Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Một số điều cần biết về bệnh dịch tả gà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.11 KB, 3 trang )

Một số điều cần biết về bệnh dịch tả gà
Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính và lây lan rất nhanh, bệnh này gây tổn hại trên
đường hô hấp, tiêu hóa và thần kinh, là bệnh nguy hiểm thường gây nhiễm ghép với các
bệnh khác và tỉ lệ chết rất cao (có thể là 100%).
Nguyên nhân: Bệnh do vi rút Paramyxovirus serotype 1 thuộc họ Paramyxovididae.
Bệnh này gây hại cho mọi lứa tuổi ở gà.

Cách sinh bệnh và phương thức truyền lây: Mọi lứa tuổi gà đều mắc bệnh, tuy nhiên
bệnh dễ xảy ra trên gà con nhất. Virus có thể lây lan qua trứng do virus cảm nhiễm
trong ống dẫn trứng, vỏ trứng bị nhiễm khi ấp hay khi đẻ, lây trực tiếp giữa gà khỏe
tiếp xúc với gà bệnh hoặc mang trùng, lây gián tiếp qua môi trường cũ có mầm bệnh do
chưa sát trùng kỹ. Virus xâm nhập vào cơ thể gà qua đường hô hấp, tiêu hóa hoặc niêm
mạc, da do tiếp xúc với thức ăn, nước uống hoặc môi trường đã nhiễm bệnh, thời gian ủ
bệnh 2-15 ngày trung bình: 5-6 ngày. Khi virus xâm nhập vào đường hô hấp, tiêu hóa,
nếu nhóm virus có độc lực yếu thì nhân lên trong tế bào biểu mô hô hấp và tiêu hóa và
ở đó khi có điều kiện thuận lợi sẽ phát triển thành bệnh.

Đối với virus cường độc sau khi xâm nhập thì nhân lên trong hệ thống tiêu hóa và hô
hấp sau đó vào máu và đến các cơ quan để gây bệnh.

Triệu chứng
Đặc trưng của bệnh: trong đàn xuất hiện những con gà ủ rũ, xoải cánh (gà khoác áo
tơi), ăn ít, diều căng chứa đầy hơi hoặc thức ăn không tiêu, gà khó thở và há miệng kêu
“khót khót” nhất là vào ban đêm, da khô, chân lạnh, cầm chân dốc ngược có nước chảy
ra ở mỏ. Gà ỉa chảy phân màu trắng hay xanh, nhớt.
Bệnh diễn biến theo 3 thể.
- Thể quá cấp tính: Bệnh tiến triển nhanh, chết trong 25-48 giờ với những biểu
hiện triệu chứng chung (không rõ rệt) như: bỏ ăn, suy sụp, xù lông, gục đầu, sốt, khó
thở…
- Thể cấp tính: Bệnh xảy ra với những biểu hiện triệu chứng điển hình như: Gà
ủ rũ, ăn ít sau bỏ ăn, thích uống nước, lông xù, xã cánh đứng rù hoặc nằm một chỗ, gà


tím tái, xuất huyết ở mồng và yếm gà. nhiều dịch nhờn chảy ra từ mũi và mỏ, gà thở
khò khè, gà bệnh hay bị sưng diều, tiêu chảy phân lẫn máu màu phân trắng xám mùi
tanh…Đối với gà đẻ trứng thì giảm đẻ rất nhiều, trứng nhỏ màu trắng nhợt, xuất huyết
túi lòng đỏ. Tỷ lệ chết lên đến 100%.
- Thể mãn tính: thường xảy ra sau đợt dịch với các triệu trứng như: gà ngoẻo đầu,
liệt chân, đầu mỏ gục xuống, mất thăng bằng, có khi quay vòng tròn..Gà chết do xáo
trộn hô hấp, thần kinh, kiệt sức rồi chết.

Bệnh tích: Diều chứa đầy thức ăn, nước. Bệnh tích đặc trưng là xuất huyết có khi hoại
tử ở ruột và ngã ba van hồi manh tràng, xuất huyết dạ dày tuyến (cuống mề), ruột bị
viêm, xuất hiện những nốt loét có phủ bựa mầu trắng vàng.
- Gà con hoặc gà thịt: xuất huyết khí quản, phù đầu, mắt sưng to.
- Ở gà đẻ trứng: thì nang trứng trong buồng trứng bị thoái hóa mềm nhão xuất huyết.
- Viêm màng kết hợp với viêm mắt.

Phòng, điều trị bệnh: bệnh này không thuốc chữa mà chỉ có phòng bệnh, các biện
pháp phòng bệnh gồm:

Các biện pháp an toàn sinh học: Không nên nuôi chung gà các lứa tuổi; đảm bảo đầy
đủ thức ăn, nước uống đủ chất, sạch sẽ; chuồng khô ráo; không nhốt chung gà mới mua
về với gà khoẻ đang nuôi, cần cách ly nuôi riêng trong vòng 10 ngày. Kết hợp với chăm
sóc nuôi dưỡng tốt, bổ sung trong thức ăn nước uống các vitamin, khóang, chất dinh
dưỡng để tăng sức kháng bệnh.
Luôn vệ sinh sạch sẽ và tiêu độc sát trùng xung quanh khu vực chuồng nuôi, không cho
người không phận sự vào khu vực chuồng nuôi, trước mỗi dãy chuồng đều phải có hố
tiêu độc sát trùng. Tránh để gà bị stress, đặc biệt là vào những tháng nắng nóng vì gà là
động vật dễ bị ảnh hưởng của khí hậu bên ngoài. Chuồng gà nên có hệ thống làm mát
tự động để kịp điều chỉnh tiểu khí hậu trong chuồng cho phù hợp với sức khỏe của gà

Phương pháp dùng vác xin: Phòng bệnh chủ yếu là dùng vaccin, các loại nhỏ mắt,

mũi, miệng cho gà con lúc 1 – 3 ngày tuổi và lặp lại 2 lần nữa (giai đoạn từ 2 đến 4
tuần).

×