Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.56 KB, 23 trang )

LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
VÀ THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
1.1 Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt
Nam
1.1.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Vì vậy trong bất kỳ lĩnh
vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Đối với cuộc sống đời thường rủi ro
có thể là những điều hết sức đơn giản chẳng hạn như bị mất cắp....; đối với các
ngân hàng thương mại luôn luôn phải đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là rủi ro
do khách hàng trả nợ không đúng hạn, cũng có thể là do ngân hàng không đáp ứng
được nhu cầu rút tiền của người gửi tiền……
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt –
hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi phải
trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại đang có thay đổi
mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng
với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn
cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di chuyển hơn, nhạy
cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc tìm kiếm
nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống. Mặt khác tài sản
của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng
khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ của Ngân hàng
ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền đầu tư của
mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng
do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro do những
biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân hàng không kiểm soát
tốt được các khoản vay…Điều này không chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn
diễn ra ở trên Thế giới. Chẳng hạn vào cuối năm 1997, khủng hoảng tài chính đã
làm cho nhiều Ngân hàng ở châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản hoặc phải
sát nhập; cũng vào năm 1997, nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam do mở rộng
cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tóm lại tất cả các
loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả nảng xảy ra tổn thất cho


ngân hàng.
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau thì rủi ro của Ngân hàng được chia thành
những loại khác nhau. Nếu phân chia theo nguyên nhân các nhân tố tác động thì rủi
ro Ngân hàng bao gồm: rủi ro do người vay không trả được nợ cho Ngân hàng, rủi
ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác
như mất trộm, cháy nổ, giấy tờ giả…Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản
như sau:
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc
thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến khoản
cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.
Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự
kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt
động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến, Ngân hàng coi đó là
một thành công trong quản lý.
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả lãi.
Còn khi tài trợ, Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và
chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho Ngân
hàng, ngược lại cũng có thể gây tổn thất cho Ngân hàng. Như vậy rủi ro lãi suất là
khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi
ngoài dự kiến. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác
định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và
rủi ro quyền chọn đi kèm.
• Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể gồm:
- Do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất cố định.

- Do sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến.
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều
kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện các biện pháp để hạn chế
rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân hàng
thương mại.
• Các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
- Phải duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ và tài sản
có.
- Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản vay lớn, thời
hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế lãi suất thả nổi.
- Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bảng, như sử dụng các
nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi, nghiệp vụ kỳ hạn về lãi
suất tiền vay, thực hiện hợp đồng tương lai do không cân xứng tài sản nợ và tài sản
có; thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi suất.
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu
khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ
giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của Ngân
hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay
đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
Những nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
- Lãi suất.
- Các chính sách của chính phủ.
- Sự đầu cơ trên thị trường.
- Tính nhạy cảm của thị trường.
- Lạm phát.
- Sự ổn định về chính trị.
Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn
trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Để hạn chế rủi ro tỷ giá người ta có thể có một số giải pháp sau:

Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lí rủi
ro. Việc phòng ngừa rủi ro có thể dùng các nghiệp vụ sẵn có trên thị trường. Việc
phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap, dùng giao dịch
quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến Ngân
hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Vì vậy Ngân hàng nên thực hiện đa
dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phụ thuộc quá nhiều vào Đôla
Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với những biến động bất thường về tỷ giá.
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và Tài
sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không có đủ
tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không
có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc
mất khả năng thanh toán).
Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như:
- Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu hồi được vì chưa
đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các khoản nợ đến
hạn (do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động).
- Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được nợ làm cho
Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách
khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo
các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
- Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng ngay lập
tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô, do thông tin
bất lợi cho Ngân hàng.
Thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi Ngân
hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến làm
giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị lỗ trong
kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do việc huy
động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản. Ngược lại

khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy trì số tiền không sinh lời hoặc
sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán) cũng sẽ dẫn đến thu nhập
thấp, giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trường hợp mất khả năng thanh toán cũng dẫn đến việc NH bị phá sản vì
mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả những khoản nợ chưa
đến hạn) trong khi những khách nợ của NH không thanh toán vì các khoản nợ chưa
đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả việc chi phí cao hơn mức
bình thường.
Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra
đối với chính Ngân hàng đó mà nó thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của khách hàng
tại các Ngân hàng khác. Trường hợp xảy ra đối với NHTM cổ phần Á Châu cuối
năm 2003 là một minh chứng cho việc đó. Khi khách hàng rút tiền tại NHTM cổ
phần Á Châu, nhiều NH khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã phải xây
dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp sự rút tiền ồ ạt của khách hàng lan
truyền. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng thanh toán đó là
việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng.
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, việc các Ngân hàng thương
mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu. Một trong
những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công việc được
xem là có nhiều rủi ro. Vậy rủi ro trong quản lý và bảo quản chứng từ có giá là gì?
Đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu trong việc
quản lý và kinh doanh các loại chứng từ có giá. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải
chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:
• Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thương mại nắm giữ luôn
có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính bản thân
Ngân hàng thương mại, hoặc từ Chính phủ…Vì vậy các Ngân hàng thương mại sẽ
bị giảm giá trị tài sản nếu như dự đoán không đúng về tình hình thị trường, gây ra
những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
• Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi giấy

tờ có giá mà một Ngân hàng thương mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này (ngoại trừ
trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng thưong mại có thể chọn loại hình giấy tờ có
giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng luôn phải đánh giá
đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hành không thể thanh toán
được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể đối với các Ngân hàng; nó gián tiếp gây
ra những thiệt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc gia. Chính vì thế mà các
quốc gia đều đặt ra những quy định chỉ cho phép Ngân hàng thương mại được
phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng ở một mức nào đó.
• Rủi ro nhân sự: hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng thương mại
rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân, nhân viên Ngân hàng. Chính vì
thế mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của Ngân hàng là điều không
thể tránh khỏi, đặc biệt là trong hoạt động môi giới đầu tư cho khách hàng.
• Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một nhu cầu
thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm khả năng
thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản.
• Rủi ro khác: các rủi ro khác mà một Ngân hàng phải đối mặt trong quản lý và
kinh doanh giấy tờ có giá bao gồm những rủi ro như cháy, mất mát, cướp…Và còn
nhiều rủi ro tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn có tác động qua
lại lẫn nhau.
• Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro quan
trọng khác như:
- Rủi ro chính trị: khi xảy ra những thay đổi về pháp luật, những quy định về
luật pháp trong và ngoài nước sẽ có ảnh hưởng xấu tới thu nhập của Ngân hàng.
- Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân viên hay các
khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa đảo, biển thủ, trộm
cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm Ngân hàng thua lỗ.
- Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất bất
ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn….
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng

Như đã trình bày ở phần trên: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn
thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi
của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng và
Ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ
thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó tại thời điểm cấp tín dụng
và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán
đầy đủ và đúng hạn của khách hàng mình với một xác suất cao, còn xác suất mất
khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều. Trái phiếu coupon có thu
nhập cố định và giấy nhận nợ tín dụng đối với Ngân hàng là hai ví dụ điển hình về
giấy nhận nợ do công ty phát hành. Trong cả hai trường hợp, Ngân hàng đều đầu tư
vào các giấy nhận nợ nhằm nhận được trái tức từ trái phiếu và lãi suất từ khoản tín
dụng nếu người vay tiền không bị phá sản. Trường hợp người vay tiền phá sản,
Ngân hàng thường không thu được lợi tức cũng như lãi suất và có thể bị mất toàn
bộ hoặc một phần vốn gốc là phụ thuộc vào khả năng Ngân hàng tiếp cận đối với
tài sản của con nợ trong khi giải quyết phá sản hoặc giải thể.
Nếu coi khoản tiền hoàn trả đúng hạn cho ngân hàng khi đầu tư vào trái
phiếu và các khoản chênh lệch vay tín dụng là X thì X sẽ là biến ngẫu nhiên. Đồ
thị dưới đây minh họa phân phối xác suất của khả năng khoản tiền hoàn trả X so
sánh với khoản tiền gốc và lãi khách hàng phải trả.
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất khoản tiền hoàn trả

P

Chúng ta thấy rằng đỉnh của đồ thị biểu diễn xác suất hoàn trả đầy đủ cả gốc
và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1). Đặc điểm luân
chuyển vốn của các công ty có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng ở các
mức độ khác nhau. Tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền lãi là
khoảng cách từ điểm “gốc” đến điểm “gốc và lãi”; và tỷ lệ không thanh toán được
một phần hay toàn bộ tiền gốc là từ điểm “0” đến điểm “gốc”. Đồ thị 1.1 cũng chỉ

ra rằng xác suất mà ngân hàng thu được cả gốc và lãi là cao hơn nhiều so với
trường hợp không thu được cả gốc và lãi, điều này nói lên rằng bổn phận của Ngân
hàng là phải đánh giá được mức độ rủi ro dự tính của các khoản đầu tư và đặt yêu
cầu cho phần thu nhập phụ trội so với rủi ro tương xứng với mức độ rủi ro của các
chứng khoán mà Ngân hàng nắm giữ.
gốc
tiền hoàn trả
gốc và lãi
0
P=1

×