Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của nhtm nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.65 KB, 126 trang )

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO
Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN


TRầN ĐứC TOảN
TĂNG CƯờNG QUảN Lý NHà NƯớC
ĐốI VớI HOạT ĐộNG KINH DOANH CủA NHTM
NHằM KIềM CHế LạM PHáT, ổN ĐịNH KINH Tế Vĩ MÔ
Chuyên ngành: KINH Tế PHáT TRIểN
Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYễN THANH Hà
Hµ néi, n¨m 2011
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
trong đó có sự hỗ trợ của thầy hướng dẫn là PGS.TS Nguyễn Thanh Hà
và những người tôi đã cảm ơn trong luận văn này.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực
và chưa được công bố trong bất cứ công trình nào.
Nam Định, ngày 25 tháng 12 năm 2011
Tác giả
Trần Đức Toản
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy PGS.TS
Nguyễn Thanh Hà – Trưởng phòng Tổng hợp trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã
tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn
thạc sỹ.
Xin phép cho tôi được gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô thuộc
Khoa Kế hoạch và Phát triển; quý thầy, cô thuộc Viện Đào tạo sau đại học và các
bạn học viên lớp Cao học Kinh tế phát triển 18L (khóa 2009-2011) trường Đại học
Kinh tế Quốc dân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi suốt thời gian học vừa qua.


Những lời cảm ơn sau cùng xin dành cho bố mẹ và các anh chị em trong gia
đình đã hết lòng quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành được luận
văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nam Định, ngày 25 tháng 12 năm 2011

Trần Đức Toản
MỤC LỤC
1.2 Quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của NHTM trong kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế 15
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM tại Việt Nam 29
PHẦN PHỤ LỤC 90
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB : Asian Development Bank - Ngân hàng Phát triển Châu Á
BĐS : Bất động sản
CIC : Hệ thống thông tin tín dụng
CP : Chính phủ
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
GDP : Gross domestic product - Tổng sản phẩm Quốc nội
HTX : Hợp tác xã
ISO : International Organization for Standardization
Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
KĐT : Khu đô thị
KTQD : Kinh tế Quốc dân
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
NHTW : Ngân hàng Trung ương
TCCD : Tổ chức tín dụng

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG
Bảng 2.1: Doanh số cho vay của các NH chia theo một số tiêu thức Error:
Reference source not found
Bảng 2.2: Nguồn vốn và dư nợ thời điểm 31/12/2010, số liệu của 1 số NHTM
Error: Reference source not found
Bảng 3.1: Mẫu báo cáo cho vay ngoại tệ (tháng /2011) Error: Reference
source not found
Bảng 3.3: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ
379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ
lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng USD áp dụng theo QĐ
1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011(áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 9/2011)
Error: Reference source not found
HÌNH VẼ
1.2 Quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của NHTM trong kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế 15
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM tại Việt Nam 29
PHẦN PHỤ LỤC 90
Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN


TRầN ĐứC TOảN
TĂNG CƯờNG QUảN Lý NHà NƯớC
ĐốI VớI HOạT ĐộNG KINH DOANH CủA NHTM
NHằM KIềM CHế LạM PHáT, ổN ĐịNH KINH Tế Vĩ MÔ
Chuyên ngành: KINH Tế PHáT TRIểN
Hµ néi, n¨m 2011
ii
LỜI MỞ ĐẦU
Được kế thừa từ hệ thống Ngân hàng Đông Dương thời Pháp tuy nhiên

phải đến tháng 5 năm 1990 hệ thống NHTM mới chính thức ra đời qua 2 pháp
lệnh Ngân hàng (Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và
Công ty tài chính) với tên gọi ban đầu là Ngân hàng chuyên doanh. Qua hơn
20 năm hoạt động, hệ thống NHTM của Việt Nam ngày càng phát triển và
tiêu chuẩn hoá theo thông lệ Quốc tế. Ngày nay hệ thống NHTM non trẻ của
Việt Nam đang phải đứng trước các thử thách của việc hội nhập WTO với
muôn vàn rủi ro và sức ép cạnh tranh đồng thời phải điều hoà với mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay ảnh hưởng không nhỏ tới
sự phát triển của kinh tế Việt nam. Vấn đề kiềm chế lạm phát, ổn định xã hội
đòi hỏi có sự kết hợp của rất nhiều các thành phần kinh tế, từ Trung ương tới
địa phương, từ Nhà nước tới các Doanh nghiệp, cá nhân, đồng thời việc giải
quyết ổn thỏa các mối quan hệ lợi ích giữa các thành phần đó cũng đang đặt
ra cho Chính phủ những bài toán hóc búa. Và trong mục tiêu chung đó thì
quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương
mại đang rất được quan tâm.
Hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại có vai trò gì
trong nền kinh tế nói chung, tại Việt Nam hiện nay vai trò này ra sao? Vai trò
của các NH này trong cuộc chiến chống lạm phát, ổn định kinh tế như thế
nào? Tại sao cần phải tăng cường quản lý Nhà nước với hoạt động của các
NHTM? Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các
NHTM nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế được đặt ra như thế nào?
Các vấn đề này sẽ được trình bày trong luận văn với tên đề tài là: “Tăng
cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của NHTM nhằm
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô”
i
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM NHẰM
MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ
1.1 Vai trò NHTM trong việc tham gia kiềm chế lạm phát, ổn định kinh

tế vĩ mô
Hoạt động của NHTM giữa vai trò quan trọng chính sách tiền tệ của Nhà
nước với các công cụ điều tiết kinh tế chính, NHTM có chức năng rất quan
trọng là chức năng tạo tiền, với nhân tố ảnh hưởng tới mức cung tiền của hệ
thống NHTM nói chung là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Thông qua 2 chức năng tín
dụng và chức năng thanh toán, NHTM giúp cho hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt trở nên phổ biến và tạo ra lượng tiền thực tế gấp nhiều lần
lượng tiền do quốc gia đó in ra và lưu hành trên thị trường. Với một nền kinh
tế mà tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào tín dụng như Việt Nam hiện nay thì
các hoạt động kinh doanh của các NHTM tác động rất lớn tới hiệu quả của
các chính sách điều chỉnh kinh tế của Nhà nước và ảnh hưởng trực tiếp tới sự
phát triển ổn định của kinh tế Việt Nam.
1.2 Quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
Quản lý của Nhà nước với hoạt động kinh doanh của NHTM là sự can thiệp,
điều hành vào các hoạt động kinh doanh của NHTM nhằm đạt được mục tiêu kinh
tế đã đặt ra. Các công cụ quản lý của Nhà nước đối với NHTM bao gồm:
-Công cụ luật chính sách, hiện nay Luật các tổ chức tín dụng
47/2010/QĐ12 được Quốc hội thông qua ngày 16/06/2010 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2011 là văn bản luật cao nhất, ngoài ra các Bộ, cơ quan ngang bộ
dưới sự điều hành của Nhà nước ban hành các văn bản quy định riêng trong
lĩnh vực của mình để ràng buộc hoạt động kinh doanh của NH.
-Công cụ kiểm soát giám soát hoạt động kinh doanh của các NHTM bằng hệ
thống các báo cáo tín dụng, dịch vụ, hoạt động thanh tra giám sát của các cơ quan
có thẩm quyền của NHNN, thanh tra chính phủ và giám sát chéo giữa các NH
-Các công cụ điều tiết kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động kinh
ii
doanh của các NHTM: công cụ tái cấp vốn, công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
nghiệp vụ thị trường mở, công cụ lãi suất chiết khấu, công cụ hạn mức tín
dụng, công cụ tỷ giá hối đoái.

Quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của NHTM có vai trò
rất quan trọng, cả về ý nghĩa chính trị lẫn kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu
vĩ mô, an ninh kinh tế quốc phòng, đảm bảo tự lực tự cường. NHTM là trung
gian tài chính, là chất xúc tác tạo ra hiệu quả hoạt động nền kinh tế, nó có thể
giúp cho kinh tế quốc gia nhanh chóng đạt được mục tiêu phát triển, hoặc nó
cũng có thể làm đẩy nhanh quá trình suy thoái, lạm phát hay khủng hoảng. Do
đặc thù hoạt động, hệ thống NHTM rất dễ bị tổn thương dây chuyền, từ một
vài NH có thể lan ra cả hệ thống, từ đó tác động tới cả nền kinh tế. Các
NHTM là các đối tượng quan trọng không chỉ với chính sách tiền tệ mà còn
với cả chính sách tài khoá của Nhà nước.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI CÁC
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
2.1 Tổng quan về hệ thống các NHTM của Việt Nam hiện nay
Hệ thống NH Việt Nam là hệ thống ngân hàng 2 cấp gồm NHNN – Ngân
hàng Trung ương và hệ thống các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Sau gần 3 thập kỷ tiến hành cải cách, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
trải qua 2 giai đoạn phát triển đáng lưu ý:
(i) Giai đoạn đầu 1990 - 1996 là sự tăng lên nhanh chóng về số lượng
và loại hình các tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm đáp ứng sự tăng vọt của cầu
về dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn đầu “bung ra” của thời kỳ chuyển đổi
(ii) Giai đoạn tiếp theo từ 1997 tới nay là củng cố, chấn chỉnh hệ thống
ngân hàng.
Hiện nay hệ thống NHTM đã phát triển nhanh chóng với khoảng 40 NHTM
và gần 20 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh tại Việt Nam
Hệ thống NHTM Việt nam (Không kể các NH 100% vốn nước ngoài
hoặc liên doanh) nhìn chung đều có quy mô tương đối nhỏ, phổ biến với số
vốn điều lệ từ 3-6 nghìn tỷ đồng, về năng lực tài chính, trình độ công nghệ và
iii
quản lý vẫn còn yếu kém so với các NHTM trong khu vực.
Ngày nay các NHTM đã và đang nhanh chóng nâng cao số lượng và chất

lượng các sản phẩm dịch vụ tín dụng theo kịp thông lệ Quốc tế.
Về ngoại hối hoạt động mua bán, cho vay ngoại tệ của các NHTM đã
giúp hỗ trợ các Doanh nghiệp trong nước thuận tiện và chủ động trong việc
giao dịch thanh toán với các đối tác nước ngoài, thúc đẩy việc xuất nhập khẩu
phát triển. Các NHTM Việt nam đã liên kết với nhiều tổ chức cung cấp dịch
vụ chuyển tiền nhanh toàn cầu giúp cho việc chuyển tiền thanh toán nhanh
chóng kịp thời, chi phí thấp.
Cùng với sự phát triển kinh tế Việt Nam, các NHTM là nguồn cung cấp
vốn, các sản phẩm bảo lãnh hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là
công cụ thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập
trung vốn và góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Với thực tế của Việt nam
hiện nay các Doanh nghiệp hầu hết đều là các DN vừa và nhỏ, vốn ít hoạt động
chủ yếu nhờ nguồn vốn chiếm dụng từ thương mại và vốn vay Ngân hàng thì
sự hỗ trợ tài chính từ các NHTM như hiện nay là điều hết sức cần thiết.
Tuy nhiên hoạt động kinh doanh của các NHTM vẫn theo tâm lý số
đông, chưa có chiến lược lâu dài, dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy đầu tư vào
các ngành nghề nóng trong khi khả năng thẩm định rủi ro còn nhiều hạn chế
(Tiêu biểu là các lĩnh vực đầu tư cho vay BĐS, chứng khoán). Thông tin trao
đổi giữa các NHTM còn nhiều hạn chế hoặc không có sự hợp tác.
Sự bùng nổ số lượng các NHTM ở Việt Nam trong những năm gần đây
cũng đi kèm theo hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng không
nhỏ tới sự ổn định của thị trường tài chính và hiệu quả của các chính sách
quản lý kinh tế của Nhà nước.
2.2 Đánh giá các thực trạng và tác động của quản lý Nhà nước với các
hoạt động của các NHTM ở Việt Nam hiện nay trong nhiệm vụ chống
lạm phát, ổn định kinh tế
2.2.1. Đánh giá thực trạng hoạt kinh doanh của NHTM ở Việt nam hiện nay
2.2.1.1 Các thành tựu đạt được các năm gần đây của NHTM
Trong các năm gần đây hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã không ngừng
iv

lớn mạnh về cả số lượng và chất lượng. Sự phát triển của ngành Ngân hàng
nằm trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong, ngoài nước và những biến
chuyển phức tạp của kinh tế thế giới. Các NHTM mặc dù gặp nhiều khó khăn
trong các cuộc khủng hoảng, nhưng đã tận dụng tốt những thời cơ vượt qua
không ít những cam go trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để gặt hái
được những thành tựu to lớn. Các NHTM đã ngày càng phát triển loại hình
dịch vụ. Quy mô và chất lượng hoạt động của các NHTM ngày càng tăng;
năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, năng lực cạnh tranh, trình độ
ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng được nâng lên.
2.2.2.2 Đóng góp của NHTM với nền kinh tế Việt nam
Thứ nhất, đã đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế
lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải
thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh và hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự
tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục.
Thứ tư, hoạt động ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các ngành kinh tế chủ chốt. Bên cạnh việc
cho vay thương mại đối với các tổ chức và cá nhân, hệ thống Ngân hàng còn
là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, góp
phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập và
giữa các vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Trong điều kiện thị trường tài chính còn sơ
khai, tín dụng ngân hàng vẫn là kênh chủ yếu cung ứng vốn cho chuyển dịch
cơ cấu và phát triển kinh tế trong suốt hơn 20 năm qua.
2.2.2.3 Các tồn tại, hạn chế trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt nam
hiện nay
Hoạt động kinh doanh của các NHTM còn nhiều tồn tại trong hoạt động,

về nghiệp vụ, hạn chế về chuyên môn
v
- Hạn chế trong nghiệp vụ thẩm định rủi ro: tỷ lệ nợ xấu của các Ngân
hàng Thương mại Nhà nước cao với các NHTM cổ phần, như Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỷ lệ nợ xấu là 6.67%, Ngân hàng
Vietinbank là 3.47 trong khi các NHTM cổ phần khác tỷ lệ nợ xấu chỉ khoảng
từ 2,9%, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành là 3.04%. Tỷ lệ nợ xấu tập trung phần lớn tại
2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
- Thiếu sự hợp tác giữa các NH, giữa các NH với cơ quan hữu quan
(Sở tài nguyên, sở tư pháp, cơ quan Công an, Toà án, Trung tâm bán đấu giá
tài sản, trung tâm định giá tài sản…) Các NH chưa có sự gắn kết trong hoạt
động và thường xảy ra tình trạng che dấu thông tin khách hàng. Về hoạt động
tín dụng huy động vốn, thường xuyên xảy ra tình trạng có NH thừa vốn nhưng
không đẩy tín dụng ra được vì hạn chế trần tăng trưởng tín dụng 20% trong
khi có Ngân hàng cho vay vượt quá vốn huy động và buộc phải dừng hoặc
huy động tiền từ thị trường 2 đẩy sang thị trường 1, điều này là trái pháp luật.
- Khung pháp luật chưa đầy đủ cả về quy định hoạt động lẫn sự hỗ trợ
trong quá trình hoạt động do đó phát sinh nhiều vấn đề trong hoạt động Ngân
hàng
Các hoạt động kinh doanh của NHTM ảnh hưởng tới nền kinh tế
- Tha hoá đạo đức, ảnh hưởng tới cạnh tranh lành mạnh, mặt khác gây
ra tiêu cực lớn cho xã hội và thiệt hại cho ngành. Sự bùng nổ nhanh chóng về
quy mô của các NHTM gần đây gắn liền với sự gia tăng các nguy cơ về rủi ro
tác nghiệp với các vi phạm về đạo đức của CB NH.
- Thiếu tính chuyên nghiệp, kinh doanh tự phát: đó là cạnh tranh lãi
suất, Kinh doanh ngoại tệ tự phát làm thị trường ngoại tệ náo động, gây sức
ép cho quản lý ngoại hối, đầu tư theo thị hiếu số đông, thiếu tầm nhìn vĩ mô
(Tiêu biểu như ngành đóng tàu, BĐS v.v )
2.2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước với hoạt động của các NHTM nhằm
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô

Thực trạng quản lý Nhà nước với hoạt động NHTM trong thời gian vừa
qua có rất nhiều lỏng lẻo trên nhiều phương diện.
- Về lãi suất cho vay, Nhà nước không đảm bảo được mức lãi suất hợp
vi
lý, từ năm 2008 đến nay lãi suất cho vay luôn giao động với biên độ lớn, góp
phần đẩy gia tăng chi phí sản xuất kinh doanh của xã hội.
- Lãi suất cho vay thực tế của các NHTM thường cao hơn lãi suất niêm
yết, Sự cạnh tranh ngầm giữa các Ngân hàng về huy động vốn bằng lãi suất đi
đêm đã gây mất ổn định cho thị trường này, bắt nguồn từ quy mô của các NH
và sự quản lý lỏng lẻo của Nhà nước.
- Nhà nước không quản lý được tăng trưởng tín dụng quá nóng tại một
số ngành nghề. Nhiều ngành nghề lĩnh vực được quá nhiều ưu đãi về vốn do
đó khi phát sinh rủi ro thì ảnh hưởng kinh tế nghiêm trọng.
- Chưa sử dụng hệ thống Ngân hàng như một công cụ để điều chỉnh
một số hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế như: thị trường vàng, Bất động
sản, ngoại hối,
- Vấn đề rủi ro thanh khoản, chất lượng tín dụng chưa được quan tâm
2.2.2.3 Các nguyên nhân chính ảnh hưởng tới quản lý Nhà nước với các hoạt
động của các NHTM trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế.
Nguyên nhân sâu xa làm quản lý của Nhà nước với hoạt động kinh
doanh của NHTM kém hiệu quả là do các mệnh lệnh, quy định, chính sách
kinh tế do Nhà nước ban hành mang tính chủ quan, không sát với thực tế. Các
nhóm mục tiêu đã đặt ra của Nhà nước được đặt ra với mục đích tốt đẹp
nhưng do hệ thống chế tài chưa hoàn thiện do đó kết quả của nó chưa đạt hiệu
quả cao.
Các nguyên nhân chính ảnh hưởng tới quản lý Nhà nước với các hoạt
động của các NHTM trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế là:
- Chính phủ bị hạn chế trong tầm nhìn đối với nền kinh tế hiện đại. Do
tầm nhìn hạn chế ở góc độ nhà nước về trình độ và tầm mức siêu vĩ mô của
kinh tế thị trường hiện đại, nên Chính phủ thường bị động trong vấn đề giải

quyết các biến động kinh tế.
- Hệ thống kiểm tra giám sát chưa hoàn thiện, thừa số lượng nhưng hạn
chế về chất lượng.
- Quy định, luật pháp chưa rõ ràng, đầy lỗ hổng
- Các NHTM thường là các tổ chức kinh tế lớn, có tiếng nói và có khả
vii
năng can thiệp vào các chính sách, chính vì vậy mà các chính sách, các cải
cách do Chính phủ đưa ra thường bị giảm hiệu lực (Đơn cử như việc lãi suất
đi đêm vượt 14% của các NHTM vừa qua hoặc tỷ trọng cho vay phi sản xuất
của nhiều NHTM vẫn đang vượt mức 20% và đến 31/12/2011 khó có thể đảm
bảo giới hạn)
- Mức độ phát triển của các NHTM về trình độ nghiệp vụ lẫn công
nghệ vẫn chậm phát triển so với khu vực và thế giới, do đó ở một mức độ nào
đó các NHTM chưa thể hỗ trợ Chính phủ trong việc thực thi các chính sách
để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NHTM TRONG VIỆC KIỀM CHẾ
LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ
3.1 Phương hướng nâng cao vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế vĩ mô
Nâng cao vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế vĩ mô thực tế là nâng
cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu
kinh tế đặt ra với các mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn.
Tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI diễn
ra vào tháng 10 năm 2011 đã nhất trí cao về định hướng các giải pháp chủ yếu
mà cả hệ thống chính trị phải đồng tâm hiệp lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện, tạo sự chuyển biến thực sự trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Hội
nghị Trung ương lần này đã xem xét và quyết định là phải tái cơ cấu nền kinh
tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đây là nhiệm vụ rất lớn và phức tạp,
đòi hỏi phải được triển khai thực hiện đồng bộ trong tất cả các ngành, các lĩnh

vực trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương, đơn vị cơ sở trong nhiều
năm. Trong 5 năm tới, cần tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất là: Tái
cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính
với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh
tế và tổng công ty nhà nước.
Với nội dung tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
viii
chức tài chính theo hướng sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng thương mại, các
tổ chức tài chính nhỏ để có số lượng phù hợp các ngân hàng thương mại và tổ
chức tài chính có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh
khoản và an toàn hệ thống. Đây có thể xem là phương hướng quản lý chung
trong dài hạn của Nhà nước với hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Trong ngắn hạn, tại các cuộc họp thảo luận của Quốc hội Việt Nam
khóa 13, vấn đề kiềm chế lạm phát ổn định xã hội là hiện là mục tiêu quan
trọng hàng đầu, từ đó cho thấy phương hướng quản lý của Nhà nước với hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại như sau:
- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát, với nội dung này,
Nhà nước sẽ hạn chế cung tiền tệ qua việc hạn chế tín dụng của các Ngân hàng.
-Ưu tiên phát triển tín dụng sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, điều hành chủ
động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi
suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát. Các mảng cho
vay tiêu dùng, bất động sản, chứng khoán v.v sẽ bị hạn chế tăng trưởng.
- Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn
biến thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ,
bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và
tăng dự trữ ngoại hối.
3.2 Các giải pháp nhằm nâng cao quản lý Nhà nước đối với hoạt động

kinh doanh của các NHTM với các mục tiêu đặt ra
Các nhóm giải pháp được tác giả trình bày vào 3 nhóm, trong đó quan
trọng nhất là nhóm giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về luật và chính
sách, cùng với các biện pháp giám sát, cơ chế kiểm tra thưởng phạt.
Nhóm giải pháp sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế được đưa ra với
mục đích hỗ trợ, là biện pháp kỹ thuật tác động tới lượng cung tiền mặt trong
lưu thông và cuối cùng là tác động tới chỉ số lạm phát.
3.2.1 Nhóm giải pháp về luật và chính sách
Về vấn đề tăng trưởng tín dụng của các NHTM
ix
Trong thời điểm hiện nay thì cần hạn chế tín dụng phi sản xuất để ưu
tiên cho các ngành SX tạo ra của cải nhưng về lâu dài khi nền kinh tế phát
triển ổn định, thì tín dụng phi sản xuất vẫn cần phát triển để kích thích cho
nền kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng đời sống của người dân.
Vấn đề tăng trưởng tín dụng cần hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng
ở một số ngành trong khi bỏ qua các ngành nông nghiệp, các khu vực kinh tế
kém phát triển (khu vực nông thôn, miền núi, khu vực có tầm chiến lược quốc
phòng v.v ) tức là cần vạch ra rõ sự cần thiết với các NHTM trong việc đầu
tư vào các các ngành, các khu vực kinh tế chiến lược về an ninh chính trị, ổn
định và duy trì công bằng xã hội về lâu dài.
Vấn đề tăng trưởng tín dụng cần gắn với kế hoạch chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế của Chính phủ hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Đó là ưu tiên tăng
trưởng các các ngành Công nghiệp xanh, phát triển nông nghiệp theo hướng
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Cần có các quy định chặt chẽ hơn nữa trong vấn đề thẩm định rủi ro tín
dụng và rủi ro thanh khoản, khi các Ngân hàng đã tăng cường chất lượng tín
dụng đương nhiên vấn đề tăng trưởng tín dụng Nhà nước sẽ không cần quản
lý quá chặn chẽ.
Về vấn đề quản lý thị trường vàng thông qua các NHTM
Các giải pháp quản lý thị trường vàng thông qua các Ngân hàng thương

mại: khuyến khích cho các Ngân hàng là nơi bảo quản cất giữ hộ và cung cấp
các dịch vụ liên quan tới vàng. Qua hệ thống các NHTM, Nhà nước có thể tác
động tới tâm lý của người dân về lâu dài như sau:
- Để các NHTM phát triển lĩnh vực sàn giao dịch vàng với các ràng
buộc sau:
+ Không cho vay vàng để tránh nguồn tín dụng phi sản xuất gia tăng, tuy
nhiên các NHTM có thể nhận vàng miếng làm tài sản đảm bảo để vay vốn.
+ Nhà nước không can thiệp quá sâu vào thị trường mà chỉ tác động vào thị
trường khi có biến động về giá vàng cũng như không nên hiện thực ý tưởng huy
động vàng trang dân cư thông qua các NHTM để sử dụng vào mục đích công.
+Thường xuyên có sự kiểm tra và công khai về chất lượng, khối lượng
x
vàng hiện có tại Ngân hàng để tạo lòng tin của người liên quan.
+ Ngân hàng TM là nơi nhận gửi, lưu trữ vàng của cá nhân, tổ chức,
Ngân hàng sẽ phát hành chứng chỉ tiền gửi vàng cho người gửi, các Ngân
hàng vẫn có quyền đầu tư kinh doanh vàng nhưng khối lượng đầu tư cần phải
giới hạn, và việc đầu tư sẽ phải qua một công ty kinh doanh vàng của Ngân
hàng đó.
+ Kết hợp với mục tiêu điều chỉnh dòng tiền lưu thông trong dân chúng,
Nhà nước có thể dùng việc nhập - xuất khẩu vàng, cung cấp hoặc dự trữ vàng
trong kho của mình để làm một kênh điều tiết dòng tiền trong dân chúng.
Về quản lý ngoại hối
Với vấn đề quản lý ngoại tệ với các NHTM, có một số điểm sau:
+ Không nên khuyến khích các NHTM cho vay để thanh toán ra nước
ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng vay có ngoại tệ để trả
nợ vay từ mua của tổ chức tín dụng cho vay hoặc tổ chức tín dụng khác được
cam kết bằng văn bản, tiến dần đến việc ngừng cho vay các đối tượng này.
+ Không sử dụng các biện pháp tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại
tệ vì đây biện pháp này làm tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Thay vào việc tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì Nhà nước cần quản lý chặt cho vay ngoại tệ.

+ Tiếp tục mở rộng và quản lý chặt chẽ mạng lưới thu đổi ngoại tệ của
các Ngân hàng tránh việc tuồn ngoại tệ ra thị trường chợ đen
+ Đa dạng hóa cơ cấu dự trữ ngoại hối và tăng cường công tác quản trị
rủi ro tỷ giá và lãi suất.
+ Khuyến khích việc cho vay ngoại tệ đối với các ngành xuất siêu bằng
các biện pháp hỗ trợ lãi suất, ưu đãi thuế v.v
+ Song hành với việc sử dụng công cụ tỷ giá làm công cụ hỗ trợ xuất
khẩu, chúng ta vẫn phải chú trọng đến phát triển dựa vào năng suất lao động
hàm lượng chất xám trong sản phẩm và chất lượng sản phẩm làm nền tảng
của việc cạnh tranh xuất khẩu, đó mới thực sự là yếu tố phát triển bền vững.
+ Các Ngân hàng cần ấn định tỷ giá mua, bán của đồng Việt Nam đối
với đô la Mỹ theo đúng quy định Ngân hàng Nhà nước trong hệ thống của tổ
chức tín dụng; chủ động hoàn thiện quy định nội bộ và áp dụng các biện pháp
xi
phòng ngừa rủi ro cần thiết trong kinh doanh ngoại tệ.
Đến vấn đề quản lý tín dụng bất động sản
Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế nhất là thời điểm hiện
nay Chính phủ cần thắt chặt hơn nữa việc cho vay lĩnh vực BDS, yêu cầu cân
nhắc trong xét duyệt mức giải ngân các dự án BĐS. Có thể bắt buộc mức vốn
tự có trong các dự án cho vay BĐS của người vay lên từ 50 - 70% (Hiện nay
các Ngân hàng đang áp dụng mức vốn tự có của khách hàng trong các dự án
cho vay BĐS từ 20 - 30%). Song song với thắt chặt tín dụng BĐS là quản lý
các nguồn đầu tư vốn từ nước ngoài vào BĐS với nguồn để tránh việc giới
đầu tư nước ngoài trục lợi do thao túng BĐS. Khuyến khích dành các nguồn
lực này cho các lĩnh vực quan trọng khác.
Trong dài hạn, sau khi khủng hoảng kinh tế thế giới và trong nước kết thúc,
vấn đề quản lý tín dụng BĐS vẫn cần thắt chặt và giới hạn để tránh đầu cơ.
Về vấn đề khả năng thanh khoản của các NHTM,
Để giảm thiểu rủi ro thanh khoản, góp phần ổn định thị trường vốn trước
hết cần ổn định tâm lý của người gửi

Giảm thiểu rủi ro thanh khoản bắt buộc phải xây dựng hệ thống kiểm
soát nội bộ của từng Ngân hàng về kế hoạch huy động và sử dụng vốn, phải
lập kế hoạch vốn cụ thể.
Cần có quy định chặt chẽ mảng tín dụng liên Ngân hàng (thuộc thị trường
2), khống chễ lãi suất liên ngân hàng tương tự như lãi suất thông thường. Kèm
theo là các hoạt động thanh tra giám sát xử phạt như với thị trường 1
Mặt khác NHNN cần phát triển nghiệp vụ thị trường mở với lãi suất hợp
lý để hỗ trợ các NH trong vấn đề huy động và sử dụng vốn linh hoạt, quản lý
thị trường vốn liên ngân hàng giúp các NHTM quy mô nhỏ có thêm một
nguồn vốn có thể tiếp cận.
Và cuối cùng là quản lý chất lượng tín dụng của các Ngân hàng TM
Nhà nước cần khuyến khích các NH sử dụng tiêu thức thứ 2 (tiêu thức
định tính tức là phân loại nợ dựa trên kết quả Hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ) để phân loại nợ khách hàng. Đồng thời xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về
các tiêu thức phân loại nợ khách hàng cả Doanh nghiệp và cá nhân cho các
xii
Ngân hàng.
Đưa chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại làm tiêu thức để
áp dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc giám sát kiểm tra, cơ chế thưởng phạt
Cơ chế thưởng phạt với hoạt động kinh doanh của các NHTM:
- Sử dụng nhóm các biện pháp ràng buộc kinh tế:
+ Sử dụng việc bắt buộc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm làm giảm quy
mô tín dụng của các NH khi các NH vi phạm
+ Hạn chế phạm vi kinh doanh,
+ Dùng biện pháp xử phạt bằng tiền và quy định các tình huống xử phạt
- Sử dụng biện pháp khác:
+ Ngừng hoạt động chi nhánh, phòng giao dịch các NHTM nếu để xảy
ra vi phạm. Đây là biện pháp các NH rất ngại vì nó đánh vào uy tín mà
NHTM phải mất nhiều thời gian mới có thể gây dựng.

+ Đình chỉ hoặc miễn nhiệm chức vụ của người quản lý, người điều
hành của TCTD.
Về phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thanh
kiểm tra giám sát hoạt động tài chính của các NHTM, Nhà nước cần:
- Gắn kết mục tiêu vĩ mô với mục tiêu thanh, kiểm tra giám sát hoạt
động của các NHTM, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra với cơ
quan thuế, với các cơ quan Chính phủ có liên quan.
- Nâng cao chất lượng nhân sự cả về đạo đức lẫn chuyên môn bộ máy
thanh tra, giám sát cần tinh giản.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo giữa các văn bản các
quy định.
3.2.3 Nhóm giải pháp sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế
Về cơ bản, Nhà nước thực hiện công cụ tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở, công cụ hạn mức tín dụng, kể cả lãi suất chiết
khấu đều nhằm mục đích cuối thay đổi lượng cung tiền trong lưu thông, dù là
ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp.
Về cơ bản Nhà nước cần quan tâm tới các giải pháp điều chỉnh
xiii
lượng cung tiền trong lưu thông:
Lượng cung tiền trong lưu thông phụ thuộc vào một hệ số rất quan
trọng đó là hệ số nhân tiền tệ (m), hầu hết các công cụ của chính sách tiền tệ
đều xoay quanh việc điều chỉnh hệ số này.
Trong trường hợp kinh tế diễn ra lạm phát, thiểu phát hay giảm phát,
Chính phủ sẽ tiến hành các biện pháp làm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều
chỉnh lượng tiền cung ra trên thị trường (Điều chỉnh M) bằng các chính sách
chi tiêu công hoặc thay đổi vốn hoạt động cho các NHTM (Bằng các nghiệp
vụ thị trường mở, giới hạn hạn mức tín dụng hoạt động của các NH). Trên
thực tế, việc đề xuất các chính sách rất phức tạp và phải cân nhắc tới nhiều
khía cạnh do nó có thể gây ra nhiều phản ứng trái chiều.
• Với công cụ tái cấp vốn: Các NHTM hiện nay chủ yếu hoạt động hạch

toán độc lập, phải tự chủ về nguồn vốn chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy công cụ tái cấp vốn dần bị thay thế
bởi các công cụ khác và chỉ xuất hiện tại các Ngân hàng TM thuộc quản lý
của Nhà nước.
Nhà nước chỉ nên phát triển công cụ này đối với các trường hợp đặc
biệt khi cần hỗ trợ vốn cho các NH đối với các dự án, chương trình mang tính
phát triển các khu vực kinh tế nông thôn, xóa đói giảm nghèo – tức là các dự
án mang nhiều rủi ro.
• Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc (TLDTBB): tức là thay đổi đổi r, Tỷ lệ
dự trữ bắt buộc ảnh hưởng tới hệ số nhân tiền bắt buộc m từ đó cũng ảnh
hưởng trực tiếp tới tổng lượng cung tiền trên thị trường.
Vì vậy để đối phó với thực tế lạm phát hiện nay, bằng công cụ tỷ lệ dự
trữ bắt buộc NHNN cần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc VNĐ ở mức vừa phải
và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc USD để giảm thiểu tăng trưởng tín dụng ngoại tệ.
Chỉ khuyến khích các NHTM cho vay ngoại tệ với các trường hợp như trên đã
nêu (Ưu tiên các ngành có xuất siêu, hạn chế ngoại tệ hóa nền kinh tế)
• Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Hiện nay trên nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu giao dịch mua bán các
giấy tờ có giá do Nhà nước phát hành (Kể cả các loại trái phiếu do Chính
xiv
quyền địa phương phát hành), do đó bỏ qua thị trường mua bán vốn giữa các
Tổ chức tín dụng.
Để phát triển nghiệp vụ thị trường mở đồng thời với việc quản lý luồng
tiền đầu tư chéo giữa các NHTM, Nhà nước cần mở rộng thêm hàng hóa giao
dịch trên thị trường này với các Trái phiếu của các NHTM để giải quyết tình
trạng thừa thiếu vốn huy động của các NHTM. Khối lượng giao dịch các loại
giấy tờ có giá kiểu này được quy định bởi quy mô, chất lượng tín dụng và
đánh giá sự tuân thủ pháp luật, quy định của Nhà nước của các NHTM
• Công cụ lãi suất chiết khấu và vấn đề quản lý lãi suât trên thị
trường vốn:

Đây là công cụ hỗ trợ cho nghiệp vụ thị trường mở đã nêu ở trên. Bằng
công cụ này, NHTW điều tiết lượng tiền vay của các NHTM để đạt mục đích
quản lý lượng tiền cung ra thị trường thông qua thị trường mở.
Cần cân nhắc kỹ việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu kết hợp với việc điều
chỉnh giới hạn tín dụng của các Ngân hàng.
Nếu lãi suất chiết khấu thấp sẽ kích thích tăng trưởng tín dụng (Chi phí
vay vốn giảm) làm cung tiền trong lưu thông tăng, giảm lãi suất chiết khấu sẽ
là động thái tác động tới việc giảm lãi suất huy động và góp phần giảm lãi
suất cả cho vay, từ đó kích thích cho sản xuất. Vì vậy cần có giới hạn tín
dụng để hạn chế tăng trưởng tín dụng. Đây là biện pháp kết hợp giữa sử dụng
công cụ giới hạn tín dụng với công cụ lãi suất chiết khấu
Để giảm lãi suất huy động xuống thì Chính phủ phải thực hiện được
các yêu cầu sau:
+ Sử dụng các biện pháp chế tài để khống chế các trường hợp vượt rào
lãi suất
+ Có được sự đồng thuận của các tổ chức tín dụng, sự hợp tác của các tổ
chức kinh tế trong việc hạ lãi suất huy động vốn, sự đồng thuận này có được qua
sự nghiêm minh của luật pháp, các quy định phù hợp với lợi ích của NH.
+ Kiểm soát được thị trường vàng, thị trường ngoại hối, thị trường BĐS
và thị trường chứng khoán, tránh tình trạng đầu cơ trục lợi, đẩy giá là nguyên
nhân xâu xa làm nguồn vốn huy động bị hút vào.
xv
• Công cụ hạn mức tín dụng:
Với mục tiêu kiềm chế lạm phát hiện nay, Công cụ hạn mức tín dụng
cần được xây dựng cụ thể tới từng ngành, từng lĩnh vực ưu tiên trước hết vốn
tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, nông thôn, công
nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực.
Hạn chế tăng trưởng tín dụng các ngành phi sản xuất, các ngành công nghiệp
khai thác tài nguyên khoáng sản (Vì mục tiêu phát triển bền vững)
KẾT LUẬN

Quản lý hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ là vấn đề cấp
thiết của Nhà nước trong vấn đề kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế trong giai
đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay mà nó còn là yêu cầu sống còn
của hệ thống này trước xu hướng toàn cầu hóa.
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bùng phát từ cuối năm 2008 và kéo
dài đến nay đã ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch phát triển kinh tế của Việt
Nam. Để vượt qua khó khăn này đòi hỏi có sự chung tay góp sức của toàn bộ
các thành phần các ngành nghề kinh tế, từ các cá nhân cho đến các Doanh
nghiệp trong sự điều hành của Nhà nước. Mặc dù con đường phía trước còn
đầy thử thách, trắc trở nhưng bằng tinh thần kỷ luật, truyền thống đoàn kết,
nghị lực phấn đấu tự lực tự cường của dân tộc, chúng ta nhất định sẽ lại một
lần nữa vượt qua các thử thách đó.
xvi

×