Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.59 KB, 31 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng:
1.1 Khái niệm tín dụng:
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình
thái tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu (gọi là người cho vay) sang người sử
dụng (gọi là người đi vay) để sau một thời gian nhất định thu về một lượng giá
trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Khi đó quan hệ giữa người cho vay và người
đi vay được gọi là quan hệ tín dụng.
Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai
loại chủ thể: người đi vay và người cho vay, trong đó hai bên thoả thuận một
thời hạn nợ và một mức lãi cụ thể (chính là khoản tiền lớn hơn của lượng giá trị
thu về so với lượng giá trị cho vay ban đầu). Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tín
dụng là sự vận động của các nguồn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn (vấn
đề này sẽ được làm rõ ở phần tiếp theo).
Từ khái niệm trên, có thể thấy quan hệ tín dụng có những đặc trưng cơ
bản sau:
- Quan hệ tín dụng được xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc: có thời hạn, có
hoàn trả và có đền bù, nghĩa là trong bất kỳ quan hệ tín dụng nào bên cho vay
và bên đi vay đều thoả thuận một thời hạn nợ nhất định, theo đó bên đi vay khi
hết thời hạn này phải hoàn lại cho bên cho vay lượng giá trị đã vay ban đầu
cộng thêm một mức lãi nhất định để bù đắp cho việc chiếm dụng vốn của mình.
- Mặc dù hình thức biểu hiện của tín dụng là có sự di chuyển từ người cho
vay sang người đi vay song về thực chất chỉ có sự di chuyển quyền sử dụng
vốn, quyền sở hữu vốn vẫn thuộc về người cho vay do đặc thù trong quan hệ tín
dụng là có hoàn trả sau một một thời hạn nhất định. Vì vậy, trong quan hệ tín
dụng, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau.
- Do đặc điểm tách rời nhau giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn
như vậy nên mối quan tâm lớn nhất trong quan hệ tín dụng là liệu vốn có quay
trở lại người cho vay sau khi đã hết thời hạn tín dụng. Chính vì vậy mà quan hệ
tín dụng chỉ có thể hình thành trên cơ sở lòng tin hay sự tín nhiệm của người


cho vay về khả năng hoàn trả đúng hạn của người đi vay. Đó là lý do vì sao mà
từ tín dụng trong tiếng Anh “ credit”, tiếng Pháp “crédit’, rất giống nhau vì
chúng đều xuất phát từ gốc latinh “creditium” có nghĩa là lòng tin hay sự tín
nhiệm. Điều này cũng tương tự trong ngôn ngữ các nước Á Đông như tiếng
Trung Quốc, tiếng Nhật hay tiếng Việt. Nói tóm lại người ta đã sử dụng chính
điều kiện đảm bảo cho sự xuất hiện của quan hệ tín dụng để đặt tên cho nó.
1.2 Chức năng và vai trò của tín dụng:
1.2.1 Chức năng của tín dụng:
Với những đặc trưng trên, tín dụng có 3 chức năng chính sau:
a. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả:
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình thống nhất trong sự
vận hành của hệ thống tín dụng. Ở đây, sự có mặt của tín dụng được xem như
chiếc cầu nối giữa các nguồn cung và cầu về tiền tệ trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng này, tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các
nguồn vốn tạm thời dư thừa từ các cá nhân, tổ chức kinh tế để bổ sung kịp thời
cho những doanh nghiệp, cá nhân hay nhà nước đang thiếu hụt về vốn. Nói cách
khác:
- Ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội
- Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu về vốn
để phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các doanh nghiệp, các cá nhân
và cả của ngân sách quốc gia.
Trong toàn bộ nền kinh tế, phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín
dụng được thực hiện bằng hai cách: phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp.
- Phân phối trực tiếp là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời
chưa sử dụng trực tiếp sang chủ thể vay vốn đó cho sản xuất, kinh doanh hay
tiêu dùng. Phương thức phân phối này được thực hiện trong quan hệ tín dụng
thương mại và phát hành trái phiếu của công ty hay chính phủ.
- Phân phối gián tiếp là việc phân phối vốn được thực hiện thông qua các
tổ chức tài chính trung gian như hệ thống ngân hàng, các công ty tài chính.

b. Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:
Nhờ vào quá trình động viên kịp thời những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội, những khoản vốn này đang tạm thời “đứng yên” được đưa vào chu chuyển
nghĩa là tín dụng đã làm tăng vòng quay của đồng tiền, giảm lượng tiền cần
thiết cho lưu thông.
Mặt khác, hệ thống ngân hàng phát triển đã thúc đẩy việc mở rộng thanh
toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này
sẽ làm giảm khối lượng giấy bạc trong lưu thông cũng như chi phí in ấn giấy
bạc, chi phi bảo quản tiền, vận chuyển tiền...
c. Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Chức năng này phát huy được tác dụng phụ thuộc vào sự phát triển của
các chức năng trên. Cụ thể:
Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần
phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt như: khối lượng tiền tệ
nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ...từ đó giúp ta có cái nhìn
tổng quát về những cân đối lớn trong nền kinh tế như: tổng nguồn vốn tích luỹ
gồm những khoản nào, được huy động từ những thành phần kinh tế nào, với
khối lượng và biến động qua từng thời kỳ là bao nhiêu... hay với nguồn vốn
dành cho tiêu dùng thì tiêu dùng cho kinh tế phát triển là bao nhiêu, cho cá nhân
là bao nhiêu...
Đặc biệt trong hoạt động cho vay, để đảm bảo an toàn về vốn, ngân hàng
luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của đơn vị vay vốn nhằm
phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của nhà
nước. Bên cạnh đó, trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cho vay có hoàn trả, tín
dụng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng nguồn vốn của các đơn
vị kinh tế. Các đơn vị muốn vay vốn ngân hàng phải trình bày rõ mục đích sử
dụng tiền vay và phương án trả nợ. Trong trường hợp ngân hàng phát hiện
người vay vốn sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc không hiệu quả thì dừng
ngay việc cho vay và tìm cách thu hồi số vốn đã cho vay.
Tóm lại, tín dụng cần phải được vận dụng như một trong những đòn bẩy

kích thích kinh tế không thể thiếu trong quá trong quá trình tổ chức, quản lý
kinh tế - tài chính, kiểm soát và thúc đẩy các hoạt động kinh tế quốc dân.
1.2.2 Vai trò của tín dụng:
Trên cơ sở phát huy các chức năng vốn có, tín dụng thể hiện vai trò tích
cực trong đời sống kinh tế-xã hội như sau:
a. Tín dụng đóng vai trò là công cụ điều hoà vốn cho nền kinh tế:
Trong nền kinh tế luôn luôn xảy ra hiện tượng cùng một lúc có những chủ
thể kinh tế tạm thời dư thừa về vốn trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu
cầu vay vốn. Cụ thể:
 Về nhu cầu vay vốn của nền kinh tế:
- Nhu cầu về vốn xuất hiện trước tiên trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong quá trình này, do đặc điểm vốn tự có thường không đủ nên các
doanh nghiệp thường phải vay thêm vốn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh. - Đối với những hộ gia đình, nhu cầu chi tiêu lớn vượt quá thu
nhập hiện tại (như: mua nhà, xe hơi,...) hoặc những nhu cầu chi tiêu bất thường
(đau ốm, bệnh tật,...) cũng làm phát sinh nhu cầu vay mượn.
- Rồi đến nhà nước hay các chính quyền địa phương nhiều khi cũng cần
có những khoản tiền lớn để xây dựng cầu đường, trường học, cơ sở y tế,...hoặc
để khắc phục thiệt hại do thiên tai gây ra trong khi thu ngân sách chưa đủ để đáp
ứng ngay nên phải vay mượn.
 Về nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của nền kinh tế:
- Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi xuất hiện trong quá trình tái sản xuất: trong
quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, nhiều lúc xuất hiện một số vốn tiền tệ
tạm thời chưa dùng vào sản xuất. Đây được xem là nguồn hình thành vốn cho
vay của nền kinh tế.
+ Trước hết do đặc điểm chu chuyển vốn cố định trong quá trình tái sản
xuất, các tài sản cố định như máy móc, nhà xưởng,...không thể tính hết một lần
vào chi phí sản xuất mà phải khấu hao dần dần. Quá trình khấu hao này đã tạo
nên vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi nằm trong các quỹ khấu hao.
+ Tiếp theo, sự tuần hoàn và chu chuyển vốn lưu động trong quá trình tái

sản xuất cũng tạo ra vốn tiền tệ tạm thời chưa dùng đến. Chẳng hạn do chênh
lệch về số lượng và thời gian mua nguyên liệu, do những khoản phải trả nhưng
chưa đến kỳ trả, các khoản phải nộp nhưng chưa đến kỳ nộp mà hình thành nên
vốn nhàn rỗi nằm trong quỹ tiền mặt hay quỹ lương của doanh nghiệp.
+ Cuối cùng là lợi nhuận được tích luỹ lại trong quỹ tích luỹ nhưng chưa
đủ quy mô nhất định để mở rộng sản xuất cũng hình thành vốn tiền tệ tạm thời
không dùng đến.
Những vốn tiền tệ tạm thời chưa dùng đến này là số vốn không hoạt
động, không sinh lời nên có thể được huy động vào mạng lưới tín dụng và đầu
tư để tái phân bổ cho các ngành theo nguyên tắc tín dụng.
- Nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi thu được dưới dạng tiền gửi tiết kiệm của
mọi tầng lớp trong xã hội: nguồn tiền nhàn rỗi này hình thành từ khoản tiền tiết
kiệm được trích ra từ thu nhập của người dân và được xem là bộ phận quan
trọng nhất trong vốn tín dụng của một quốc gia.
Trong hai nguồn vốn trên, nguồn vốn từ sản xuất kinh doanh thường tạo
ra cung vốn ngắn hạn còn vốn từ tiết kiệm tạo ra cung vốn dài hạn cho nền kinh
tế.
Như vậy, sự thừa và thiếu hụt tạm thời về vốn trong nền kinh tế như phân
tích ở trên đòi hỏi cần phải có tín dụng để điều hoà vốn từ nơi dư thừa vốn đến
nơi thiếu hụt vốn. Do đó sự tồn tại và phát triển của tín dụng trong nền kinh tế là
một tất yếu khách quan.
Mặt khác, việc tín dụng góp phần điều phối lại vốn trong nền kinh tế còn
thúc đẩy quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Như ta đã biết, sản xuất,
cạnh tranh tự do luôn chạy theo lợi nhuận đã tạo điều kiện và thúc đẩy vốn ở
những ngành thu được lợi nhuận thấp chạy sang những ngành có lợi nhuận cao
hơn. Vì vậy thông qua tác dụng phân phối lại vốn, tín dụng đã có vai trò thúc
đẩy quá trình bình quân hoá lợi nhuận giữa các ngành. Nhờ đó mà xã hội mới có
điều kiện phát triển.
c. Tín dụng là đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ việc tập trung và tích tụ vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là tất yếu.

Các doanh nghiệp lớn thường được các ngân hàng ưu tiên cấp vốn, thậm chí với
những điều kiện ưu đãi hơn hẳn so với các doanh nghiệp nhỏ. Đây là điều kiện
để các doanh nghiệp lớn mở rộng hơn nữa quy mô sản xuất, kinh doanh, ứng
dụng các tiến bộ mới của khoa học - kỹ thuật, từ đó càng có thế vững chắc trong
cạnh tranh. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ muốn đứng vững trong cạnh
tranh để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh hay mở rộng sản xuất thường
phải tự tích luỹ, sát nhập với các doanh nghiệp lớn hay liên kết với nhau để tập
trung vốn, lực lượng lao động có tay nghề, đầu tư vào khoa học - công nghệ.
Như vậy, nhờ vào đòn bẩy này mà quy mô sản xuất và lưu thông hàng hoá được
mở rộng và phát triển nhanh.
Một biểu hiện rõ nét của vai trò này là sự hình thành nên các công ty cổ
phần, một thực thể thiết yếu của nền kinh tế thị trường. Chính sự xuất hiện của
các công ty cổ phần đã phá bỏ giới hạn chật hẹp của vốn cá nhân - luôn là xiềng
xích đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.3 Sự ra đời và phát triển của tín dụng:
Tín dụng có quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Trong thời kỳ tan
rã của chế độ Cộng sản nguyên thuỷ, cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, phân công lao động được mở rộng thì quan hệ H - T cũng hình thành và
phát triển. Đây là những điều kiện tiền đề làm nảy sinh quan hệ tín dụng.
Trong thời kỳ này, song song với sự hình thành các gia đình cá thể là sự
thay đổi về cách thức phân phối thu nhập. Giờ đây của cải không còn chia đều
cho mọi thành viên trong công xã như trước kia mà có xu hướng tập trung trong
tay một số người hay một vài dòng họ lớn nắm trong tay tư liệu sản xuất trong
khi đại bộ phận gia đình khác sống trong bần cùng, thiếu thốn thường xuyên vật
phẩm tiêu dùng, tư liệu lao động. Sự khác nhau ngày càng lớn về thu nhập dẫn
đến sự phân hoá giai cấp thành kẻ giàu, người nghèo. Để có tiền đóng thuế, nộp
tô và để bù đắp những thiếu hụt trong sinh hoạt hàng ngày, những người nghèo
phải vay mượn từ những người giàu. Tín dụng trong giai đoạn này là tín dụng
nặng lãi bởi vì trước những yêu cầu bức thiết của con nợ, chủ nợ tìm cách nâng
lãi suất lên cao. Như vậy, sản xuất nhỏ chính là mảnh đất tốt để tín dụng nặng

lãi tồn tại và phát triển. Hơn nữa, do lãi suất cao nên người vay chỉ dám sử dụng
vào mục đích tiêu dùng phi sản xuất. Do đó, trong thời kỳ đầu hình thành và
phát triển dưới hình thức cho vay nặng lãi, tín dụng không phải là nhân tố kích
thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, quá trình tái sản xuất giản đơn được thay
thế bằng quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô lớn cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Trước thực tiễn đó, các nhà tư bản dù rất cần bổ sung vốn nhưng
họ không thể sử dụng tiền vay nặng lãi, vì thế giai cấp tư sản đã sử dụng
công cụ nhà nước, tôn giáo, pháp luật để đấu tranh với những người cho vay
nặng lãi. Kết quả là nhà nước ban hành các đạo luật khống chế mức lãi suất.
Tuy nhiên, trên thực tế hình thức này ít có hiệu quả, do đó khi phát triển cao
hơn, giai cấp tư sản tự góp vốn lại và cho nhau vay với lãi suất vừa phải. Nói
cách khác, họ thiết lập quan hệ tín dụng cho riêng mình. Đây là thời điểm mở
đầu cho giai đoạn phát triển mới ngày càng lớn mạnh của hệ thống tín dụng
phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển của xã hội.
Ngày nay, cùng với yêu cầu khách quan của các lĩnh vực sản xuất -
lưu thông - tiêu dùng..., hệ thống tín dụng cũng mở rộng về phạm vi hoạt
động và đa dạng về hình thức. Vì vậy, tín dụng đã và đang phát triển như một
bộ phận không thể thiếu trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
1.4 Các hình thức của tín dụng:
Hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú, vì thế cũng tồn tại nhiều
hình thức tín dụng khác nhau. Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng, tuy
nhiên tín dụng có thể được phân loại theo các tiêu thức sau đây:
1.4.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia làm 3 loại, đó là:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm, thường
được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và phục vụ
nhu cầu cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được
dùng để đáp ứng nhu cầu về vốn để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới

kỹ thuật và mở rộng, xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn
nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến, đầu tư công nghệ mới và mở rộng
sản xuất có quy mô lớn.
1.4.2 Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng chủ yếu để bù đắp
vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Loại tín dụng này thường được thực hiện dưới
hình thức cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất và cho vay dưới
hình thức chiết khấu các chứng từ có giá.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố
định của doanh nghiệp dưới hình thức mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, mở rộng sản xuẩt, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời
hạn của loại tín dụng này là trung và dài hạn.
1.4.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Theo căn cứ này, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các
chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại và những hàng hóa tiêu dùng
khác. Loại này được cấp dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bán chịu hàng
hoá.
1.4.4 Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm:
- Tín dụng không bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài sản
cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả năng hoàn
trả của khoản vay mà việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay hoặc bảo
lãnh bằng tín chấp của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Hình thức cho
vay này thường áp dụng đối với các cá nhân và hộ gia đình với một khoản tiền
nhỏ tại tổ chức tín dụng để phục vụ kinh tế gia đình.

- Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi cấp tín dụng ngân hàng
yêu cầu người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ
ba (có thể bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của TCTD khác)
để đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là loại tín dụng được tất cả các ngân
hàng áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt là khoản vay lớn,
các khoản đầu tư trung, dài hạn.
1.4.5 Căn cứ vào chủ thể tín dụng:
Theo căn cứ này, tín dụng được chia thành 5 loại:
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được
biểu hiện dưới hình thức mua, bán chịu hàng hoá, ứng trước tiền hàng. Khi đến
thời hạn đã được thoả thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới
hình thức tiền tệ cùng với một khoản lãi - chính là khoản tiền lớn hơn của giá
bán hàng chịu so với giá bán hàng thanh toán ngay. Tuy nhiên, mục đích chính
của tín dụng thương mại không phải là lãi mà là hiệu quả kinh doanh, nó giúp
cho quá trình tái sản xuất diễn ra thông suốt, nhanh chóng.
- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân (chi tiết về hình thức tín dung này
sẽ được trình bày kỹ hơn ở mục 2 chương 1).
- Tín dụng nhà nước: là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa nhà
nước với nhân dân và các tổ chức khác theo đó nhà nước chủ động vay của dân
để tăng nguồn thu, bù đắp thiếu hụt ngân sách, tận dụng vốn dư thừa trong dân,
chi dùng cho yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh quốc
phòng...Trong quan hệ tín dụng này, nhà nước thực hiện việc vay vốn của dân
dưới hình thức phát hành công trái, kỳ phiếu, tín phiếu...có hoàn trả. Bên cạnh
đó, nhà nước còn có thể tham gia thị trường chứng khoán với tư cách là người
mua các chứng khoán do các chủ thể khác phát hành. Trong hoạt động này, nhà
nước giữ vai trò là người cho vay. Như vậy, đây là hình thức tín dụng thể hiện
sự thống nhất về lợi ích giữa nhà nước và mọi thành viên trong xã hội.
- Tín dụng quốc tế: là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ tín dụng giữa
chính phủ Việt Nam với chính phủ nước khác hay các tổ chức tài chính, tín

dụng quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng phát triển Á châu (ADB)...hoặc giữa các TCTD nước ta với các TCTD
quốc tế, giữa doanh nghiệp và công ty trong nước với các doanh nghiệp và công
ty nước ngoài.
- Tín dụng tự huy động:
Đây là hình thức các doanh nghiệp tự huy động vốn để đảm bảo tái sản
xuất mở rộng. Việc huy động vốn có thể được thực hiện qua các hình thức:
+ Huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp bằng cách vay ngắn hạn hoặc
dài hạn tiền dư thừa, tiền tiết kiệm, tiền lương của nhân viên trong công ty trong
đó việc có trả lãi hay không do doanh nghiệp và người cho vay thoả thuận.
+ Huy động vốn từ các doanh nghiệp khác dưới hình thức liên doanh, liên
kết kinh tế hoặc điều chuyển vốn giữa các công ty, xí nghiệp nhỏ trong cùng
một công ty lớn.
+ Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Hình thức tín dụng này
ngày càng phát triển ở nước ta hiện nay.
2. Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
2.1 Khái quát về tín dụng ngân hàng:
2.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng dưới hình thái tiền tệ phát sinh
giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã
hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, đối tượng cho vay trong quan hệ tín dụng ngân hàng là tiền tệ
trong đó nguồn vốn mà ngân hàng cung cấp hình thành từ những khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi trong xã hội do chính ngân hàng huy động được. Bởi vì đối tượng
cho vay là tiền tệ cho nên sự vận động của tín dụng ngân hàng không bị hạn chế
về phương hướng, thời gian và lượng giá trị cho vay.
- Thứ hai, trong quan hệ tín dụng này ngân hàng đóng vai trò kép: vừa là
người đi vay vừa là người cho vay. Với vai trò là người đi vay, ngân hàng huy
động vốn từ các chủ thể khác nhau như các doanh nghiệp, hộ gia đình, người

nước ngoài... để tạo nên quỹ cho vay. Sau đó, với tư cách là người cho vay,
ngân hàng cung cấp vốn vay cho các chủ thể kinh tế khác đang có nhu cầu về
vốn.
- Thứ ba, quan hệ tín dụng ngân hàng mang tính chất gián tiếp bởi vì
người dư thừa vốn cung cấp vốn vay cho người thiếu vốn thông qua trung gian
là ngân hàng
- Thứ tư, sự vận động của tín dụng ngân hàng đôi khi thể hiện tính độc lập
tương đối đối với sự vận động của sản xuất, lưu thông hàng hoá. Ví dụ, trong
thời kỳ khủng hoảng của sản xuất tư bản chủ nghĩa, sản xuất và lưu thông hàng
hoá bị thu hẹp, nhu cầu về tiền vay giảm bớt nhưng khả năng cung cấp tiền lại
rất lớn bởi vì nhiều người không muốn bỏ vốn vào kinh doanh nữa mà đem
chúng gửi vào ngân hàng để thu lợi tức tiền gửi. Trong thời kỳ khủng hoảng
thừa, sản xuất và lưu thông hàng hoá bị co hẹp lại, hàng hoá ế thừa không bán
được, nhiều người rút tiền khỏi ngân hàng nên khả năng cung cấp tiền vay bị
hạn chế. Thế nhưng, nhu cầu này tăng lên không phải để đầu tư mở rộng sản
xuất mà dành cho việc trả nợ để tránh bị vỡ nợ hoặc phá sản.
Như vậy, rõ ràng sự vận động của tín dụng ngân hàng mang tính độc lập
tương đối so với sự vận động của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng ở Việt Nam:
Trong hoạt động của ngân hàng thì tín dụng ngân hàng là hoạt động cơ
bản nhất. Bởi vì vậy mà ngay từ khi tổ chức ngân hàng nước ta mới được thành
lập, việc huy động vốn và phân phối nguồn vốn đó dưới hình thức cho vay đã
được Nhà nước quy định một cách cụ thể.
Sắc lệnh 15/CP ngày 6-5-1951 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh ký về việc thành lập Ngân hàng quốc gia Việt
Nam trên cơ sở thống nhất tổ chức tín dụng sản xuất và ngân khố quốc gia thuộc
Bộ Tài chính đã xác định hoạt động “huy động vốn của nhân dân, điều hoà và
mở rộng tín dụng để nâng cao sản xuất và kinh tế Nhà nước” (điều 2-Sắc lệnh
15/CP ngày 6-5-1951) là một trong những hoạt động chủ yếu của Ngân hàng.
Tuy vậy, trên thực tế tín dụng ngân hàng ở nước ta đến năm 1959 mới hình

thành với Quyết định số 54/QĐ-TTG ngày 19-2-1959 của Thủ tướng Chính phủ

×