội phạm ở các địa điểm quen thuộc như trên mà các em còn

18

phạm tội ngay trên đường phố vắng vẻ, trên các phương tiện giao thông, trong
khu tập thể, trụ sở cơ quan, các nhà kho, trường học.
Về động cơ và mục đích phạm tội của các em được xác định khá rõ ràng
là: trong nhóm tội xâm phạm sở hữu thì động cơ và mục đích phạm tội là để lấy
tiền ăn tiêu, đánh bạc, chơi lô đề, chơi điện tử, nghiện hút. Còn động cơ ở nhóm
tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm do NCTN thực hiện thì
đa số là do có thù hằn cá nhân, muốn thể hiện cái tôi và khẳng định tính “yêng
hùng”, do bắt chước phim chưởng, phim khiêu dâm.
Đối tượng xâm hại của các hành vi phạm tội do NCTN thực hiện tập trung
chủ yếu vào những đồ vật gọn nhẹ, có giá trị lớn như xe đạp, xe máy, đồng hồ,
nhẫn vàng, tiền mặt. Qua đó thấy nhu cầu sinh hoạt của NCTN là rất cao. Đôi
khi họ phạm tội không chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu bình thường của bản
thân mà còn muốn đáp ứng những đòi hỏi quá đáng về ăn mặc, vui chơi, giải
trí…trong khi gia đình không có điều kiện để chu cấp.
Nạn nhân của những hành vi phạm tội do NCTN thực hiện tập trung chủ
yếu vào những người không quen biết, những người cùng xóm, cùng phố, bạn
học cùng và cuối cùng là đến những người thuộc họ hàng thân thích. Nạn nhân
là nam giới, nữ giới, tập thể hoặc nhà nước.
Thiệt hại do các hành vi phạm tội do NCTN thực hiện gây ra tuy không
lớn so với tội phạm do người đã thành niên gây ra, song những ảnh hưởng của
nó về mặt xã hội thì không thể nào lường được. Các công trình nghiên cứu về tội
phạm học cho thấy: những kẻ phạm tội nguy hiểm là người lớn đều phần lớn có
nguồn gốc phạm tội từ lứa tuổi CTN [3]. Hơn nữa, những hành vi phạm tội của

lớp trẻ kéo theo sự thoái hoá về đạo đức, gây nên nỗi lo lắng của các bậc cha
mẹ, và của toàn xã hội về tương lai của thế hệ nối tiếp sự nghiệp của toàn dân
tộc. Đặc biệt là những trường hợp phạm tội phần lớn có hệ thống, đã bị công an
bắt, cảnh cáo nhưng vẫn phạm tội lại đã làm cho quần chúng hoài nghi cả khả
năng giáo dục của chính quyền, gây nên nỗi quan ngại và bất an trong nhân dân
và là những tấm gương xấu lôi kéo trẻ em sa vào con đường phạm tội.
3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội chưa thành niên

19

*Khi nghiên cứu THTP do NCTN thực hiện không thể không quan tâm
xem xét đến nhân thân của người này.
Đầu tiên ta xem xét về độ tuổi của NCTNPT, như đã biết nói về NCTNPT
tội là đề cập đến vấn đề vi phạm pháp luật hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi. Trong độ tuổi đó, Điều 12 của BLHS Việt Nam năm 1999 lại chia
thành 2 loại:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;
- Người từ đủ tuổi 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Người CTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chiếm khoảng 40%
với 13.932 bị cáo, còn NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chiếm
60%, với 20.899 bị cáo [14]. Bị cáo ở độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đang
có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Và đặc biệt là bị cáo ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thời gian gần đây đã tham gia, thực hiện những tội
phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, có tổ chức, có tính chất côn đồ.
Xu hướng “trẻ hoá” tội phạm này cho chúng ta thấy sự phát triển về tâm lý và
khả năng nhận thức của NCTN trong điều kiện hiện nay là khác trước và đòi hỏi
chúng ta phải có biện pháp phòng ngừa, giáo dục thích hợp đối với lứa tuổi này.
Về giới tính: Qua nghiên cứu 34.831 bị cáo là NCTN, thì NCTNPT là
nam chiếm tỷ lệ rất cao, chiếm tới 96% với 33.438 bị cáo; nữ giới phạm tội
chiếm chỉ khoảng 4% với 1393 bị cáo trong tổng số NCTNPT.

Về trình độ văn hoá: NCTNPT đều là những đứa trẻ thiệt thòi. Đúng vậy,
chúng học hành động không đến nơi đến chốn, chúng học yếu, trốn học, lười
học, bỏ học, vi phạm kỷ luật nhà trường, cãi lại thầy cô, không nghe lời cha mẹ,
và thường xuyên xích mích với hàng xóm, làm những chuyện bậy bạ khác [6].
NCTNPT chủ yếu là những người có trình độ văn hoá thấp, có tới 5,4% mù chữ;
92,3% trình độ tiểu học và trung học cơ sở. Nó khiến chúng ta chú ý và xem xét
lại vai trò, trách nhiệm của nhà trường đối với việc quản lý, giáo dục nhân cách
tuổi thơ của các em.
Về hoàn cảnh gia đình: Đây là yếu tố có tính chất chi phối rất lớn đến
hành vi của NCTNPT. Kết quả nghiên cứu tội phạm học cho thấy chủ yếu các

20

em phạm tội là con em của những gia đình có hoàn cảnh thiếu hẳn sự chăm sóc
của bố mẹ đẻ, gia đình có kinh tế khó khăn, các bậc làm cha làm mẹ vì những lý
do nào đó mà thiếu hẳn đi sự quan tâm trong việc chăm sóc, giáo dục các em khi
các em vừa bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Ngoài ra NCTNPT còn có gia đình
mà có bố, mẹ hoặc cả hai bố mẹ đang phải chấp hành hình phạt tù; những gia
đình có bố mẹ buôn bán, làm ăn phi pháp, những gia đình này thường không có
sự quan tâm giáo dục đúng mức đối với NCTN, thậm chí còn xúi giục, lôi kéo,
che giấu cho NCTNPT.
*Về đặc điểm tâm lý: Bước vào độ tuổi này ở các em thường hình thành
một nhu cầu khá lớn, đó là muốn khẳng định cái tôi, muốn trở thành người lớn,
muốn được độc lập trong suy nghĩ, hành động. Nhưng bởi các em vẫn còn đang
ở độ tuổi phát triển chưa đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần nên các em không
nhận thức được hết những việc làm của mình. Ở các em trong độ tuổi này chưa
có được các kỹ năng ứng xử đầy đủ cần thiết nên dễ phạm phải những sai lầm
mà chính các em cũng không biết. Đôi khi chỉ vì cha mẹ, anh chị trong gia đình
nhắc nhở một việc làm sai trái nào đó của các em nhưng các em không đồng ý,
muốn làm theo ý của riêng mình mà dẫn đến những hành vi phạm tội không

đáng có.
Ở những em có những biểu hiện sai lệch ta luôn thấy các em không chăm
chỉ lao động giúp đỡ gia đình, người thân mà luôn lêu lổng, ham chơi hay tụ tập
thành từng nhóm đi quậy phá, trêu trọc bạn bè, không tới trường, bỏ học đi chơi
điện tử, chơi bài. Điều đáng lo ngại hơn cả là các em này không biết tự chăm
sóc, yêu quý bản thân. Sống bất cần, có thái độ ngang tàng, gan lỳ trước những
hành động sai trái. Thường xuyên vi phạm các qui định của nhà trường, khu
phố, thậm chí có những lời thô tục đối với cả cha mẹ của mình. Đây là một sự
phát triển lệch lạc đáng lo ngại về nhân cách của các em.
Các em còn có thái độ coi thường pháp luật, coi thường các chuẩn mực
đạo đức, chuẩn mực cuộc sống. Như việc các em hay tụ tập thành từng nhóm
nhỏ khoảng 5 – 10 em đi ăn cắp vặt để lấy tiền cho tiêu xài, ngồi nét, ăn uống...
Luôn sống vì bản thân, không nghe lời khuyên dạy của người xung quanh, có

21

thái độ sẵn sàng “đáp trả” nếu bị nhắc nhở nhiều lần. Với bạn bè thì luôn tỏ ra
coi thường có hành vi côn đồ như gần đây một nhóm khoảng 30 em ở thành phố
Biên Hoà, Đồng Nai mạo danh câu lạc bộ Manchester United để gây án cũng chỉ
vì xích mích với một thanh niên cùng phường mà nhóm này đã mang theo cả
hung khí chặn đường rồi dùng dao chém, sau đó lại xông vào điểm Internet đánh
những người đang chơi game ở quán rồi bỏ đi. Việc bọn chúng mặc áo thun có
in dòng chữ Manchester United là để khi đánh nhau không đánh nhầm người
mình [21].
*Về động cơ và mục đích phạm tội của các em được xác định khá cụ thể
và rõ ràng, chủ yếu là để lấy tiền tiêu xài, chơi điện tử, chơi lô đề, đánh bạc,
nghiện hút hoặc do thù hằn cá nhân, muốn thể hiện trước đám đông.
Về số lần phạm tội: số NCTN phạm tội lần đầu chiếm 38% với 13.236 bị
cáo, tái phạm chiếm 62% với 21.595 bị cáo. Nó cho thấy khả năng tiếp thu và
cải tạo của bị cáo, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, đồng thời nó cũng phản

ánh một khía cạnh nào đó của sự hình thành thói quen phạm tội, yếu tố tiềm ẩn
của tội phạm chuyên nghiệp. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng cần có
biện pháp xử lý thích hợp ngay từ khi bị cáo là NCTN lần đầu để ngăn ngừa tình
trạng tái phạm.
Sau những phân tích đánh giá một cách khái quát nhất về THTP của
NCTN ở Việt Nam từ năm 2000- 2007, chúng ta có thể thấy có một cái nhìn
tổng quát nhất với những đặc điểm cơ bản sau:
- Diễn biến của tội phạm do NCTN thực hiện có xu hướng gia tăng đều
đặn về số lượng vụ việc, số lượng người phạm tội, tính chất của hành vi cũng
như mức độ thì ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người, các tội xâm phạm sở hữu.
- Tội phạm có sử dụng bạo lực diễn ra trầm trọng đã góp phần làm cho
tình hình trật tự an toàn xã hội diễn ra phức tạp. Tội phạm có tổ chức như hình
thành phe nhóm, băng nhóm ở NCTNPT cũng đã xuất hiện ngày càng đáng báo
động thời gian vừa qua.
- Chủ yếu những NCTNPT là những người có trình độ văn hoá rất thấp.

22

- Đa số tội phạm của NCTN là ở lứa tuổi từ 16 – 18 tuổi, nhưng số
NCTNPT từ 14 – 16 tuổi thực hiện hành vi giết người, cướp tài sản có chiều
hướng gia tăng, số NCTNPT có tiền án ngày càng chiếm tỷ lệ cao, số NCTN
đồng phạm với người đã thành niên cũng là một vấn đề đáng lo ngại.
Những khái quát trên đòi hỏi chúng ta phải đánh giá được những nguyên
nhân, điều kiện của THPT do NCTN thực hiện và tìm được những biện pháp
tích cực để giải quyết nhằm bảo vệ NCTN nói riêng và trật tự xã hội nói chung,
để có thể loại bỏ được vấn nạn trên ra khỏi đời sống xã hội.

23


CHƯƠNG II
NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 2000-2007

Con người sinh ra không mang những yếu tố bẩm sinh của tội phạm mà
con người phạm tội là do những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động. Ở NCTN
PT nguyên nhân dẫn các em đến con đường phạm tội xuất phát từ chính môi
trường sống đó là những hiện tượng xã hội tiêu cực. Sau đây chúng ta xem xét
các nguyên nhân trong gia đình,nhà trường và xã hội tác động đến quá trình
phạm tội của người chưa thành niên.
1. Nguyên nhân trong gia đình
Nhân cách của một con người được quan tâm khi người đó tham gia vào
các quan hệ xã hội. Nhân cách của mỗi con người không phải là bản năng tự
nhiên mà nó là toàn bộ những đặc tính cá nhân, những kết quả cụ thể do tác
động của môi trường bên ngoài trong cả quá trình hoạt động của con người.
Nhân cách đồng thời là kết quả của sự điều chỉnh tích cực tác động qua lại hai
chiều giữa con người và môi trường sống. Sự phát triển của nhân cách luôn gắn
liền chặt chẽ với sự phát triển toàn diện về thể chất.
Người ta chia quá trình phát triển nhân cách thành 2 giai đoạn: giai đoạn
hình thành nhân cách và giai đoạn phát triển nhân cách. Giai đoạn trước có tính
chất quyết định đến giai đoạn sau và thông thường nó gắn với môi trường gia
đình. Chính vì vậy khi nghiên cứu nguyên nhân điều kiện dẫn NCTN đến việc
phạm tội yếu tố đầu tiên đề cập đến là môi trường và sự giáo dục của gia đình.
Gia đình là trường học đầu tiên của trẻ em. Từ khi sinh ra đến lúc trưởng
thành phần lớn thời gian đứa trẻ sống trong gia đình cho nên gia đình đóng vai
trò rất quan trọng trong việc giáo dục trẻ em. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái
nôi thân yêu chăm sóc, nuôi dưỡng cả đời người là môi trường quan trọng giáo
dục nếp sống và hình thành nhân cách. Có thể nói, nhân cách của trẻ là tấm
gương phản chiếu đặc điểm hoàn cảnh của mỗi gia đình, lối sống và cách ứng sử


24

của mỗi thành viên trong gia đình không ít thì nhiều sẽ được phản chiếu qua
tấm gương nhân cách của trẻ. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã chỉ ra rằng: “
Gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt
thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”.
Theo số liệu thông kê của TANDTC:
11.250 bị cáo là NCTN (chiếm 32,3% tổng số bị cáo là NCTNPT) xuất
thân từ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Tuy nhiên không thể
khẳng định rằng chỉ do gia đình có khó khăn về kinh tế mà 11.250 bị cáo kia
phạm tội. Nhưng một điều dễ nhận thấy là vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó
khăn không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc vui chơi, học
hành của trể thì dễ dẫn đến trẻ tự có những hành động nhằm đáp ứng nhu cầu
cho bản thân trong khi bản thân trẻ lại chưa được hoàn thiện các kỹ năng cơ bản,
chưa được trang bị các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực pháp luật thì điều khó
tránh khỏi là các em dễ có hành vi trái với đòi hỏi của xã hội.
8568 bị cáo là NCTNPT (chiếm 24,6% tổng số bị cáo là NCTNPT) xuất
thân từ những gia đình khá giả, giàu có nhưng các bậc phụ huynh dạy dỗ con cái
nhất là khi chúng đang độ chập chững bước vào đời. Các bậc làm cha làm mẹ
hiện nay vẫn còn quan niệm “cha mẹ sinh con trời sinh tính”.
Chính người cha người mẹ là tấm gương đầu tiên có ảnh hưởng đến sự
hình thành nhân cách sau này của các em. Các bậc cha mẹ giáo con cái không
chỉ bằng cách bắt các em nghe theo những điều giáo huấn khô cứng mà phải
bằng chính cách sống tích cực, gương mẫu của mình, bản thân cha mẹ phải
gương mẫu cho các em. Do đó, thật không khó giải thích khi trong một gia đình
mà bố mẹ sống không gương mẫu, vi phạm các quy tắc của cuộc sống, của gia
đình, phạm tội không chăm lo, giáo dục… Thì sớm hay muộn những đứa trẻ của
họ cũng đi vào con đường hư hỏng hoặc phạm pháp như cha mẹ của chúng.
Ví dụ: Em Nguyễn Thiện Cảnh 16 tuổi (Thanh Chương-Nghệ An) Bố mẹ

của Cảnh tham gia đường dây buôn bán ma tuý, buôn lậu, lại đi biền biệt cả
ngày vì chuyện làm ăn, buôn bán. Gặp con chỉ trong thời gian vài giờ đồng hồ,
vứt cho con một sấp tiền bảo cho con tiều sài và học tập, có nhiều tiền lại không

25

có bàn tay chăm sóc của mẹ, không có sự giáo dục của bố, nên em đã bị bọn
thanh niên xấu lợi dụng và đẩy em vào con đường phạm pháp. Cảnh nghiện
Hêrôin, để có tiền đáp ứng nhu cầu nghiện hút ngày một tăng, Cảnh đã tham gia
vào băng cướp chuyên giật dây chuyền của người đi đường [22].
14.176 bị cáo là NCTNPT (chiếm 40,7% tổng số bị cáo là NCTNTPT)
xuất thân từ những gia đình bình thường, đủ ăn, con em của những cán bộ, công
nhân viên chức. Đối với những em sống trong gia đình có bố mẹ sống bằng nghề
buôn bán, nên tư tưởng chạy theo đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, thường tính
toán thiệt hơn, bàn bạc mánh lời buôn bán làm ăn, kiếm tiền ngay trước mắt các
em. Chính sự tha hoá của cha mẹ đã đẩy các em tới hành vi, thủ đoạn gian lận,
lừa đảo và phạm tội. Nhưng đối với các em là con của những gia đình bình
thường chỉ đủ ăn, là con cái của cán bộ viên chức bị hư hỏng phạm tội thì sao?
Phải chăng cơ chế thị trường đã cuốn hút một bộ phận cán bộ này mải công việc
mà không có thời gian chăm sóc, giáo dục con cái. Một nguyên nhân khác được
kể đến là cũng có nhiều người không đủ tư cách nêu gương tốt cho con cái. Họ
cũng sống thực dụng chạy theo đồng tiền, làm giàu bằng tham nhũng, sống sa
đoạ, vô đạo đức. Những loại cán bộ viên chức này lại có chiều hướng ngày càng
tăng. Họ làm tổn hại đến uy tín của Nhà nước và lại là tấm gương xấu cho con
cái họ trong việc hình thành nhân cách.
Ngoài thực trạng trên đây, những yếu tố khuyết tật về hoàn cảnh gia đình
của các em được nêu sau đây, trong một chừng mực nào đó cũng có thể trở
thành nguyên nhân, điều kiện dẫn các em đến con đường phạm tội:
- Gia đình mà bố hoặc mẹ hoặc cả bố lẫn mẹ đang phải chấp hành hình
phạt tù. Sống trong môi trường này hiểm hoạ đối với trẻ em, không những bố

mẹ không là tấm gương tốt cho các em noi theo mà hành vi phạm tội của bố mẹ
các em hoặc sẽ làm cho các em bắt chước dẫn đến phạm tội, hoặc gây sốc cho
các em, bản thân các em bị tổn thương về tinh thần, tình cảm, cảm thấy xấu hổ
với các bạn đồng trang lứa, dần xa lánh bạn bè, xa lánh mọi người xung quanh
bởi những lời bàn tán dị nghị về gia đình các em, sống thụ động, bế tắc thiếu kỹ

×