GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM TRÊN TTCK
3.1. Định hướng và giải pháp phát triển TTCKVN
3.1.1. Mục tiêu
Phát triển TTCK cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy
động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài
chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả
quản lý, giám sát trị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu
tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài
chính quốc tế.
3.1.2. Quan điểm phát triển thị trường chứng khoán
Một là, phát triển TTCK phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị
trường tài chính khu vực.
Hai là, tổ chức và vận hành TTCK an toàn, hiệu quả, đảm bảo tính thống nhất
của thị trường tài chính, gắn phát triển TTCK với phát triển thị trường vốn, thị
trường tiền tệ.
Ba là, thực hiện quản lý nhà nước về TTCK bằng công cụ pháp luật, tạo điều
kiện và khuyến khích các chủ thể tham gia TTCK, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho các nhà đầu tư.
Bốn là, gắn việc phát triển TTCK với tiến trình CPH các DNNN, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và huy động vốn cho ngân sách, cho đầu tư phát
triển.
3.1.3. Giải pháp thực hiện
Thứ nhất, thúc đẩy việc tăng cung chứng khoán trên cơ sở tăng cường số
lượng và chất lượng của các chứng khoán niêm yết trên TTCK thông qua việc gắn
kết công tác CPH DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với việc phát
hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết trên TTCK.
Thứ hai, phát triển cơ sở nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân trong và
ngoài nước trên cơ sở tạo lập môi trường thông thoáng để phát triển các định chế
đầu tư chuyên nghiệp nhằm định hướng đầu tư cho các nhà đầu tư nhỏ thông qua
việc thực hiện các chính sách khuyến khích về thuế, phí, lệ phí và quản lý ngoại
hối. Từng bước nghiên cứu để trình cơ quan có thẩm quyền mở rộng tỷ lệ tham gia
của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam.
Thứ ba, từng bước hoàn thiện các thể chế TTCK và tăng cường năng lực cho
các định chế trung gian tham gia thị trường trên cơ sở củng cố và hiện đại hóa các
định chế thị trường đã có sẵn như TTGDCK, công ty chứng khoán và công ty quản
lý quỹ.
Thứ tư, phát triển TTCK trong mối tương quan chặt chẽ với các khu vực khác
của thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường bảo hiểm và thị trường tiền tệ nhằm
tạo ra sự cân đối vững chắc trong cấu trúc tài chính để huy động các nguồn lực cho
phát triển. Từng bước hoàn thiện các thể chế TTCK để có thể tham gia vào tiến
trình hội nhập vào các nền kinh tế, trước mắt là hội nhập vào thị trường vốn khu
vực ASEAN thông qua việc tham gia vào phát trỉen thị trường trái phiếu Châu Á
và kết nối với thị trưòng vốn Singapore.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và nâng cao
năng lực hoạch định chính sách về chứng khoán và TTCK thông qua việc xây dựng
Luật chứng khoán nhằm tạo lập môi trường pháp luật toàn diện, nhất quán và đồng
bộ với các văn bản pháp luật khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia
thị trường.
Thứ sáu, nâng cao vai trò quản lý nhà nước và tăng cường công tác giám sát
thị trường nhằm đảm bảo môi trường công bằng, công khai, minh bạch, qua đó
giảm thiểu các rủi ro, tạo niềm tin cho nhà đầu tư trên TTCK.
3.2. Định hướng phát triển ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam
3.2.1. Nhu cầu niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
3.2.1.1. Nhu cầu của bản thân ngân hàng thương mại cổ phần:
Sau 4 năm thực hiện chương trình cơ cấu lại các NHTMCP và công ty tài
chính cổ phần, số lượng tổ chức này ở nước ta đã giảm từ con số 52 xuống còn 37,
chủ yếu do sáp nhập, bán lại....để tăng quy mô và tăng tính hệ thống. Đến nay hầu
hết các TCTD cổ phần này đã tăng đủ vốn điều lệ theo quy định của Chính phủ.
Một số NHTMCP có số vốn điều lệ tới hàng trăm tỷ đồng. Đồng thời ở thời điểm
này về cơ bản là các NHTMCP bảo đảm được tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc
tế, tức là tỷ lệ vốn điều lệ trên tài sản có đạt tối thiểu là 8%. Song với tốc độ tăng
trưởng dư nợ bình quân đạt 25%/năm, thì tổng tài sản có cũng tăng với tỷ lệ tương
ứng. Trong khi số vốn điều lệ không tăng, thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo thông
lệ quốc tế cũng giảm tương ứng là 25%/năm trong các năm tới đây.
Bên cạnh đó, hệ thống NHTMCP VN đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải
nâng cao khả năng cạnh tranh trong điều kiên hội nhập khu vực và quốc tế theo
cam kết mở cửa thị trường tài chính và dịch vụ ngân hàng. Song hiện tại mặc dù đã
tăng đủ vốn theo quy định, nhưng quy mô còn rất nhỏ so với các ngân hàng trong
khu vực chứ chưa nói đến phạm vi quốc tế. Hiện nay bình quân vốn điều lệ của các
NHTMCP đô thị là 100 tỷ đồng, tương ứng với trên 6 triệu USD. NHTMCP có số
vốn lớn nhất cũng chỉ đạt trên 500 tỷ đồng, tương ứng với trên 30 triệu USD, chỉ
bằng khoảng 12%-18% vốn điều lệ trung bình một ngân hàng trong khu vực. Vốn
điều lệ thấp sẽ bị hạn chế về khả năng huy động vốn, hạn chế trạng thái ngoại hối,
hạn chế tiềm lực tài chính để đầu tư hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hạn chế
đầu tư cho phát triển màng lưới, mở rộng thị phần cho vay. Do đó, yêu cầu cấp
bách đặt ra hiện nay là phải tiếp tục tăng vốn điều lệ cho các NHTMCP, trong đó
biện pháp thông qua thị trường tập trung là một hướng đầy triển vọng.
Về uy tín, sau thời gian cơ cấu lại, hệ thống NHTMCP nước ta đã thay đổi cơ
bản về chất. Bộ máy điều hành được nâng cao trình độ, nhân viên được tuyển chọn
bám sát tiêu chuẩn và quy trình của quốc tế, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cao. Công nghệ ngân hàng được đẩy mạnh đầu tư. Các sản phẩm và dịch vụ ngân
hàng có chất lượng cao và đa dạng, có hiệu quả... Do đó đến nay tất cả các
NHTMCP đều kinh doanh có lãi, nhiều ngân hàng có số lãi lớn. Mức cổ tức trên
10% tính đến cuối năm 2003 cao hơn rất nhiều lãi suất trái phiếu kho bạc, trái
phiếu NHTM... nên cổ phiếu của các NHTMCP đương nhiên hấp dẫn các nhà đầu
tư mua cổ phiếu nếu nó được phát hành ra. Sự tin tưởng của các nhà đầu tư tương
lai còn dựa trên cơ sở báo cáo tài chính minh bạch và rõ ràng của các NHTMCP đô
thị đều được kiểm toán quốc tế, Thanh tra NHNN giám sát chặt chẽ. Ngay như
Công ty tài chính quốc tế IFC thuộc WB đã bỏ ra gần 10 triệu USD mua cổ phần
của NHTMCP Đông Á và NHTMCP Sài Gòn thương tín. Nhiều nhà đầu tư quốc tế
đang rất quan tâm đầu tư vốn mua cổ phần của các NHTMCP VN. Như vậy có thể
nói đã chín muồi các điều kiện cần và điều kiện đủ cho các NHTMCP niêm yết và
phát hành cổ phiếu trên TTCK.
3.2.1.2. Nhu cầu từ cải cách hệ thống ngân hàng:
Những năm gần đây, trong điều kiện nền kinh tế mở, nhiều loại hình TCTD ở
nước ta, nhất là các NHTMCP khi được thành lập với điểm xuất phát thấp, sau một
thời gian hoạt động đã bộc lộ những yếu kém, bất cập về vốn, công nghệ, trình độ
quản lý, quản trị và điều hành. Nhiều ngân hàng phải gặp khó khăn, phải đặt trong
tình trạng kiểm soát đặc biệt, nếu không có “bàn tay của Nhà nước” trợ giúp kịp
thời thì có nguy cơ không đủ khả năng chi trả, có thể phải phá sản, mất lòng tin với
dân chúng, tác động xấu tới nền kinh tế. Thực trạng trên đã được Bộ Chính trị và
Chính phủ đặc biệt quan tâm chỉ đạo để sắp xếp, chấn chỉnh và đổi mới hệ thống
ngân hàng ở nước ta.
Việc sắp xếp, sáp nhập, mua lại và giải thể áp dụng với các NHTMCP đã
mang lại những kết quả khả quan với việc tạo ra các NHTMCP mới có năng lực tài
chính mạnh hơn hẳn, cơ cấu tổ chức được cải tổ, hoạt động quản trị điều hành được
nâng cao. Song song bên cạnh đó, các NHTMQD cũng đang được tiến hành cổ
phần hóa từng bước, tiến tới thực hiện quản lý hoạt động của các ngân hàng này
như đối với các công ty cổ phần. Những giải pháp lớn và mạnh mẽ này đang được
tiến hành với toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Với những ưu thế cạnh tranh cao của mô hình công ty cổ phần, hệ thống
NHTM Việt Nam chắc chắn sẽ có được khả năng tài chính rất lớn, chất lượng hoạt
động và uy tín cao hơn so với hiện nay rất nhiều, đặc biệt là khi các NHTM này
tham gia trên TTCK. Hệ thống tài chính Việt Nam nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng đang có những bước đi đáng kể chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang
vận hành theo cơ chế thị trường, điều hành bằng pháp luật. Quy định cho phép sự
tham gia của cổ đông nước ngoài với tỷ lệ nhất định trong lĩnh vực ngân hàng cho
phép thu hút đầu tư quốc tế, từ đó tiếp thu và học tập được công nghệ ngân hàng
hiện đại cũng như các phương pháp quản lý hoạt động tiên tiến của các ngân hàng
trên thế giới. Với nhu cầu tăng vốn, mở rộng khả năng tài chính, với yêu cầu về sự
minh bạch, chuẩn hóa trong thông tin và hoạt động nghiệp vụ, với những cải cách,
thay đổi mạnh mẽ của hệ thống NHTM Việt Nam, việc các NHTM tham gia niêm
yết trên TTCK đang là vấn đề được đặt ra phù hợp với thực tiễn hiện nay.
3.2.1.3. Nhu cầu từ phát triển thị trường chứng khoán:
Qua 4 năm hoạt động của TTCK Việt Nam cho thấy công tác tạo hàng hóa cho
TTCK là rất quan trọng, song hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Số lượng hàng
hóa tuy có tăng qua các năm song tăng rất chậm, các công ty niêm yết chủ yếu vẫn
là các công ty có quy mô vốn nhỏ. Với khuôn khổ thị trường nhỏ bé, chất lượng cổ
phiếu chưa cao nên hoạt động thị trường không thể sôi nổi. Quy mô nhỏ, giá cả
chứng khoán và chỉ số chứng khoán luôn biến động, gây tâm lý dè dặt cho các nhà
đầu tư tham gia TTCK.
Một trong những nguyên nhân của tồn tại và hạn chế trong hoạt động của
TTCK hiện nay là do thị trường còn thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức như các
ngân hàng, bảo hiểm, tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp nên ảnh hưởng
đến tính ổn định của thị trường. Vấn đề tăng cung chứng khoán trên cơ sở tăng
cường số lượng và chất lượng của các tổ chức niêm yết, trong đó có các NHTM,
đang là nhu cầu bức thiết được đặt ra trong giải pháp nhằm phát triển TTCK hiện
nay.
3.2.2. Định hướng phát triển của TTCK và xu hướng phát triển của các NHTMCP Việt
Nam:
Sự ra đời của TTCK Việt Nam là phù hợp với công cuộc đổi mới kinh tế đất
nước đang diễn ra mạnh mẽ. Từ nay đến năm 2006 và giai đoạn tiếp theo đến năm
2010, TTCK Việt Nam phải được củng cố và phát triển trên tất cả các mặt : quy
mô, phạm vi ảnh hưởng, tính an toàn và hiệu quả nhằm góp phần phát triển nền
kinh tế Việt Nam, đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn đầu tư, thúc đẩy tiến trình
CPH DNNN, tự do hóa tài chính và hội nhập thị trường tài chính quốc tế. TTCK
tập trung được phát triển theo mô hình từ TTGDCK lên SGDCK. UBCKNN chủ
động, tích cực phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, các địa phương và doanh
nghiệp nhằm đẩy mạnh công tác tạo hàng hóa cho thị trường, coi công tác phát
triển hàng hóa cho thị trường là công tác trọng tâm năm 2004, phối hợp với NHNN
nghiên cứu cho phép một số NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCK, đồng thời
phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét thí đỉem CPH để đưa vào niêm yết
một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh dân chúng chưa
am hiểu về TTCK, các trung gian tài chính chưa đủ mạnh thì hệ thống NHTM nói
chung và NHTMCP nói riêng là một tác nhân cơ bản cho sự phát triển của thị
trường này.
NHTMCP là một loại hình ngân hàng tồn tại khách quan, đã đáp ứng được
những đòi hỏi nhất định của nền kinh tế, được khẳng định vị thế pháp lý của mình
thông qua Luật các tổ chức tín dụng, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng XHCN của Đảng cộng sản Việt Nam. Qúa trình
hình thành và phát triển hệ thống NHTMCP đã có những đóng góp nhất định cho
công cuộc đổi mới kinh tế ở đất nước ta do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nó
cũng khẳng định việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển kinh tế hàng
hóa theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, để đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế và để khẳng định vị thế
của mình, các NHTMCP phải được xây dựng thành những ngân hàng đa năng có
tầm cỡ khu vực và quốc tế. Đây chính là mục tiêu cần phải đạt được và là xu thế
phát triển tất yếu của các NHTMCP. Việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP
trên TTCK là một điều kiện thuận lợi để các ngân hàng này tham gia trên TTCK,
thực hiện được mục tiêu đề ra.
Như vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam theo định hường thị
trường, giữa NHTMCP và TTCK có mối quan hệ ngày càng khăng khít. NHTMCP
dựa vào TTCK để huy động vốn, thu lợi nhuận, nâng cao vị thế, uy tín và sức cạnh
tranh, từng bước dạt được mục tiêu là xây dựng ngân hàng có tầm cỡ và hoạt động
đa năng. Ngược lại, việc gia nhập TTCK của các NHTM nói chung và NHTMCP
nói riêng là nhân tố hết sức quan trọng để thúc đẩy TTCK phát triển, đặt biệt là
TTCK Việt Nam còn rất non trẻ như hiện nay.
3.3. Xác lập tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam
3.3.1. Quan điểm xác định tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam:
NHTMCP là một công ty cổ phần đặc biệt bởi loại hình kinh doanh mang tính
đặc thù của các ngân hàng - đó là kinh doanh tiền tệ. Bởi vậy, NHTMCP trước tiên
phải tuân thủ theo các quy định của Ngành, ngoài ra sẽ phải tuân thủ các quy định
khác có liên quan về chứng khoán và TTCK. Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu
NHTMCP về cơ bản phải thoả mãn các điều kiện niêm yết trên TTCK như đối với
một công ty cổ phần, nghĩa là cũng phải đảm bảo các quy định về vốn điều lệ, về
tình hình tài chính, về tỷ lệ các cổ đông và cơ cấu các cổ đông sở hữu..., nhưng
không được trái với các quy định chuyên ngành hoặc không phù hợp với thực tế
hoạt động của ngành ngân hàng.
Ngoài ra, do những đặc thù riêng của ngành ngân hàng, tiêu chuẩn niêm yết sẽ
được bổ sung những tiêu chuẩn riêng có liên quan đến hoạt động ngân hàng như tỷ
lệ nợ xấu, đáp ứng các quy định về đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động
ngân hàng, về tuân thủ giới hạn sở hữu cổ phần theo quy định của Thống đốc, về
hồ sơ xin niêm yết v.v...
Do đặc tính liên thông cao của hệ thống ngân hàng, do vị trí là huyết mạch của
nền kinh tế, sự an toàn và ổn định hệ thống đối với các NHTMCP được đặt lên
hàng đầu. Các tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu đối với các NHTMCP do đó sẽ phải
chặt chẽ hơn, yêu cầu cao hơn, đảm bảo các NHTMCP được niêm yết sẽ là những
ngân hàng thực sự “khoẻ mạnh”, không chỉ đáp ứng nâng cao chất lượng hàng hóa
trên TTCK mà còn đủ nội lực để canh tranh bình đẳng và an toàn.
3.3.2. Hình thức niêm yết cổ phiếu NHTMCP Việt Nam
Theo Luật các tổ chức tín dụng, NHTMCP là “Ngân hàng cổ phần của Nhà
nước và nhân dân”, vốn sở hữu của các NHTMCP có phần vốn sở hữu của
NHTMQD hoặc của các DNNN. Do vậy, hình thức niêm yết hiện nay sẽ là niêm
yết từng phần, trong đó phần vốn góp của Nhà nước không được niêm yết.
Quan điểm của NHNN hiện nay thì cổ phiếu của Chủ tịch hội đồng quản trị,
Tổng giám đốc và cổ phiếu của cổ đông nước ngoài không được phép niêm yết.
Khi những kiến nghị lâu nay về việc xoá bỏ quy định bắt buộc có vốn sở hữu Nhà
nước trong cơ cấu sở hữu vốn của các NHTMCP được xem xét và chấp thuận thì
việc niêm yết toàn phần là hoàn toàn có thể thực hiện được. Bởi quy định về vốn
sở hữu Nhà nước trong sở hữu vốn của các NHTMCP là một ràng buộc hạn chế rất
nhiều đến khả năng tăng vốn của các NHTMCP, nhất là trong tiến trình hội nhập.
Song, để đảm bảo an toàn hệ thống và xây dựng những bước phát triển vững chắc
cho các NHTMCP niêm yết trên thị trường chứng khoán thì thời gian đầu tiên,
hình thức niêm yết từng phần là phù hợp nhất.
3.3.3. Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại cổ phần Việt nam
Theo Quyết định số 787/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN quy định
tạm thời về việc NHTMCP đăng ký niêm yết và phát hành cổ phiếu ra công chúng,
điều kiện để NHTMCP được đăng ký xin niêm yết cổ phiếu là:
1. Vốn điều lệ thực có (gồm vốn điều lệ thực góp trừ số lỗ luỹ kế và các
khoản rủi ro chưa được trích lập dự phòng) tối thiểu bằng mức vốn pháp định được
quy định theo từng thời kỳ.
2. Có thời gian hoạt động tối thiểu là 05 năm và hoạt động kinh doanh có lãi
liên tục trong 2 năm gần nhất kể từ thời điểm xin niêm yết cổ phiếu.
3. Tỷ lệ nợ xấu (bao gồm: các khoản nợ quá hạn, nợ chờ xử lý, nợ cho vay
được khoanh được thể hiện trên Bảng cân đối kế toán hàng tháng, nợ chuyển cho
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để xử lý thu hồi vốn cho tổ chức tín dụng