Khóa luận tốt nghiệp Trần Hùng, A11-K38D
MT S GII PHP M RNG TN DNG NGN HNG
I VI KHU VC KINH T NGOI QUC DOANH VIT
NAM
1. Quan im, ng li, chớnh sỏch ca ng, Nh nc v phỏt trin khu
vc kinh t ngoi quc doanh trong nhng nm ti:
Nhn thc c vai trũ ca kinh t ngoi quc doanh, ng v Nh nc
ó cú nhng ch trng, chớnh sỏch nhm khuyn khớch khu vc kinh t ngoi
quc doanh phỏt trin bỡnh ng vi kinh t quc doanh. Ngh quyt i hi
ng ln th IX ó khng nh thc hin nht quỏn chớnh sỏch phỏt trin nn
kinh t nhiu thnh phn, cỏc thnh phn kinh t kinh doanh theo phỏp lut u
l b phn cu thnh quan trng ca nn kinh t th trng nh hng xó hi
ch ngha, cựng phỏt trin lõu di, hp tỏc v cnh tranh lnh mnh...
33
.
Bờn cnh ch trng trờn, Ngh quyt cng vch ra k hoch phỏt trin
KVNQD, c th trong giai on 2001-2005, kinh t cỏ th, tiu ch, kinh t t
bn t nhõn c khuyn khớch phỏt trin mnh; thc hin quyn t do kinh
doanh theo phỏp lut ca mi cụng dõn nhm phỏt huy ti a ni lc, phỏt trin
lc lng sn xut; sa i, b sung h thng phỏp lut nhm bo m s bỡnh
ng v c hi cho mi t chc, cỏ nhõn thuc cỏc thnh phn kinh t; xoỏ b
mi hỡnh thc phõn bit i x, bo m c hi v kh nng la chn bỡnh ng
ca cỏc thnh phn kinh t trong tip cn v vn, t ai, lao ng, cụng ngh;
tip tc phỏt huy nhng tỏc ng tớch cc ca Lut Doanh nghip, tin ti xõy
dng mt lut ỏp dng thng nht cho cỏc loi hỡnh doanh nghip khỏc nhau
thuc cỏc thnh phn kinh t; hon thin cỏc c ch, chớnh sỏch khuyn khớch
doanh nghip va v nh, kinh t trang tri
34
.
33
33
Vn kin i hi i biu to n qu c ln th IX, Nh xu t bn Chớnh tr quc gia, trang 95.
34
34
Vn kin i hi i biu to n qu c ln th IX, Nh xu t bn Chớnh tr quc gia, trang 320.
1
1
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
Khác với kinh tế tập thể, thành phần kinh tế luôn được Đảng và Nhà nước
nhìn nhận là “cùng với kinh tế nhà nước hợp thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân”
35
, kinh tế tư nhân trên thực tế đến gần đây mới được chính
thức thừa nhận. Lần đầu tiên Đảng dành một Nghị quyết (Nghị quyết Trung
ương 5 khoá IX) về phát triển khu vực kinh tế tư nhân, trong đó khẳng định
“phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa...”
Như vậy, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã cởi trói cho
KVNQD. Khu vực kinh tế này giờ đây đang đứng nhiều cơ hội phát triển mạnh
mẽ hơn bao giờ hết để phát huy những thế mạnh của bản thân, từ đó đóng góp
tích cực hơn nữa vào quá trình phát triển của đất nước.
2. Hướng mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh ở Việt Nam:
Nhìn chung, mở rộng tín dụng ngân hàng có thể được thực hiện theo
nhiều hướng khác nhau và căn cứ vào nhiều yếu tố. Đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh, các ngân hàng có thể mở rộng tín dụng theo những hướng
sau:
2.1 Mở rộng đối tượng cho vay:
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm nhiều TPKT khác nhau: kinh
tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân và các hình thức liên
kết khác. Căn cứ vào từng loại hình mà ngân hàng sẽ có chính sách phù hợp.
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ: nhu cầu vốn vay của loại hình này thường
không nhiều, chủ yếu vay ngắn hạn để bổ sung lượng tiền mặt thiếu hụt tạm
thời. Đứng trên giác độ quản lý ngân hàng, khoản chi phí tính trên mỗi món vay
mà ngân hàng bỏ ra thực hiện cho vay những đối tượng này thường lớn hơn so
với việc cho các doanh nghiệp vay, do đó bên cạnh việc trực tiếp cho từng cá
35
35
Văn kiện Đại hội đại biểu to n quà ốc lần thứ IX, Nh xuà ất bản Chính trị quốc gia, trang 96.
2
2
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
nhân vay vốn, đối với những khách hàng có cùng hoạt động sản xuất kinh
doanh, ngân hàng có thể hướng dẫn họ tập hợp lại thành nhóm khoảng từ 5 đến
6 người để thực hiện việc cho vay. Cán bộ tín dụng chỉ cần làm việc với 1 hoặc
2 người đại diện cả nhóm. Người này sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm trước ngân
hàng về việc sử dụng vốn vay của tất cả các thành viên trong nhóm cũng như
chuyển khoản vay từ ngân hàng tới các thành viên khác. Bằng cách này, ngân
hàng giảm được chi phí cho vay, khách hàng bớt được các thủ tục rườm rà.
Đối với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân: đây là những đơn vị kinh
tế được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp, ngân hàng nên căn cứ vào đặc trưng
của từng loại hình mà áp dụng các chính sách tín dụng cho phù hợp. Ví dụ, bên
cạnh việc cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động, ngân hàng có thể cho các
doanh nghiệp vay vốn để thực hiện dự án trung và dài hạn. Dựa trên đơn yêu cầu
vay vốn của khách hàng, ngân hàng có thể cho vay để mua vật tư, hàng hoá... và
các nhu cầu tài chính khác theo quy định của NHNN. Việc cho vay có bảo đảm
hay không bảo đảm phải căn cứ vào tính pháp lý của từng loại hình doanh
nghiệp.
Tóm lại, việc mở rộng đối tượng cho vay không những giúp ngân hàng có
thể thiết lập quan hệ với nhiều khách hàng mà còn giúp đa dạng hoá được các
khoản đầu tư của mình. Nhờ vậy, ngân hàng hạn chế được rủi ro thông qua việc
phân tán chúng đồng thời vẫn thực hiện được nhiệm vụ cung ứng vốn cho nền
kinh tế.
2.2 Mở rộng quy mô khoản vay:
Các đơn vị kinh tế thường có nhu cầu vốn không giống nhau do đặc điểm
sản xuất kinh doanh khác nhau. Bởi vậy, để đáp ứng nhu cầu khách hàng, ngân
hàng có thể mở rộng việc cho vay theo số lượng và kỳ hạn khác nhau.
Để có thể thực hiện việc mở rộng theo hướng này, trước hết, ngân hàng
phải căn cứ vào tiềm lực vốn của mình. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động
3
3
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
được có thể từ nhiều nguồn khác nhau: từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân...,
gắn liền với kỳ hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng... và quy mô không
giống nhau (có người chỉ gửi vài ba trăm nghìn, có người lại gửi đến hàng trăm
triệu). Trong khi đó, khách hàng vay vốn cũng có yêu cầu khác nhau về số
lượng, thời hạn cũng như phương thức vay, tuỳ theo mục đích sử dụng vốn, có
người vay vài triệu trong 3 tháng hoặc 6 tháng nhưng cũng có người vay đến
hàng tỷ đồng để đầu tư những dự án lớn. Như vậy, kỳ hạn cũng như quy mô của
các khoản cho vay và huy động không phải lúc nào cũng khớp với nhau, vì thế
các ngân hàng phải kế hoạch hoá được nguồn vốn của mình để có sự chủ động,
linh hoạt khi cho vay.
2.3 Mở rộng phương thức cho vay:
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn của khách hàng, mối quan hệ
giữa khách hàng và ngân hàng, ngân hàng và khách hàng thoả thuận để lựa chọn
phương thức cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Xuất phát từ điều này, Ngân hàng có thể tiến hành cho vay theo các phương thức
như:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: ngân hàng và khách hàng xác định thoả
thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu
tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một
dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ
chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
4
4
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
- Cho vay trả góp: khi vay vốn, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia để trả nợ theo nhiều
kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định.
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự
phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiêp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân
hàng chấp nhận cho khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự
động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà ngân hàng thoả thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh
toán của khách hàng.
Việc mở rộng, cung ứng các phương thức cho vay phù hợp với đặc điểm,
tính chất kinh doanh của khách hàng sẽ giúp ngân hàng dễ dàng, thuận tiện hơn
trong việc kiểm tra, giám sát và thu hồi vốn vay. Qua đó nâng cao hiệu quả kinh
doanh của khách hàng cũng như ngân hàng, kéo theo mối quan hệ hai bên được
tăng cường, từ đó tạo điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động của ngân hàng.
2.4 Mở rộng hình thức cho vay:
Theo hướng này, các ngân hàng có thể cho khách hàng vay có bảo đảm
hoặc không bảo đảm.
Thông thường khi vay vốn ngân hàng, khách hàng thuộc KVNQD phải có
tài sản thế chấp. Mặc dù vậy, các ngân hàng có thể căn cứ vào mức độ tín nhiệm
đối với khách hàng để quyết định hình thức cho vay phù hợp: cho vay đảm bảo
bằng tài sản của người vay, bằng bảo lãnh của bên thứ ba hoặc bằng tài sản hình
thành từ chính vốn vay. Đối với những khách hàng mới hoặc có độ tin cậy
5
5
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
không cao, việc bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm là cần thiết để nguồn vốn
cho vay được an toàn.
Tuy nhiên, ngân hàng có thể cho vay không cần các biện pháp đảm bảo.
Hình thức cho vay này nên được áp dụng đối với những khách hàng truyền
thống, có hoạt động kinh doanh tốt, có uy tín với ngân hàng. Cụ thể, các ngân
hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mở L/C trả chậm cho hoạt
động xuất nhập khẩu hoặc cho khách hàng vay thông qua việc mua lại các chứng
từ có giá trong thời hạn thanh toán, bao gồm việc chiết khấu các loại thương
phiếu và mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp.
Như vậy, ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay của mình theo
nhiều hướng khác nhau. Các dịch vụ, phương thức cho vay của ngân hàng càng
nhiều, càng đa dạng thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp
cận được nguồn vốn ngân hàng. Nhờ đó, doanh nghiệp có thêm vốn để phát triển
hoạt động kinh doanh còn ngân hàng cũng mở rộng hoạt động của mình.
3. Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ở Việt Nam:
3.1 Quan điểm mở rộng tín dụng ngân hàng:
Trong cơ chế thị trường, đối với các NHTM, mở rộng tín dụng là một vấn
đề cấp bách bởi hoạt động này không chỉ giúp các ngân hàng tăng cường cung
ứng vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế mà còn quyết định sự tồn tại và
phát triển của bản thân ngân hàng. Do vậy, bất cứ một ngân hàng nào cũng đều
cố gắng tìm ra những giải pháp nhằm mở rộng quy mô tín dụng. Tuỳ theo đặc
điểm riêng của từng ngân hàng, mục tiêu theo đuổi riêng và tình hình phát triển
của nền kinh tế ở từng thời kỳ mà mỗi ngân hàng có quan điểm về mở rộng tín
dụng riêng và cố gắng tìm ra giải pháp thích hợp cho mình. Tuy nhiên tựu chung
lại, mở rộng tín dụng ngân hàng nên theo những quan điểm sau:
6
6
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
- Mở rộng tín dụng luôn đi đôi với việc bảo đảm chất lượng tín dụng, bởi
vì chỉ có như vậy hoạt động tín dụng mới thực sự hiệu quả và hoạt động tín dụng
có hiệu quả mới tạo điều kiện để các ngân hàng tiến hành mở rộng tín dụng ở
quy mô lớn hơn.
- Mở rộng tín dụng nhưng phải đúng pháp luật, bởi vì chỉ khi nào thực
hiện theo đúng những quy định của luật pháp, hoạt động kinh tế mới được Nhà
nước thừa nhận.
- Mở rộng tín dụng phải luôn đảm bảo nhu cầu và lợi ích của khách hàng,
bởi ngày nay họ mới chính là “thượng đế” của các ngân hàng.
- Mở rộng tín dụng phải luôn đảm bảo lợi nhuận và an toàn cho ngân
hàng, bởi đây luôn là mục tiêu cuối cùng của mọi ngân hàng.
3.2 Một số giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ở Việt Nam:
Sau khi nghiên cứu thực trạng quan hệ tín dụng giữa các NHTM và
KVNQD, nhất là sau khi tìm hiểu những hạn chế trong quan hệ tín dụng trên và
những nguyên nhân làm phát sinh những hạn chế đó, người viết mạnh dạn đưa
ra những giải pháp củng cố, tăng cường, mở rộng tín dụng đối với KVNQD của
các NHTM ở nước ta hiện nay như sau:
3.2.1 Nâng cao hiệu quả huy động vốn, tạo cơ sở vững chắc cho công tác cho
vay của các ngân hàng:
a. Hoàn thiện dịch vụ tiền gửi:
Có thể khẳng định, tiền gửi chính là nền tảng cho sự thịnh vượng của
ngân hàng, đây là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt
ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Đối với tất cả các ngân hàng,
tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó nó chính là nguồn gốc
sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Trong hoạt động ngân hàng
tiền gửi được phân ra làm hai loại, đó là tiền gửi giao dịch và tiền gửi phi giao
7
7
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
dịch. Ở nước ta, dịch vụ tiền gửi phi giao dịch dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm
đã khá quen thuộc với mọi người. Tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn
của những người muốn dành riêng một khoản tiền cho mục tiêu hay một nhu cầu
về tài chính dự tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này cao
hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch, trong khi đó chi phí duy trì và quản lý đối
với tài khoản tiền gửi tiết kiệm nói chung lại thấp, đó là lý do vì sao tiền gửi tiết
kiệm thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của các ngân
hàng. Chẳng hạn, trong năm 2002 vừa qua, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm bằng cả
nội tệ và ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương chiếm 46,74% tổng tiền gửi của
khách hàng, tăng 9,95% về tỷ trọng so với năm 2001
36
.
Trong khi đó, dịch vụ tiền gửi giao dịch ở nước ta lại chưa mấy phát triển.
Dịch vụ này thực chất là việc ngân hàng nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán
hộ cho khách hàng. Sở dĩ dịch vụ này ở nước ta chưa mấy phát triển là do nền
kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế “tiền mặt”, người dân Việt Nam, thậm chí cả
một số doanh nghiệp vẫn chưa có thói quen thanh toán qua hệ thống ngân hàng.
Theo IMF 2002a, ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền được lưu hành bên
ngoài hệ thống ngân hàng, khá cao so với tiêu chuẩn quốc tế (ví dụ ở Trung
Quốc, tỷ lệ này vào khoảng 13% trong năm 2001 - IMF 2002b). Mặc dù trong
thời gian qua các NHTM đã có nhiều cố gắng giảm sự phụ thuộc vào tiền mặt
của người dân cũng như của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, nhưng kết quả đạt được còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên, đây lại là khoảng
trống để các NHTM hướng tới bởi vì thông qua chiến lược này, các NHTM có
thể huy động được một lượng vốn huy động tương đối lớn.
Để đi theo hướng này, các NHTM trước hết phải hoàn thiện hệ thống rút
tiền tự động của mình theo hướng hợp tác hơn bởi vì, các NHTM trong nước
đang thực hiện chiến lược này theo kiểu “ mạnh ai người đó làm”, vừa tốn kém,
vừa không tiện ích đối với khách hàng. Hiện nay, mỗi NHTM có một hệ thống
36
36
Ngân h ng Ngoà ại thương, Báo cáo thường niên năm 2002.
8
8
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
máy rút tiền tự động (ATM) của riêng mình, khách hàng tham gia dịch vụ của
ngân hàng nào chỉ có thể rút tiền của ngân hàng ấy, vấn đề là ở chỗ không phải
ngân hàng cũng trang bị nhiều máy, bố trí ở nhiều nơi bởi vì giá một máy là khá
cao (30.000 USD). Vì vậy, hiệu quả nhất là các ngân hàng liên kết các máy ATM
lại, khi đó người làm thẻ ATM tại bất kỳ ngân hàng nào cũng có thể thực hiện
giao dịch tai ATM của các ngân hàng khác tại nhiều điểm giao dịch hơn. Bên
cạnh đó, các NHTM cần tích cực phát triển hơn dịch vụ trả tiền lương, điện
thoại, điện, nước qua tài khoản. Điều này không những thu hút thêm được một
khoản tiền nhàn rỗi tạm thời mà còn giúp giảm chi phí cho xã hội.
b. Nâng cao tỷ trọng nguồn vốn huy động dài hạn trong tổng nguồn vốn
huy động:
Theo một số nhà phân tích, mức hợp lý của nguồn vốn ngân hàng trong
đầu tư cho nền kinh tế ở các nước phát triển là khoảng 30% bên cạnh các kênh
huy động khác là thị trường chứng khoán, trái phiếu chính phủ..., trong khi đó ở
nước ta hiện nay, tỷ lệ này quá cao (lên đến trên 70%
37
). Đây vừa là gánh nặng,
vừa dễ gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Vì vậy, có thể khẳng định biện pháp
này chỉ manh tính chất tình thế, khi mà nền kinh tế nói chung và thị trường vốn
nói riêng chưa phát triển như mong muốn.
Thực hiện mục tiêu này, các NHTM nên quan tâm hơn đến các dịch vụ
tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất hợp lý. Đây sẽ là nguồn bổ sung vốn trung - dài
hạn lớn cho các ngân hàng bởi vẫn còn nhiều lượng tiền nhàn rỗi ổn định trong
nền kinh tế, hơn nữa từ trước đến nay khi một khách hàng đã chọn ngân hàng
nào để gửi tiền thì hầu như ít thay đổi trong thời gian gửi. Các khoản tiền gửi dù
có thời hạn là 1 năm, nhưng khi hết hạn thường được duy trì, tức là người gửi
tiền tiếp tục gửi tại ngân hàng đó, vì vậy, nguồn tiền gửi này là khá ổn định,
ngân hàng có thể sử dụng để cho vay thời hạn dài hơn. Bên cạnh đó, các công cụ
huy động vốn dài hạn như trái phiếu, kỳ phiếu cũng đóng vai trò quan trọng
37
37
Thời báo ngân h ng, sà ố 58, ng y 18/7/2003, trang 3.à
9
9
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
trong công tác huy động vốn trung - dài hạn của các ngân hàng do có đặc điểm
là kỳ hạn dài, tạo sự ổn định cho nguồn vốn. Hiện tại, mặt bằng lãi suất tiết kiệm
ngoại tệ thấp hơn lãi suất tiết kiệm nội tệ cho nên biện pháp huy động vốn bằng
ngoại tệ cũng là một hướng đầu tư với chi phí thấp đối với các ngân hàng.
3.2.2 Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh:
a. Chính sách tín dụng:
- Về lãi suất:
+ Chính sách lãi suất của các NH cần phải phản ánh tốt hơn mức độ rủi ro
của dự án kinh doanh. Trên thực tế, lãi suất mà các HNTM áp dụng cho các
DNNQD thường cao hơn các DNNN mặc dù chưa hẳn KVQD có dự án kinh
doanh khả thi hơn KVNQD nên đã tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các TPKT. Vì
vậy, với các khách hàng quen thuộc, có uy tín vay trả sòng phẳng, có dự án kinh
doanh khả thi cao nên được hưởng mức lãi suất ưu đãi, điều đó vừa khuyến
khích khách hàng tăng cường mối quan hệ với ngân hàng, vừa tích cực làm ăn
có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng.
+ Các NHTM cần phải đa dạng hoá các hình thức lãi suất sao cho phù hợp
với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng hình thức lãi suất
và từng kỳ hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những khoản vay thích
hợp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ
cho ngân hàng đúng hạn.
- Về chính sách bảo đảm tiền vay:
Từ trước đến nay, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các
NHTM thường yêu cầu khu vực kinh tế này phải có tài sản thế chấp, trong đó
phổ biến nhất là đất đai. Tuy nhiên, vấn đề này không phải lúc nào cũng thực
hiện được do việc chứng nhận của cơ quan công quyền hay Uỷ ban Nhân dân
cấp quận, huyện đối với tài sản thế chấp còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp. Do
10
10
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
đó, bên cạnh việc cho vay theo hình thức này, ngân hàng có thể nghiên cứu cho
vay theo các hình thức khác như kết hợp linh hoạt các hình thức bảo đảm bằng
tín chấp, tín chấp và thế chấp, tín chấp, thế chấp và bảo lãnh.
Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay thì việc cho vay bằng tín chấp
có nhiều khả năng phát triển. Tuy nhiên, cho vay bằng tín chấp không có nghĩa
là ngân hàng có thể bỏ qua những thủ tục cần thiết. Khách hàng vẫn cần phải có
số liệu chứng minh tình hình tài chính lành mạnh, phải có tài sản cố định, tài sản
lưu động đủ lớn và đối tượng cho vay là những sản phẩm có hiệu quả và ổn định
trên thị trường.
Bên cạnh đó, các biện pháp bảo đảm tiền vay đều phải lập thành văn bản,
nhưng lập chung với hợp đồng tín dụng hay lập thành văn bản riêng là do các
bên thoả thuận phù hợp với tính chất của của tài sản, không bắt buộc phải có
hợp đồng riêng như trước đây. Như vậy sẽ đơn giản hoá thủ tục cho các hộ gia
đình vay món nhỏ, hoặc khi khách hàng cầm cố các chứng từ có giá, vàng bạc
thì chỉ cần ghi vào hợp đồng chính là hợp đồng tín dụng mà không nhất thiết
phải có hợp đồng riêng về thế chấp, cầm cố. Đối với các loại thế chấp bất động
sản hoặc cầm cố các loại tài sản lớn, phức tạp thì các bên có thể thoả thuận lập
hợp đồng riêng để thuận cho việc quản lý và xử lý sau này.
- Về phương thức cho vay:
Phương thức cho vay phải đảm bảo thực hiện tốt cơ chế tín dụng và đảm
bảo cho KVNQD sử dụng vốn vay nhanh và tiết kiệm. Hiện nay, các ngân hàng
thường sử dụng phổ biến cho vay theo món, coi đó là biện pháp tối ưu để đảm
bảo an toàn vốn vay và tạo sự chủ động về mình. Nhưng phương thức cho vay
theo món đòi hỏi mỗi lần vay doanh nghiệp phải lập đơn và khế ước xin vay,
trình các chứng từ. Trong khi đó nhu cầu vốn hoạt động của các DNNQD làm ăn
có hiệu quả lại cần bổ sung thường xuyên, nên họ rất ngại vay theo phương thức
này. Do đó, ngân hàng cần áp dụng phương thức cho vay một cách linh hoạt,
phù hợp với đặc điểm chu chuyển vốn và độ tin cậy của khách hàng. Phương
11
11
Khãa luËn tèt nghiÖp TrÇn Hïng, A11-K38D
thức cho vay theo món nên áp dụng với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh
vay vốn không thường xuyên, chu chuyển vốn chậm, quá trình sản xuất kinh
doanh dịch vụ nhỏ lẻ hay từng thương vụ hoặc thiếu tín nhiệm trong quan hệ
vay-trả với ngân hàng. Ngân hàng cần vận dụng triệt để phương thức cho vay
luân chuyển vì đây là phương thức cho vay rất phù hợp với tính năng động với
tính nhanh nhạy của cơ chế thị trường. Phương thức này rất thuận lợi cho
KVNQD có số vòng quay thường xuyên, hàng ngày, tạo điều kiện để vốn tín
dụng luân chuyển đều đặn qua ngân hàng, qua đó tăng cường công tác kiểm tra,
kiểm soát trong quá trình sử dụng vốn vay.
b. Chính sách đối với khách hàng:
Thực tế hiện nay cho thấy các NHTM mới bắt đầu chú trọng tới công tác
marketing, hoạt động của phòng quản lý khách hàng chưa mang tính nghiệp vụ
cao và hiệu quả rõ nét. Để thực hiện công tác marketing khách hàng, các ngân
hàng nên có những chính sách sau:
- Trong giao tiếp, thiết lập quan hệ với khách hàng, cán bộ tín dụng phải
có nghệ thuật giao tiếp để làm sao lôi kéo được khách hàng. Muốn vậy, cán bộ
tín dụng phải hiểu được nhu cầu và mong muốn của khách hàng là gì và khả
năng có thể đáp ứng được những nhu cầu đó. Hơn nữa, trong giao tiếp rất cần sự
mềm mỏng, nhã nhặn, lịch sự, tế nhị.
- Trong quá trình cấp tín dụng, các ngân hàng cần phải tư vấn cho khách
hàng cách thức đầu tư , thời điểm hiệu quả, những rủi ro mà khách hàng có thể
gặp phải để khách hàng sớm ngăn chặn và tìm biện pháp khắc phục. Khi khách
hàng gặp khó khăn về vốn, ngân hàng phải tìm cách giúp đỡ khách hàng để
khách hàng không bị tổn thất và có thể tiếp tục hoạt động của mình.
- Hiện nay, một số DNNQD chưa hiểu đầy đủ về ngành ngân hàng do đó
nhiều khi đã hội đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng nhưng các doanh nghiệp
này vẫn còn nhiều e ngại trong việc thiết lập quan hệ tín dụng với ngân hàng.
12
12