Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Quản lý Nhà nước đối với hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 74 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THÀNH HẢI




QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




Hà Nội – 2012


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



NGUYỄN THÀNH HẢI



QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM


Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUỐC VIỆT


Hà Nội – 2012


2
MỤC LỤC

Trang
Danh mục các chữ viết tắt i

Danh mục các bảng ii
Danh mục các biểu đồ ii
MỞ ĐẦU 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT
ĐỘNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 12
1.1. Khái niệm và nhận diện các hành vi CTKLM 12
1.2. Khái niệm Quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM 16
1.3 Vai trò quản lý của Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM trong nền kinh
tế thị trƣờng 21
1.4. Công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM 23
1.5. Quản lý hoạt động CTKLM trên thế giới 25
1.5.1. Quản lý hoạt động CTKLM tại châu Âu 25
1.5.2 Quản lý hoạt động CTKLM tại Hoa Kỳ 27
1.5.3 Quản lý hoạt động CTKLM tại châu Á 29
1.5.4 Quản lý hoạt động CTKLM tại các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM 33
2.1 Môi trƣờng thể chế, chính sách quản lý các hoạt động CTKLM tại Việt Nam 33
2.2. Hệ thống cơ quan quản lý, kiểm soát các hoạt động CTKLM tại Việt Nam 36
2.2.1 Cục Quản lý cạnh tranh 36
2.2.2 Các cơ quan quản lý chuyên ngành khác 37
2.3 Thực trạng công tác phát hiện và xử lý các hoạt động CTKLM tại Việt
Nam trong giai đoạn 2006-2011 38



3
2.4. Một số vụ việc CTKLM điển hình sau khi Luật cạnh tranh ra đời và hoạt
động quản lý của Nhà nƣớc (2005-nay) 40
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG BỐI CẢNH NỀN KINH
TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM 48
3.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế thị trƣờng có tác động tới hoạt động
CTKLM tại Việt Nam 48
3.1.1 Quan điểm của Nhà nƣớc về chống CTKLM trong cơ chế thị trƣờng 48
3.1.2 Những tác động của các thành phần kinh tế tới môi trƣờng cạnh tranh
bình đẳng, lành mạnh tại Việt Nam trong thời gian qua 51
3.2. Giải pháp quản lý các hoạt động CTKLM trong bối cảnh nền kinh tế thị
trƣờng tại Việt Nam 53
3.2.1 Hoàn thiện môi trƣờng thể chế, chính sách 54
3.2.2 Hoàn thiện hệ thống các cơ quan quản lý 60
3.2.3 Các công cụ và biện pháp hỗ trợ khác 63
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69





4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Stt
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
BVNTD
Bảo vệ người tiêu dùng
2
CTKLM

Cạnh tranh không lành mạnh
3
EU
Liên minh châu Âu
4
EC (European
Commission)
Ủy ban châu Âu
5
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
6
SHTT
Sở hữu trí tuệ
7
TRIPS (Trade-related
Aspects of
Intellectual Property
Rights)
Thoả thuận về những khía cạnh liên quan
tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
8
USFTC
Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
9
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
i



5
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ trƣơng
của Nhà nƣớc cho phép nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển đã
chứng minh cho thấy hiệu quả đúng đắn trong suốt những năm đổi mới. Đi
cùng với sự phát triển và nở rộ của mọi thành phần kinh tế, vấn đề tạo ra một
môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng để bảo vệ quyền và lợi ích của
doanh nghiệp và của ngƣời tiêu dùng đang làm nảy sinh nhiều vấn đề bất cập
và đặt ra những thách thức đối với các cơ quan quản lý và cộng đồng xã hội.
Có hai công cụ chính nhằm góp phần tạo ra môi trƣờng cạnh tranh lành
mạnh nói trên đó là quản lý hoạt động CTKLM và quản lý hoạt động hạn chế
cạnh tranh. Xuất phát từ chính những vấn đề từ thực tiễn quản lý các hành vi
này trên thế giới đã cho thấy những lỗ hổng trong việc tiếp cận của các quốc
gia cả về mặt pháp lý nói chung và kinh tế nói riêng không chỉ đối với các
quốc gia đang phát triển, mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng nhƣ Việt
Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Phillipines, mà cả ở các quốc gia đã có nền kinh
tế phát triển nhƣ Mỹ, Đức,
Ở Việt Nam, cơ quan quản lý trực tiếp về CTKLM là Cục Quản lý cạnh
tranh – Bộ Công Thƣơng đang ở quá trình phát triển ban đầu. Môi trƣờng
pháp luật cũng còn nhiều bất cập, sau 6 năm có hiệu lực và đi vào đời sống xã
hội, Luật Cạnh tranh ban hành năm 2004 và có hiệu lực năm 2005 ngày càng
chứng tỏ những khiếm khuyết gây những khó khăn cho công tác thực thi và
đứng trƣớc yêu cầu phải có những đổi mới trong thời gian sắp tới. Đồng thời
việc quản lý hoạt động CTKLM còn có những chồng chéo giữa các cơ quan
quản lý khác nhau nhƣ Bộ Công Thƣơng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Kế
hoạch và Đầu tƣ,…



6
Trong những năm gần đây, quản lý hoạt động cạnh tranh không lành
mạnh là vấn đề đƣợc sự quan tâm của nhiều giới, nhiều nhà khoa học và một
số công trình nghiên cứu vì: sự vận động của các quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế thị trƣờng đòi hỏi Nhà nƣớc phải thực sự trở thành công cụ điều tiết có
hiệu quả vừa góp phần bình ổn các quan hệ kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ
kinh tế để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh, ổn định, có tổ chức,
theo định hƣớng, mục tiêu đã định.
Vì lợi ích sống còn của doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhiều khi
không trừ một biện pháp nào để nhằm loại bỏ đối thủ ra khỏi thị trƣờng hoặc
làm xấu hình ảnh các doanh nghiệp khác để tạo lợi thế bất chính. Các hoạt
động CTKLM trên thị trƣờng giữa doanh nghiệp nƣớc ngoài với doanh
nghiệp trong nƣớc; giữa hàng nội và hàng ngoại; giữa các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế tƣ nhân và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc
doanh vẫn đã và đang diễn ra vô cùng sôi động
Vì thế, việc quản lý và chống CTKLM có tầm quan trọng đặc biệt
nhằm cải thiện môi trƣờng pháp lý, khuyến khích hơn nữa các hoạt động đầu
tƣ, sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nƣớc, tạo môi
trƣờng lành mạnh, bình đẳng, an toàn cho các doanh nghiệp và đồng thời bảo
vệ quyền và lợi ích của ngƣời tiêu dùng.
Đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp có các hành vi CTKLM
nhƣng không không biết là mình vi phạm, đáng chú ý là các hanh vi nhƣ: Lừa
dối khách hàng; quảng cáo gian dối; sản xuất, buôn bán hàng giả; lƣu hành
sản phẩm kém chất lƣợng; kinh doanh trái phép; trốn thuế, bán hàng đa cấp
bất chính,
Rõ ràng sự nhận thức, nhận diện đầy đủ, cặn kẽ bản chất các hình thức
biểu hiện của cạnh tranh nói chung và CTKLM nói riêng cả về lý luận lẫn
thực tiễn của xã hội nói chung còn nhiều hạn chế. Do vậy, việc nghiên cứu



7
một cách có hệ thống vấn đề quản lý các hoạt động cạnh tranh, trong đó có
hoạt động CTKLM là một vấn đề bức xúc đang đƣợc đặt ra, góp phần thực
hiện nghị quyết đại hội Đảng XI, trong đó nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi
trƣờng cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu về các hoạt động quản lý của
Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM của doanh nghiệp, qua đó đề xuât các
giải pháp giúp các cơ quan quản lý trong việc xây dựng môi trƣờng cạnh tranh
bình đẳng trong những năm tới, tôi đã chọn đề tài: “Quản lý Nhà nƣớc đối với
hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam”.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trên thế giới việc tạo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh nói chung và
quản lý hoạt động CTKLM nói riêng đã đƣợc bắt từ những năm cuối thế kỷ
XIX. Từ đó đến nay, thuật ngữ CTKLM tuy ít nhiều có cách hiểu khác nhau,
nhƣng cũng đã đƣợc sử dụng khá phổ biến trên thế giới.
Ở Việt Nam, sau mƣời năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc (năm
1986), công trình đầu tiên nghiên cứu có liên quan đến cạnh tranh đã đƣợc
Viện nghiên cứu thị trƣờng giá cả tiến hành năm 1996. Tiếp đó là các công
trình nghiên cứu liên quan đến cạnh tranh thuộc dự án VIE/94/003-Tăng
cƣờng năng lực pháp luật tại Việt Nam (năm 1998); Viện nghiên cứu quản lý
kinh tế trung ƣơng (năm 2001 và 2002), Viện nghiên cứu nhà nƣớc và pháp
luật (năm 2001) Đây là những công trình đầu tiên nghiên cứu cả về lý luận
và thực tiễn về những vấn đề có liên quan đến kiểm soát hành vi cạnh tranh,
pháp luật cạnh tranh, và môi trƣờng cạnh tranh đã tạo luận cứ cũng nhƣ tiền
đề khuyến nghị đến việc cần xây dựng môi trƣờng cạnh tranh ở Việt Nam.
Bên cạnh những công trình đó, đã có nhiều luận án tiến sỹ nghiên cứu
về cả chống hạn chế cạnh tranh và chống CTKLM. Một số chuyên gia đã xuất



8
bản những cuốn sách chuyên khảo về cạnh tranh nhƣ: "Tiến tới xây dựng
pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng ở
Việt Nam" của Phó Giáo sƣ, Tiến sỹ Nguyễn Nhƣ Phát và Tiến sĩ Bùi Nguyên
Khánh năm 2001. Bên cạnh đó cần phải kể đến nhiều bài báo khoa học đƣợc
đăng trên một số tạp chí chuyên ngành nhà nƣớc của các chuyên gia nhƣ:
Giáo sƣ, Tiến sỹ khoa học Đào Trí úc; Phó Giáo sƣ, Tiến sỹ Nguyễn Nhƣ
Phát; Phó Giáo sƣ, Tiến sỹ, Trần Đình Hảo; Phó Giáo sƣ, Tiến sỹ Phạm Duy
Nghĩa Các công trình nghiên cứu này đã đề cập các vấn đề về chính sách
cạnh tranh, cơ sở lý luận của kiểm soát cạnh tranh, nội dung của pháp luật
cạnh tranh, thực trạng CTKLM và kiểm soát đối với các hoạt động CTKLM.
Các nghiên cứu này đƣợc tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau và đều nhằm
mục đích là xây dựng luận cứ, đề xuất các định hƣớng về nội dung, phạm vi
điều chỉnh, phƣơng thức thực hiện và đƣa ra các khuyến nghị về việc hoàn
thiện hơn môi truờng canh tranh ở Việt Nam. Hay nói cách khác, các công
trình này đƣợc nghiên cứu trƣớc khi ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004.
Nhằm góp phần vào công tác tuyên truyền phổ biến và tạo dựng môi
trƣờng cạnh tranh, sau khi ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004, gần đây cũng
đã có một số cuốn sách giới thiệu về hoạt động CTKLM đƣợc viết dƣới dạng
phân tích, bình luận. Chẳng hạn nhƣ cuốn "Bình luận khoa học Luật cạnh
tranh" của Tiến sỹ Lê Hoàng Oanh, năm 2005; "Phân tích và luận giải về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trƣờng, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh
tranh" của Phó Giáo sƣ, Tiến sỹ Nguyễn Nhƣ Phát và Thạc sỹ Nguyễn Ngọc
Sơn, năm 2008, “Giáo trình Luật cạnh tranh" xuất bản vào năm 2010 do 3 tác
giả là PGS. TS. Lê Danh Vĩnh, Nguyên Thứ trƣởng Bộ Công Thƣơng kiêm
Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn và ThS. Hoàng Xuân
Bắc với sự phối hợp của Dự án EU - Việt Nam - MUTRAP III Bộ Công
Thƣơng. Tuy nhiên, những tài liệu nghiên cứu này hoặc là chỉ đề cập đến khía
cạnh pháp luật của những hành vi liên quan đến hạn chế cạnh tranh hoặc nếu



9
có đề cập đến hoạt động CTKLM thì cũng ở mức khái quát, chƣa có những
phân tích, bình luận chuyên sâu mang tính toàn diện về bức tranh tổng thể về
thực trạng CTKLM ở Việt Nam hiện thời. Các đề xuất chủ yếu liên quan đến
pháp Luật Cạnh tranh nói chung, chƣa có những đề xuất tổng thể mang tính
chuyên sâu liên quan đến cơ chế tạo dựng môi trƣờng trƣờng thực thi có hiệu
quả để chống các hoạt động CTKLM ở Việt Nam.
Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu môi trƣờng về CTKLM ở Việt
Nam, cho thấy chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản,
toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận, thực trạng môi trƣờng và cơ chế
bảo đảm kiểm soát có hiệu quả hoạt động CTKLM và đƣa ra những đề xuất
cho việc sửa đổi những quy phạm pháp luật hiện hành cũng nhƣ sửa đổi liên
quan tới thể chế, công cụ thực thi đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thị trƣờng có
nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn cho sự hình thành và phƣơng hƣớng hoàn thiện việc quản lý hoạt động
CTKLM trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng ở Việt nam.
Để thực hiện đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Phân tích làm sáng tỏ khái niệm, nội dung chủ yếu của các hành vi
CTKLM trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN;
- Nghiên cứu, tìm hiểu về môi trƣờng thể chế và các công cụ quản lý
hoạt động CTKLM;
- Khái quát thực trạng vi phạm của doanh nghiệp và công tác quản lý
của Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM tại Việt nam hiện nay;
- Nghiên cứu những điển hình trong việc tạo dựng một môi trƣờng cạnh
tranh lành mạnh thông qua việc quản lý các hoạt động CTKLM trên thế giới
có so sánh với Việt Nam;



10
- Đề xuất các gợi ý chính sách để quản lý hoạt động CTKLM ở Việt
nam cả về mặt pháp luật, thể chế, tuyên truyền giáo dục,
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Theo thông lệ, quản lý cạnh tranh gồm hai nội dung chính là quản lý
CTKLM và quản lý hạn chế cạnh tranh và bao hàm nội dung các hành vi cần
điều chỉnh rất rộng, liên quan chặt chẽ đến chính sách kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ nhƣng luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu cơ
sở lý luận, thực tiễn, các chính sách, khuôn khổ luật pháp giúp Nhà nƣớc quản
lý hoạt động CTKLM, các cơ quan tổ chức quản lý CTKLM liên quan và đề
xuất phƣơng hƣớng quản lý hoạt động CTKLM ở Việt nam hiện nay. Khi
nghiên cứu, luận văn sẽ xem xét sự ảnh hƣởng của việc quản lý hoạt động
CTKLM tới các nhóm lợi ích liên đới trong xã hội nhƣ: Cơ quan quản lý, các
doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng hay ngƣời dân, bắt đầu từ sau thời điểm
Luật cạnh tranh có hiệu lực năm 2005 cho tới nay.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Phƣơng pháp nghiên cứu có tính chất bao trùm đƣợc quán triệt để thực
hiện luận văn là phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác -Lênin, theo đó vấn đề nghiên cứu phải đƣợc đặt trong bối cảnh
lịch sử, cụ thể của quá trình hình thành và phát triển của môi trƣờng cạnh
tranh hình thành trong nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta, đặc biệt là nghiên cứu
từ mốc thời gian sau khi có Luật Cạnh tranh có hiệu lực năm 2005. Tại luận
văn này phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng phổ biến vì:
- Ở nƣớc ta, kiểm soát hoạt động CTKLM còn là lĩnh vực mới, chƣa có
kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nƣớc;
- Phƣơng pháp so sánh cho phép chúng ta tìm hiểu quan điểm tiếp cận
chống CTKLM từ thực tiễn quản lý của nƣớc ngoài cũng nhƣ thấy đƣợc khía
cạnh quốc tế của CTKLM.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp để

làm rõ cơ sở lý luận về cạnh tranh nói chung và CTKLM nói riêng; phƣơng


11
pháp thống kê để làm rõ thực trạng CTKLM và sự quản lý Nhà nƣớc đối với
các hoạt động CTKLM ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn có sử dụng công tác nghiên cứu tại bàn thông
qua các tài liệu thứ cấp là các chuyên đề, đề tài nghiên cứu và các tài liệu hội
thảo, hội nghị của Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thƣơng, từ thời gian
2005 tới nay liên quan tới công tác kiểm soát hoạt động CTKLM của các
quốc gia, khu vực cũng nhƣ tại Việt Nam.
6. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC CỦA LUẬN VĂN
Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận, khái
niệm, nội dung của các hoạt động CTKLM. Việc làm này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, góp phần nhận dạng đầy đủ các đối tƣợng cần điều chỉnh và kiểm
soát bởi xã hội và chỉ rõ vai trò quan trọng của kiểm soát nhà nƣớc trong điều
kiện kinh tế thị trƣờng, đồng thời đi sâu phân tích những điểm còn hạn chế
trong môi trƣờng luật pháp cũng nhƣ môi trƣờng các công cụ thực thi khác ở
hiện tại quản lý các hoạt động CTKLM, có sự so sánh với các quốc gia khác.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hành vi CTKLM ở Việt nam và thực
trạng diễn biến hành vi không lành mạnh, luận văn đề xuất phƣơng hƣớng
điều chỉnh môi trƣờng pháp luật kiểm soát hành vi CTKLM ở Việt nam hiện
nay và những thay đổi cần thiết về thể chế cũng nhƣ các hoạt động hỗ trợ cho
việc kiểm soát hoạt động CTKLM.
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng với các nội dung nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của quản lý Nhà nƣớc về hoạt động CTKLM
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý Nhà nƣớc đối với hành vi CTKLM tại
Việt Nam trong thời kỳ 2006-2011

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp quản lý hoạt động CTKLM
trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam



12
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

1.1. Khái niệm và nhận diện các hành vi CTKLM
Cho đến nay, cạnh tranh lành mạnh mặc dù đã đƣợc tiếp cận, nghiên
cứu và phản ánh trong nhiều học thuyết, song đều không đƣa ra đƣợc nội hàm
cụ thể cho khái niệm này. Tƣơng tự nhƣ vậy, pháp luật về cạnh tranh của các
quốc gia trên thế giới cũng không đƣa ra khái niệm thống nhất về thế nào là
cạnh tranh lành mạnh. Tuy vậy, dƣới góc độ thực tiễn, các quốc gia đều có sự
thống nhất về bản chất của cạnh tranh lành mạnh. Theo đó, cạnh tranh lành
mạnh đƣợc hiểu là cạnh tranh trung thực, công bằng, hợp pháp, hợp đạo đức,
tập quán kinh doanh; là hình thức cạnh tranh đẹp, trong sáng, cạnh tranh bằng
tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp, vì lợi ích của bản thân trên tinh
thần tôn trọng lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác, của ngƣời tiêu dùng và
lợi ích công cộng.
Qua đây có thể thấy rằng, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp
có một số đặc điểm là:
+ Tuân thủ đúng pháp luật;
+ Tôn trọng truyền thống, tập quán kinh doanh;
+ Phù hợp với đạo đức kinh doanh;
+ Phù hợp với thông lệ quốc tế;
+ Là động lực phát triển kinh tế-xã hội.
Qua các đặc điểm trên cho thấy, cạnh tranh lành mạnh có nội hàm rất

rộng và từ đó rất khó có thể quy định cụ thể, đầy đủ thế nào là hành vi cạnh
tranh lành mạnh. Điều đó đã dẫn đến việc tiếp cận pháp luật từ mặt trái của
hành vi và không triệt để trong việc xác định về mặt nội dung. Và do đó có


13
chuyên gia cho rằng, nếu xuất phát từ nguyên tắc các chủ thể kinh doanh đƣợc
làm tất cả những gì pháp luật không cấm (chứ không phải chỉ đƣợc làm những
gì mà pháp luật quy định) thì có thể thấy không thể xây dựng đƣợc khái niệm
chuẩn đúng trong mọi trƣờng hợp và cũng không thể xây dựng đƣợc pháp
Luật Cạnh tranh điều chỉnh các hành vi cạnh tranh mang tính tích cực và từ
đó quy định đó là hành vi cạnh tranh hợp pháp, mà ngƣợc lại về mặt phƣơng
pháp phải xác định hoạt động CTKLM và quy định thành điều cấm. Đối lập
với cạnh tranh lành mạnh là CTKLM. Việc xác định là lành mạnh hay không
lành mạnh đƣợc căn cứ trên cơ sở mục đích, tính chất, phƣơng pháp tiến hành
cạnh tranh trên thị trƣờng. Thực tế cho thấy khái niệm CTKLM còn có những
tên gọi khác nhau: cạnh tranh không bình đẳng, cạnh tranh bất hợp pháp, cạnh
tranh bất chính. Khái niệm CTKLM và cạnh tranh bất hợp pháp nếu xét về ý
nghĩa của từ ngữ thì giữa chúng có sự khác nhau. Thông thƣờng tính bất hợp
pháp đƣợc hiểu là vi phạm điều cấm của pháp luật. Còn sự không lành mạnh
còn bao gồm cả tính chất vi phạm đạo đức, vi phạm tập quán kinh doanh
truyền thống.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về CTKLM:
Quan niệm thứ nhất cho rằng “CTKLM bao gồm tất cả hành vi nào
xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên thị trƣờng, xâm hại tới quyền tự do
cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp”. Với quan niệm này, các hành vi
hạn chế cạnh tranh, nhất là những hành vi hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trƣờng cũng thuộc phạm trù “CTKLM”
Quan niệm thứ hai là quan niệm về “CTKLM” đƣợc quy định trong
Công ƣớc Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (ký kết ngày 20-3-1883),

cụ thể là Điều 10bis (đƣợc bổ sung vào Công ƣớc năm 1900), theo đó: "Bất
kỳ hành vi cạnh tranh nào đi ngƣợc lại các hành động trung thực, thiện chí
trong công nghiệp hoặc trong thƣơng mại đều là hành vi CTKLM". Điều


14
10bis cũng giải thích rõ gồm 3 loại hành vi chính: (i) thực hiện các hành vi có
bản chất gây nhầm lẫn về cơ sở kinh doanh, hàng hoá, hoạt động kinh doanh,
công nghiệp của một đối thủ cạnh tranh; (ii) đƣa ra những cáo buộc sai sự thật
nhằm hạ thấp uy tín về cơ sở kinh doanh, về hàng hoá hoặc về hoạt động
thƣơng mại, công nghiệp của một đối thủ cạnh tranh; (iii) sử dụng những chỉ
dẫn gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, đặc điểm,
tính năng, công dụng của hàng hoá.
Quan niệm thứ ba cho rằng CTKLM là hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với chuẩn mực thông thƣờng về đạo
đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh khác hoặc ngƣời tiêu dùng.
Nhƣ vậy, với 3 cách quan niệm nhƣ đã nêu, chúng ta có thể thấy, với
quan niệm thứ nhất thì việc nhận dạng các hành vi đƣợc coi là CTKLM sẽ là
rất rộng, có sự hoà lẫn giữa những hành vi đƣợc coi là hạn chế cạnh tranh và
những hành vi CTKLM và từ đó sẽ tạo ra sự thiếu phân hóa trong cơ chế xử
lý giữa hai nhóm hành vi này. Trong khi đó, tuy đều là hành vi cạnh tranh
biểu hiện cách hành xử của doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng, làm hại đến sự
vận động bình thƣờng và tính lành mạnh của thị trƣờng, song chúng có những
đặc điểm khác biệt về bản chất, tính chất, mức độ nguy hại cho thị trƣờng và
theo đó dẫn tới việc sử dụng phƣơng thức áp dụng pháp luật và tính cƣơng
quyết trong việc trừng trị của pháp luật cũng khác nhau đối với hai nhóm
hành vi này.
Nếu quan niệm theo cách thứ hai thì chỉ đề cập tới các hành vi “không
trung thực trong hoạt động thƣơng mại và công nghiệp”. Quan niệm thứ ba có

phần hẹp hơn quan niệm thứ nhất, nhƣng rộng hơn quan niệm thứ hai, theo đó
hành vi CTKLM gồm bất cứ hành vi nào “trái với chuẩn mực thông thƣờng
về đạo đức kinh doanh” và điều này sẽ bao gồm cả hành vi “không trung


15
thực” và cả hành vi đƣợc coi là “trung thực” nhƣng trái với chuẩn mực thông
thƣờng về đạo đức kinh doanh. Với cách định nghĩa theo cách thứ ba này thì
hành vi CTKLM không bị bó hẹp trong việc cấm đoán các hành vi CTKLM
chỉ trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác.
Quan niệm thứ 3 về CTKLM cũng là quan niệm đƣợc quy định tại Luật
Cạnh tranh2004 của Việt Nam (khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh2004). Đây
cũng là quan niệm theo tác giả là phù hợp và đƣợc sử dụng trong luận văn
này để từ đó có cách hiểu thống nhất về pháp luật chống CTKLM và trong
các chƣơng tiếp theo của luận văn . Với cách đặt vấn đề nhƣ vậy có thể thấy
là, CTKLM là hành vi của đối thủ cạnh tranh có các dấu hiệu sau đây:
 Hành vi phải vì mục đích cạnh tranh;
 Hành vi nhằm vào đối thủ cạnh tranh hiện hữu (cụ thể);
 Hành vi đƣợc thực hiện do vi phạm pháp luật hay đi ngƣợc lại với
đạo đức, tập quán tốt đẹp;
 Hành vi đã và sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây tổn hại cho đối thủ cạnh
tranh và qua đó tìm cách tạo cho mình những mối lợi hoặc thế mạnh bất chính.
 Hành vi CTKLM chỉ bị pháp luật điều chỉnh khi đối thủ cạnh tranh
nhận thức đƣợc nguy cơ hay thực tế của sự tổn thất và từ đó họ tự quyết định
nhờ đến sự can thiệp của pháp luật. Với nghĩa đó thì về cơ bản hành vi
CTKLM sẽ bị xử lý bằng phƣơng pháp dân sự và chế tài dân sự. Vì vậy,
nguyên tắc "không có đơn kiện thì không có toà án" sẽ đƣợc áp dụng.
Với những dấu hiệu trên thì không phải bất cứ hành vi xâm hại đến lợi
ích của doanh nghiệp đều bị coi là hành vi CTKLM và bị xử lý bởi pháp luật
CTKLM mà chỉ những hành vi do đối thủ cạnh tranh thực hiện đối với đối thủ

cạnh tranh của mình. Và những đối thủ của nhau này phải cùng cạnh tranh
trong một thị trƣờng hàng hoá, dịch vụ hoặc thị trƣờng liên quan. Những hành
vi thoả mãn những yếu tố trên, nhƣng không phải là hành vi xuất phát từ đối


16
thủ cạnh tranh, không vì mục tiêu cạnh tranh sẽ không bị coi là hành vi
CTKLM và do đó sẽ bị xử lý bởi pháp luật chung – pháp luật dân sự.
Nhận diện các hành vi CTKLM
Xét trên phƣơng diện lập pháp, tuy không đƣợc quy định thống nhất ở
các quốc gia, nhƣng khi xem xét trên tổng thể, thông thƣờng có hai nhóm
hành vi của doanh nghiệp, đó là: (i) nhóm hành vi xâm hại đến lợi ích của đối
thủ cạnh tranh và (ii) nhóm hành vi xâm hại lợi ích khách hàng.
- Nhóm hành vi trực tiếp xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh, gồm
các hành vi sau:
+ Ngăn cản: Ngăn cản đối thủ khác trong quá trình cạnh tranh là loại
hành vi CTKLM khá phổ biến. Các doanh nghiệp bị ngăn cản ở đây là những
thành viên hiện hữu, những doanh nghiệp đang tồn tại trong một loại thị
trƣờng hàng hoá, dịch vụ hay thị trƣờng liên quan.
Hành vi ngăn cản đối thủ cạnh tranh đƣợc thực hiện chủ yếu thông qua
thủ thuật bán phá giá. Pháp luật chống CTKLM dƣới dạng chống bán phá giá
chủ yếu thông qua việc quy định cấm bán hàng dƣới giá vốn trong điều kiện
bình thƣờng. Nhƣ vậy, pháp luật cũng cho phép các doanh nghiệp bán hàng
dƣới giá vốn trong một số trƣờng hợp đƣợc coi là không bình thƣờng nhƣ:
Hàng có nguy cơ hƣ hỏng nhanh do điều kiện ngoại cảnh bất thƣờng; Bán
hàng dọn kho do thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh; Hàng hoá thuộc tài sản
phá sản; Các hoạt động khuyến mại thông qua việc hạ giá sản phẩm trong
những điều kiện cụ thể và ở mức độ nhất định.
Ngoài ra, thuộc nhóm hành vi ngăn cản đối thủ còn bao gồm hành vi
tẩy chay, thâu tóm khách hàng của đối thủ cũng đƣợc pháp luật chống CTKLM

điều chỉnh.
+ Dèm pha bôi nhọ đối thủ: Việc đƣa tin thất thiệt về ngƣời khác là
điều không thể loại bỏ trong cuộc sống. Để chống lại cách hành xử này, mọi


17
quốc gia đều có những quy định nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh sự, uy tín của
mọi pháp nhân, thể nhân (gồm cả thƣơng gia). Bên cạnh những quy định
chung của Bộ luật dân sự, thông thƣờng vẫn có các quy định riêng cụ thể, dành
cho các thƣơng gia với tính cách là các đối thủ cạnh tranh trong thƣơng trƣờng.
Biểu hiện của loại hành vi này là: bôi nhọ, tung tin nói xấu, lăng mạ,
tung tin gây nghi ngờ cho khách hàng, tẩy chay đối thủ cạnh tranh, bóp méo,
xuyên tạc nguồn gốc, chất lƣợng, tính năng của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ
của đối thủ cạnh tranh nhằm mục đích lôi kéo khách hàng về phía mình.
+ Bội tín: Trong môi trƣờng cạnh tranh hầu hết các doanh nghiệp đều
có những bí mật kinh doanh của mình. Trong nhiều trƣờng hợp, đây chính là
yếu tố quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp. Cũng chính vì lẽ đó
mà khi vì mục tiêu cạnh tranh, đây cũng thƣờng là đối tƣợng mà các đối thủ
cạnh tranh luôn muốn tìm cách chiếm đoạt. Do là bộ phận thuộc lợi ích hợp
pháp của từng doanh nghiệp nên chúng có nhu cầu đƣợc pháp luật bảo vệ.
Theo pháp luật của nhiều quốc gia những hành vi này không những là hành vi
CTKLM, mà trong một số trƣờng hợp có thể bị coi là một trong những tội
phạm kinh tế.
+ Bóc lột: Khái niệm này không đƣợc hiểu nhƣ khái niệm bóc lột trong
kinh tế chính trị học hay triết học. Dƣới góc độ cạnh tranh, bóc lột đƣợc hiểu
là sự hƣởng dụng trái phép hay lạm dụng những thành quả lao động của một
doanh nghiệp này đối với một doanh nghiêp khác.
Biểu hiện của loại hành vi này là việc sản xuất và cho lƣu hành hàng
hoá, sản phẩm mà các dữ kiện và thông số về chúng là không trung thực.
Hành vi này lâu nay ở Việt Nam vẫn gọi là hàng giả, là hành vi bị coi là tội

phạm và đƣợc điểu chỉnh bởi pháp luật hình sự. Tuy nhiên, theo quan điểm
của các quốc gia thì hàng giả, hàng nhái không phải là vấn đề của pháp luật
hình sự. Bởi khách thể bị xâm hại là lợi ích của các hãng sản xuất "chính


18
hiệu"- các đối thủ cạnh tranh, do đó, những hành vi này không phải là hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Liên quan đến nhóm hành vi bóc lột là rất nhiều các
hành vi hay quan hệ xã hội đƣợc điều chỉnh gần gũi với pháp luật về sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá.
Những phân tích trên đây chỉ là một trong vô số hành vi thuộc nhóm
hành vi bóc lột trong cạnh tranh. Có thể chỉ ra đây những thủ thuật khác cũng
thuộc nhóm này mà pháp luật của nhiều nƣớc cũng quy định nhƣ hành vi
quảng cáo dựa dẫm, quảng cáo so sánh. Hai phƣơng thức quảng cáo này cũng
là những hành vi vi phạm pháp luật chống CTKLM. Đây cũng là những hành
vi có tiền đề là lạm dụng, bóc lột đối thủ cạnh tranh.
- Nhóm hành vi trực tiếp xâm hại lợi ích của khách hàng:
Có những hành vi CTKLM cùng lúc có thể xâm hại đến lợi ích của cả
đối thủ cạnh tranh và khách hàng (hay ngƣời tiêu dùng).
Nhóm hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng cũng khá đa dạng, bao
gồm nhữngnhóm hành vi sau đây:
+ Can thiệp vào quyền tự do định đoạt của khách hàng
Với sự vận hành theo cơ chế thị trƣờng, tự do kinh doanh ắt sẽ kéo theo
tự do định đoạt của khách hàng. Cũng bởi vậy, pháp luật thƣờng có những
quy định nhằm bảo vệ khách hàng từ phía những doanh nghiệp bán hàng qua
các quy định của pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng, quyền khởi kiện của
hiệp hội ngƣời tiêu dùng; quyền huỷ hợp đồng đặc biệt của khách hàng khi có
hiện tƣợng không lành mạnh từ phía ngƣời bán hàng.
Một trong những hành vi tác động vào sự tự do quyết định của khách
hàng phải kể đến là hành vi lừa dối nhằm quyến rũ khách hàng, gây cho họ

không hoàn toàn tự chủ trong khi quyết định tham gia quan hệ mua bán. Bên
cạnh phƣơng thức này còn có những lừa dối về quyền đặc biệt của khách hàng
khi họ tham gia quan hệ mua bán. Những nhà bán hàng dạng này thƣờng lừa
dối thông qua phƣơng thức quảng cáo, vì thông lệ, nội dung của quảng cáo chƣa


19
phải là nội dung của chào hàng.
Pháp luật chống CTKLM cũng cấm những hành vi có mục đích cƣỡng
ép khách hàng. Trong cơ chế thị trƣờng, mọi khách hàng đều có quyền tự định
đoạt việc "mua cái gì, mua con gì, của doanh nghiệp nào mà họ muốn" trong
môi trƣờng của vô số các chào hàng cạnh tranh. Vì vậy, một hành vi của một
nhà bán hàng sẽ bị coi là không lành mạnh, khi họ dồn khách hàng vào thế bí
mà không có cách nào khác là phải thực hiện quan hệ mua bán.
Trong một thế giới văn minh, nơi mà cuộc sống riêng tƣ cần đƣợc tôn
trọng và bảo vệ thì các chào mời quá mức và không đƣợc mong đợi đều có
thể bị coi là hành vi CTKLM dƣới dạng quấy rầy. Ngày nay, nhờ có những
phƣơng tiện hiện đại mà hành vi quấy rầy lại càng có cơ hội để phát triển.
Pháp luật của nhiều quốc gia đã có quy định về hành vi này và cũng coi là là
một dạng của hành vi CTKLM (chẳng hạn nhƣ Luật chống CTKLM của
Cộng hoà liên bang Đức mới đƣợc sửa đổi năm 2004).
Bên cạnh phƣơng thức trên, các nhà bán hàng còn có thể sử dụng một
phƣơng thức không lành mạnh nữa là việc tổ chức các cuộc chơi dƣới dạng
"vui chơi có thƣởng"

để lôi kéo khách hàng. Bằng cách đó, những nhà bán
hàng sẽ thƣởng cho những khách hàng nào lôi kéo đƣợc thêm những khách
hàng mới. Do bị lôi kéo nên những khách hàng mới này khó có thể tự do định
đoạt trong việc quyết định tham gia quan hệ mua bán. Đây là mô hình bán
hàng mà ở nhiều nƣớc gọi là hệ thống "quả bóng tuyết" càng lăn quả bóng

tuyết đó càng to, mà Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam gọi là "Bán hàng đa
cấp bất chính" [9].
+ Khuyến mại nhằm CTKLM: ở Việt Nam, khuyến mại đƣợc coi là sự
ƣu việt trong nền kinh tế thị trƣờng. Tuy nhiên, ở nhiều nƣớc có nền kinh tế
thị trƣờng phát triển, nhiều hành vi khuyến mại đƣợc coi là hành vi CTKLM
và do đó có thể bị cấm thực hiện.


20
Sở dĩ bị cấm thực hiện vì khuyến mại tạo tâm lý, thói quen và sự lệ
thuộc dần của khách hàng đối với ngƣời bán hàng có khuyến mại. Khách
hàng luôn nhìn thấy cái "lợi" trƣớc mắt cho mình nên ít quan tâm đến hàng
hoá của đối thủ cạnh tranh khác Khi thói quen mua hàng đƣợc khuyến mại
trở thành phản xạ có điều kiện, khách hàng sẽ ít để ý đến chất lƣợng của sản
phẩm. Tính không lành mạnh và sự nguy hiểm của khuyến mại chính là ở chỗ nó
làm tạo những bất lợi cho ngƣời tiêu dùng, tạo thiệt thòi cho ngƣời tiêu dùng và
đồng thời làm méo mó nhu cầu của thị trƣờng.
Một số hoạt động khuyến mại chỉ là để ngụy trang cho việc giảm giá.
Trên cơ sở của "hứa thƣởng" mà khách hàng có quyền đòi hỏi những sản
phẩm hay dịch vụ phụ. Nói cách khác, việc cung cấp sản phẩm hay dịch vụ
phụ là nội dung của hợp đồng thì không phải là khuyến mại. Trong trƣờng hợp
này, giá trả cho sản phẩm hay dịch vụ chính bao gồm cả phần sản phẩm phụ.
Thực tế còn có nhiều hiện tƣợng hỗ trợ thƣơng mại khác nhƣng không
đƣợc coi là khuyến mại nhƣ: Hỗ trợ về điều kiện tín dụng; một số bảo đảm
đặc biệt liên quan đến bảo hành; giảm giá trong những điều kiện và mức độ
nhất định; sản phẩm hay dịch vụ phụ có giá trị không đáng kể và những phụ
tùng, phụ kiện đƣợc cấp kèm theo nhƣ trong thông lệ thƣơng mại,
Tuy nhiên, khuyến mại bao gồm cả việc cho dùng thử hay biếu không
sản phẩm mà đó chính là sản phẩm đang hoặc sẽ đƣợc bán. Đây là phƣơng
pháp mà một số hãng thuốc lá ngoại và một số liên doanh sản xuất xà phòng

đã thực hiện ở Việt Nam thời gian qua.
+ Quảng cáo sai lệch: Quảng cáo, đƣa tin không trung thực về mọi dữ
liệu liên quan đến hàng hoá và phƣơng thức, điều kiện thƣơng mại là hoạt
động CTKLM rất phổ biến. Dữ liệu về sản phẩm, hàng hoá đƣợc hiểu ở đây là
mọi hình thức mô tả về hàng hoá và những điều kiện bán hàng, tồn tại dƣới
dạng hình ảnh, chữ viết hay các hình thức khác.


21
Hành vi quảng cáo sai lệch nhằm lừa dối khách hàng là hành vi
CTKLM đƣợc pháp Luật Cạnh tranh của nhiều nƣớc quy định.
Nhƣ vậy, với những phân tích nêu trên, có thể thấy rằng cũng nhƣ
khái niệm CTKLM có rất nhiều quan điểm khác nhau, việc quản lý và
điều chỉnh các hành vi này cũng có những điểm khác nhau nhất định ở
các quốc gia.
1.2 Khái niệm Quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM
Theo cách hiểu chung nhất thì quản lý nhà nƣớc là hoạt động mang
tính chất quyền lực nhà nƣớc, sử dụng quyền lực nhà nƣớc để điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nƣớc đƣợc xem là một hoạt động chức
năng đặc biệt của Nhà nƣớc trong quản lý xã hội bao gồm toàn bộ hoạt
động của bộ máy Nhà nƣớc từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp
cho tới hoạt động tƣ pháp.
Từ cách hiểu này, quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM đƣợc
hiểu là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nƣớc đối với
các hoạt động của doanh nghiệp để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã
hội và trật tự pháp luật, qua đó tạo dựng môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động, đồng thời hƣớng tới bảo vệ quyền
lợi ngƣời tiêu dùng.
1.3 Vai trò quản lý của Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM trong nền
kinh tế thị trƣờng

Một chức năng quan trọng của Nhà nƣớc trong quá trình thực hiện điều
tiết nền kinh tế thị trƣờng là phải duy trì và bảo đảm đƣợc môi trƣờng cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng, hiệu quả giữa các chủ thể tham gia thị trƣờng.
Tuy nhiên, việc bảo đảm môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả nhƣ
thế nào còn phụ thuộc vào mức độ và nguyên tắc can thiệp của Nhà nƣớc đối
với nền kinh tế.


22
Chức năng bảo đảm môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh của Nhà nƣớc
trong nền kinh tế thị trƣờng là Nhà nƣớc phải tạo ra một khuôn khổ pháp lý
theo nghĩa “Quy tắc của cuộc chơi” cho nền kinh tế thị trƣờng, trong đó, quy
luật cạnh tranh đƣợc tồn tại và duy trì nhƣ một nguyên tắc cơ bản của quá
trình vận động.
Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm xây dựng chính sách cạnh tranh của
một số trƣờng phái kinh tế cho thấy về nguyên tắc chung là thiết lập một cơ
sở pháp lý cho hoạt động của nền kinh tế thị trƣờng mà ở đó:
- Tồn tại hệ thống giá cả có tính cạnh tranh
- Đảm bảo quyền lợi hợp pháp, bảo hộ quyền sở hữu của các chủ thể
kinh tế thuộcmọi thành phần kinh tế đối với tƣ liệu sản xuất.
- Bảo đảm nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do khế ƣớc trên cơ sở tôn trọng
luật pháp, đạo đức xã hội và lợi ích chung của cộng đồng
- Bình đẳng trƣớc pháp luật và tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi của các
chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động trên thị trƣờng
- Trên nguyên tắc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, các chủ
thể kinh doanh đƣợc quyền tự gia nhập và rút lui khỏi thị trƣờng.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của ngƣời tiêu dùng
Để thực hiện các mục tiêu trên, chính sách của Nhà nƣớc thƣờng bao
hàm các biện pháp nhằm:
- Kiểm soát các hành vi ứng xử trong quan hệ cạnh tranh trên thị trƣờng

để ngăn cấm các hành vi CTKLM
- Kiểm tra cấu trúc thị trƣờng để ngăn ngừa những cấu trúc có thể tạo ra
hành vi CTKLM
- Kiểm soát chi phí sản xuất, giá cả sản phẩm và lợi nhuận của những
doanh nghiệp đƣợc coi là có vị trí độc quyền hoặc khống chế thị trƣờng
- Xác định những lĩnh vực ngoại lệ trong việc áp dụng đối với chính


23
sách cạnh tranh
Mặc dù có những giới hạn về mặt pháp lý, nhƣng tâm thế của các chủ
thể cạnh tranh là luôn hƣớng tới đạt vị thế cao trên thị trƣờng, để sau đó lạm
dụng vị thế có lợi này khai thác tối đa lợi nhuận. Để đối phó với tình trạng
này, Nhà nƣớc thƣờng sử dụng các biện pháp nhƣ ban hành pháp luật về
CTKLM, biện pháp hành chính – kinh tế, biện pháp tuyên truyền giáo dục,
1.4. Công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM
Công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động CTKLM thƣờng dựa trên
một số trụ cột chính đó là: Thông qua việc thiết lập hệ thống pháp luật điểu
chỉnh trong đó có pháp luật điểu chỉnh trực tiếp hoạt động này nhƣ Luật cạnh
tranh, Luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng; bên cạnh đó là hệ thống các luật
chuyên ngành khác; thông qua việc tạo dựng hệ thống các cơ quan quản lý
liên quan trực tiếp và gián tiếp tới hoạt động, và cuối cùng là thông qua hoạt
động tuyên truyền, giáo dục về hành vi CTKLM, công việc này có thể đƣợc
thực hiện bởi chính các cơ quan quản lý nhà nƣớc và/hoặc thông qua các hội
ngành ngành nghề, hiệp hội; qua phƣơng tiện thông tin đại chúng,
Công cụ chính ở các quốc gia đã có pháp luật khá đồng bộ thƣờng
áp dụng Luật cạnh tranh trong đó họ đều chia pháp Luật Cạnh tranh thành
hai lĩnh vực khác biệt: Pháp luật chống CTKLM và pháp luật chống hạn
chế cạnh tranh (hay còn đƣợc gọi là "chống độc quyền" hay "kiểm soát
độc quyền"; chống "Tờ rớt"). Điều này là do nhu cầu bảo đảm CTKLM

không chỉ là đối phó với các hành vi CTKLM, mà bên cạnh nó là hiện
tƣợng hạn chế cạnh tranh, lạm dụng độc quyền thị trƣờng để triệt tiêu
cạnh tranh, nhƣng do nhiều nguyên nhân đặc thù của lĩnh vực này, nên
nhiều nƣớc vẫn chú trọng xây dựng pháp luật chống CTKLM với những
đạo luật riêng nhƣ Thụy Sĩ (1986), Hungari, Bungari (1990), Nhật Bản
(1991), Trung Quốc (1993)


24
Bên cạnh hai lĩnh vực pháp Luật Cạnh tranh cơ bản nêu trên, còn có
các lĩnh vực khác thuộc về hay liên quan đến pháp Luật Cạnh tranh nhƣ:
Pháp luật về SHTT, pháp luật về BVNTD, pháp luật về quảng cáo, pháp
luật về thƣơng mại, pháp luật kinh doanh bảo hiểm, pháp luật về kinh
doanh chứng khoán; và các lĩnh vực pháp luật liên quan đến việc áp dụng
chế tài nhƣ: pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về dân sự,
pháp luật về hình sự
Công cụ thứ hai đó là vai trò của Nhà nƣớc trong việc hình thành lên hệ
thống các cơ quan quản lý và điều chỉnh các hoạt động CTKLM. Tùy theo
điều kiện và trình độ phát triển về kinh tế mà các quốc gia khác nhau thƣờng
có hệ thống khác nhau. Một số quốc gia ở châu Âu nhƣ Pháp, Thụy Sĩ, Đức,
thƣờng đi theo mô hình cơ quan quản lý hành vi CTKLM và cơ quan bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Cơ quan này có thể trực thuộc Bộ chuyên ngành
hoặc đặt trực tiếp dƣới sự điều hành của Thủ tƣớng.
Việc tạo dựng mô hình các cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam còn
tồn tại nhiều ý kiến khác nhau: có thể đặt cơ quan quản lý cạnh tranh nhƣ một
cơ quan ngang bộ; cơ quan trực thuộc bộ; thành lập một tòa án đặc biệt. Cụ
thể về hệ thống các cơ quan này ở Việt Nam, tác giả xin đề cập ở phần sau.
Không thể phủ nhận rằng, việc tạo dựng hệ thống các cơ quan điều
chỉnh hoạt động CTKLM đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc
tạo ra môi trƣờng CTKLM ở các quốc gia.

Bên cạnh vai trò của Nhà nƣớc trong việc tạo dựng hệ thống pháp luật,
hệ thống cơ quan cạnh tranh, các quốc gia còn sử dụng một công cụ nữa đó là
tuyên truyền phổ biến pháp luật về CTKLM. Thực tế cho thấy rằng, đây là
một công cụ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hạn chế các hành vi
này. Việc điều tra và xử lý của các cơ quan chức năng đƣợc giảm gánh nặng
khi các hoạt động này đƣợc chú ý một cách thích đáng.

×