Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.02 KB, 44 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH XÂY LẮP
I . MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM XÂY LẮP.
1.1.Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp có ảnh hưởng đến công tác kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Cơ sở vật chát kỹ thuật là nền tảng phát triển của mỗi quốc gia. Nền tảng có
vững chắc thì phát triển mới ổn định và bền vững. Cơ sở vật chất được tạo nên
không thể thiếu bàn tay đóng góp của ngành XDCB.
XDCB là ngành sản xuất độc lập mang tính chất công nghiệp nhằm tái tạo và
trang bị hạ tầng cơ sở, góp phần hoàn thiện cơ cấu kinh tế, tạo tiền đề thực hiện
CNH-HĐH đất nước. Là một ngành có liên quan đến đầu vào của nền kinh tế,
chuyển vốn đầu tư tích luỹ thành năng lực sản xuất và tài sản cố định (TSCĐ) cho
các ngành khác, mấy năm trước tăng thấp , thậm trí có thời kỳ còn giảm - năm
1995 chiếm 6,9%GDP nhưng năm 1999 chỉ chiếm 5,4%GDP thì đến năm 2001 đã
chiếm 5,8%GDP và năm 2002 là 5,9%GDP . với mức tăng này, gần như chắc chắn
ngành sẽ vượt mục tiêu tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp - xây dựng đến
năm 2005 the nghị quyết kỳ họp thứ 10 - Quốc hội khoá X là 38-39% và mục tiêu
đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là 40- 41%
GDP. Mặt khác, đầu tư cho XDCB là đầu tư cho tương lai. Cho nên dù cho nền
kinh tế phát triển thế nào đi nữa thì xây dựng cơ bản vẫn luôn giữ một vị trí quan
trọng, bởi nó thuộc về nhu cầu thiết yếu của con người.
Nói như vậy, để thấy rằng XDCB không chỉ tạo ra bề nổi cho mỗi quốc gia
mà còn phản ánh nội lực kinh tế - chính trị - xã hội , thậm chí là bản sác văn hoá
của một dân tộc. Tuy nhiên , để hiểu rõ bản chất của XDCB so với các ngành sản
xuất khác, chúng ta cần đi sâu tìm hiểu về đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc
điểm sản phẩm, tổ chức sản xuất và quản lý thể hiện rõ trong quá trình sáng tạo ra
sản phẩm của ngành. Từ đó tìm ra các biện pháp tăng cường quản lý chi phí, hạ giá
thành, nâng cao chất lượng, tạo uy tín và sức bật cho doanh nghiệp trong cạnh
tranh trên thị trường.


- Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc ..... có quy mô lớn, kết
cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất dài.... Do vậy, việc tổ chức
quản lý và hạch toán nhất thiết phải dựa trên cơ sở các dự toán thiết kế, thi công....
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thoả thuận
với chủ đầu tư từ trước , do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm thể hiện không rõ.
- Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện như: máy móc
thi công, nguyên vật liệu, nhân công.. phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm.
- Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, từ vài chục đến vài trăm
năm. Sản phẩm xây lắp cần thiết cho mọi người và có tính phổ bién rộng rãi trong
xã hội. Điều này có nghĩa doanh nghiệp xây lắp có một thị trường tiềm năng lớn.
- Tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp ở nước ta hiện nay, phổ biến
theo phương thức khoán gọn theo công trình hạng mục công trình(HMCT), khối
lượng hoặc công việc cho các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp (đội, xí nghiệp...).
Trong giá khoán gọn, không chỉ có tiền lương mà còn có đủ các chi phí về vật
liệu,công cụ, dụng cụ, thi công,chi phí chung của bộ phận nhận khoán.
- Những đặc điểm cơ bản của ngành XDCB nói trên có ảnh hưởng rất lớn đến
công tác kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất nói riêng. Để phát huy đầy
đủ vai trò là công cụ phục vụ quản lý kinh tế, công tác kế toán trong doanh nghiệp,
đặc biệt là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành phải được tổ chức phù hợp với
đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, kinh tế kĩ thuật, quy trình công nghệ sản
phẩm, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh chế độ, thể lệ kế toán do nhà nước ban
hành.vậy nhiệm vụ chủ yếu đặt ra là phảiấac định được chính xác đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành phù hợp với điều kiện thực tế của
doanh nghiệp.
1.2. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
1.2.1. khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí xây lắp.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản
xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kì phương thức sản xuất nào cũng gắn với sự vận
động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, đây
là quá trình kết hợp của ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao

động. Như vậy, để tiến hành sản xuất, doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí về thù lao
lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên chi
phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào
ý chí chủ quan của người sản xuất.
Vậy chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà
doanh nghiệp phải chi ra trong một thời kỳ nhất định. Nói cách khác, thực chất chi
phí là sự dịch chuyển vốn - vhuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối
tượng tính giá.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh trong suốt trong quá trình tồn tại
và phát triển. Nhưng để phục vụ quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất
được tập hợp theo từng thời kì như hàng thàng, hàng quý, hàng năm..... phù hợp
với kỳ báo cáo.
1.2.2 Phân loại chi phí xây lắp.
Trong doanh nghiệp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có tính chất kinh tế,
có mục đích công dụng khác nhau, và yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí
cũng khác nhau. Do đó, đòi hỏi phải có sự phân loại chi phí sản xuất là một yêu
cầu tất yếu khách quan để hạch toán chi phí sản xuất, phấn đấu hạ giá thành sản
phẩm.
Phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và thống nhất không những có ý
nghĩa đối với công tác kế toán mà còn là tiền đề quan trọng cho kế hoạch hoá,
kiểm tra phân tích chi phí sản xuất; thúc đẩy không ngừng tiết kiệm chi phí,hạ giá
thành của doanh nghiệp. Thông thường, chi phí xây lắp được phân loại theo các
tiêu thức sau.
a . Phân loại theo nội dung kinh tế.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế giống nhau của chi phí để xếp chúng vào
từng loại. Mỗi loại là một yếu tố chi phí có cùng nội dung kinh tế và không thể
phân chia hơn nữa, bất kể chi phí đó dùng làm gì và phát sinh ở địa điểm nào.
Có 5 yếu tố chi phí sau:
- Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu: gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính

mua ngoài(gạch, đá, xi măng, sắt ,...), nguyên, nhiên, vật liệu phụ, phụ tùng thay
thế...sử dụng vào sản xuất kinh doanh (trừ nguyên vật liệu dùng không hết nhập lại
kho).
- Chi phí nhân công: Phản ánh tổng số tiền lương và các khoản phụ cấp mang
tính chất lương phải trả cho người lao động. (BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ
lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân viên
chưc).
- Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ mà doanh
nghiệp phải trích trong kỳ như: máy thi công, nhà xưởng ....
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh chi phí mua ngoài phục vụ cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như: tiền điện, nước mua ngoài tiền điện
thoại ....
- Chi phí bằng tiền khác: gồm tất cả các loại chi phí bằng tiền khác phát sinh
trong kỳ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cách phân loại này cho thấy mức chi phí về lao động vật hoá và lao động
sống trong toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh; giữ nguyên được tính
nguyên vẹn của từng yếu tố bất kể nó được chi ở đâu và có quan hệ thế nào với quá
trình sản xuất. Phân loại chi phí sản xuất theo cách này có tác dụng rất lớn trong
công tác kế toán cũng như công tác quản lý chi phí. Điều này hết sức quan trọng
trong việc xây dựng và xết duyệt trong việc định mức vốn lưu động, kiểm tra sự
cân đối giữa kế hoạch cung cấp vật tư, lao động, tiền lương, khấu hao TSCĐ...
b . Phân loại theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh chi phí.
Căn cứ vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh, chi phí sẽ được xếp vào
một loại, gọi là khoản mục chi phí. Có các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: gồm toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu
chính, nguyên vật liệu phụ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất trong kỳ...
- Chi phí nhân công trực tiếp: là khoản chi phí về tiền lương, các khoản phụ
cấp theo lương của công nhân trực tiếp xây lắp kể cả công nhân thuê ngoài( chi phí
này không bao gồm tiền lương của công nhân điều khiển xe, máy thi công, chi phí
khấu hao...)

- Chi phí sản xuất chung: là chi phí phục vụ xây lắp tại các đội, bộ phận sản
xuất kinh doanh bao gồm: chi phí tiền lương của nhân viên quản lý đội, tổ sản xuất,
chi phí các khoản trích theo lương ( BHXH,BHYT, KPCĐ) tính trên tổng quỹ
lương của công nhân sản xuất, chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ chung cho bộ phận
quản lý đội...
- Chi phí sử dụng máy thi công: là khoản chi phí phát sinh tại các đội sản xuất
nhằm phục vụ cho công tác sản xuất trong kỳ, khoản chi phí này bao gồm tiền
nhân công điều hành máy, chi phí nguyên, nhiên, vật liệu. . . .
Phân loại chi phí theo cách này giúp doanh nghiệp theo dõi được từng khoản
mục chi phí phát sinh, từ đó tiến hành đối chiếu với giá thành dự toán của công
trình để có thể biết được chi phí đó phát sinh ở đâu, tăng hay giảm so với dự toán.
Ngoài hai cách phân loại trên thường được các doanh nghiệp áp dụng còn có một
số cách phân loại khác như:
* Phân loại theo mối quan hệ chi phí và đối tượng chịu chi phí ( chia chi phí
thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp).
* Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí và khối lượng công việc, sản phẩm
xây lắp hoàn thành ( chia chi phí thành chi phí cố định và chi phí biến đổi).
Mỗi cách phân loại chi phí có ý nghĩa riêng. Tuy nhiên, chúng có mối quan
hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau nhằm phục vụ cho công tác quản lý được
tốt hơn.
Trong ngành XDCB hiện nay, doang nghiệp chủ yếu áp dụng cách phân loại
theo khoản mục chi phí bởi tính phù hợp của nó với đặc điểm ngành là lập dự toán
cho từng đối tượng trước khi thi công; tạo điều kiện cho việc xác định mật độ ảnh
hưởng của các yếu tố đầu vào lên giá thành sản phẩm, phục vụ cho công tác tính
giá trị sản phẩm dược đầy đủ, chính xác.
Như vậy, có thể thấy qua việc nhận biết bản chất và phân loại chi phẫyây lắp
rất đa dạng, phát sinh một cách thường xuyên trong quá trình sản xuất. Nó luôn
vận động, thay đổi, tính đa dạng của nó gắn liền với sự đa dạng và phức tạp của
các loại hình sản xuất khác nhau, sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật.
Chi phí xây lắp rất đặc trưng bởi tính đặc thù, riêng biệt của ngành XDCB. Cho

nên, việc tập hợp chi phí sản xuất trong xây lắp ảnh hưởng trực tiếp tới việc tính
giá thành sản phẩm xây lắp.
1.3. Giá thành sản phẩm xây lắp.
1.3.1 Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm xây lắp.
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm 2 mặt: mặt hao phí
sản xuất và kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí,
để đánh giá được chất lượng sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp thì chi phí
bỏ ra phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với kết quả sản xuất. Quan hệ
so sánh này hình thành nên khái niệm ''giá thành sản phẩm".
Theo quan điểm kế toán Việt Nam hiện nay, giá thành sản phẩm xây lắp là
biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh
trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt, mỗi công trình, hạng mục
công trình hay khối lượng xây lắp khi đã hoàn thành đều có giá riêng. Đây là một
trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động và quản lý
kinh tế của doanh nghiệp. Bản chất của giá thành là toàn bộ kết quả sự dịch chuyển
giá trị các yếu tố chi phí vào vào sản phẩm xây lắp hoàn thành . Với ý nghĩa đó, nó
thể hiện hai chức năng chủ yếu là thước đo bù đắp chi phí và lập giá. Tuy nhiên
mục đích kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở mức độ trang trải
đủ chi phí mà còn phải tạo ra lợi nhuận. Cho nên, việc xác định giá thành sản phẩm
cho phù hợp với giá thị trường mà vẫn sinh lời cũng là một chiến lược kinh doanh
hết sức quan trọng.
Trong xây lắp, giá thành sản phẩm là yếu tố quan trọng bậc nhất giúp doanh
nghiệp thắng trong đấu thầu. Nếu giá thành hạ hơn thì giá bỏ thầu bỏ ra sẽ thấp
hơn. Tuy nhiên, hạ giá thành không có nghĩa là không đảm bảo chất lượng và giá
trị thẩm mỹ của công trình vì đó là tiền đề tạo uy tín cho doanh nghiệp trong cạnh
tranh.
Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, được sự cho phép của nhà nước, một số
doanh nghiệp đã linh hoạt, chủ động đa dạng hoá hoạt động, xây dựng một số công
trình( chủ yếu là công trình dân dụng) sau đó bán lại cho đối tượng có nhu cầu với

giá bán hợp lý. Trong trường hợp này, xác định đúng giá thành sản phẩm xây lắp là
yếu tố quan trọng để xác định giá bán.
Thông qua chỉ tiêu giá thành phần nào biết được trình độ kỹ thuật, tổ chức thi
công, sử dụng vật tư, thiết bị, lao động . . . . . Vấn đề đặt ra là tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành để sản phẩm được thị trường chấp nhận. Đây là nhiệm vụ quan trọng và
thường xuyên của công tác quản lý kinh tế trong doanh nghiệp, đảm bảo tăng tốc
độ và quy mô phát triển sản xuất, tăng tích luỹ và cải thiện đời sống cho người lao
động.
1.3.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp.
Để đáp ứng nhu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như
yêu cầu xây dựng giá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi tính
toán khác nhau. Về lý luận cũng như thực tế, giá thành được chia thành nhiều loại
như sau:
a . Phân loại theo thời điểm và nguồn số liệu tính giá thành.
Theo cách này, giá thành sản phẩm xây lắp được chia ra:
- Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp.
Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật được
duyệt và khung giá thành quy định, đơn giá XDCB áp dụng cho từng vùng, lãnh
thổ, địa phương do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Giá thành dự toán của
công trình, HMCT
=
Giá trị dự toán của
công trình, HMCT
-
Lợi nhuận
định mức
Trong đó:
+ giá trị dự toán là chỉ tiêu làm căn cứ cho doanh ngiệp xây lắp xây dựng kế
hoạch sản xuất. Đồng thời cũng làm căn cứ để cơ quan quả lý nhà nước giám sát

hoạt động của doanh nghiệp xây lắp. Đây là chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp
cấu kiện, lắp đặt máy móc thiết bị. Nó bao gồm các chi phí trực tiếp, chi phí chung
và lợi nhuận định mức.
+ Lợi nhuận định mức lad chỉ tiêu Nhà nước quy định để tích luỹ cho xã hội
do ngành XDCB tạo ra.
- Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định xuất phát từ điều kiện cụ thể
ở mỗi đơn vị xây lắp trên cơ sở biện pháp thi công, các định mức, đơn giá áp dụng
trong đơn vị. Giá thành kế hoạch phản ánh trình độ quản lý chi phí sản xuất, có
tính chất định ra mục tiêu tiết kiệm chi phí so với giá thành dự toán dựa trên năng
lực thực tế của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định .
- Giá
thành
thực tế: là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hình
thành một đối tượng xây lắp nhất định và được xác dịnh theo số liệu kế toán cung
cấp. Nó không chỉ bao gồm những chi phí trong định mức mà còn bao gồm những
chi phí vượt định mức như: các khoản thiệt hại trong sản xuất, lãng phí vật tư, lao
động ... do những nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp.
* Về nguyên tắc, mối quan hệ giữa ba loại giá thành trên phải đảm bảo như
sau :
Giá thành dự toán ≥ Giá thành kế hoạch ≥ giá thành thực tế
Đây cũng là nguyên tắc khi xây dựng kế hoạch giá thành và tổ chức thực
hiện kế hoạch hoá giá thành. Có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo có lãi, có tích
luỹ cho nhà nước và có điều kiện tái sản xuất, mở rộng doanh nghiệp.
b . Phân loại theo phạm vi của chỉ tiêu giá thành
Theo cách này, chỉ tiêu giá thành được chia ra:
- Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan
đến việc sản xuất sản phẩm xây lắp. Giá này được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã
hoàn thành nhập kho hoặc đã bàn giao cho khách hàng và là căn cứ để tính tính giá
vốn hàng bán và lợi nhuận gộp.
- Giá thành toàn bộ: là chỉ tiêu bao gồm giá thành sản xuất cộng thêm chi phí

bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Giá này xác định khi sản phẩm xây lắp
được tiêu thụ, và là căn cứ cho biết lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
Ngoài ra trong xây dựng cơ bản còn sử dụng hai chỉ tiêu giá thành sau:
- Giá đấu thầu xây lắp: là giá do chủ đầu tư đưa ra để các doanh nghiệp căn cứ
vào đó tính giá thành của mình( còn gọi là giá dự thầu công tác xây lắp )
- Giá hợp đồng xây lắp; là giá dự toán xây lắp ghi trong hợp đồng đước ký kết
giữa hai nhà đầu tư và doanh nghiệp xây lắp sau khi thoả thuận nhận thầu. Đây
chính là giá của doanh nghiệp xây lắp thắng trong đấu thầu và được chủ đầu tư ký
kết hợp đồng giao nhận.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện tập trung thành tích của doanh nghiệp trong
việc tổ chức và sử dụng các biện pháp kỹ thuật thực hiện sản xuất sản phẩm. Giá
thành trong xây lắp có nhiều loại, mỗi loại lại có ý nghĩa kinh tế riêng.
Bởi thế, việc hạch toán giá thành cụ thể, chính xác được coi là xuất phát điểm của
giá cả, có vai trò quan trọng trong việc tăng cường quản lý giá.
1.4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây
lắp.
Giá thành kế hoạch của
công trình, HMCT
=
Giá dự toán của
công trình, HMCT
-
Mức hạ giá
thành kế hoạch
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ,
biện chứng với nhau trong quá trình tạo ra sản phẩm. Chúng đều có giới hạn để tập
hợp chi phí nhằm phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra giá thành.
Giá thành của công
trình, HMCT
=

Giá dự toán của
công trình, HMCT
-
Mức hạ giá thành
kế hoạch
Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau bên trong nó là chi
phí sản xuất và lượng giá trị thu được cấu thành trong khối lượng công việc hoàn
thành. Hơn nữa, chi phí biểu hiện về mặt hao phí, còn giá thành biểu hiện về mặt
kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình. Vì
vậy, chúng giống nhau về mặt chất, nhưng xét về mặt khác chúng lại có sự độc lập
tương đối với nhau.
- Về lượng: Trong giá thành bao gồm cả chi phí phát sinh ở kỳ trước và loại
trừ chi phí ở kỳ này chuyển sang kỳ sau.
- Về thời gian: Trong giá thành, các khoản chi phí phát sinh ở kỳ trước lại
được tính vào giá thành kỳ này, có những khoản chi phí kỳ này nhưng không được
tính vào giá thành kỳ này mà chuyển sang kỳ sau. Giá thành và chi phí chỉ thống
nhất về mặt lượng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành là một công trình, HMCT được hoàn thiện trong kỳ tính giá hoặc giá trị khối
lượng xây lắp dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau.
Để phản ánh được mối quan hệ giữa chi phí và giá thành đòi hỏi phải hạch
toán chi phí sản xuất đầy đủ và chi tiết, đồng thời còn vận dụng các phương pháp
kỹ thuật nhằm nêu ra một cách chính xác giữa chi phí và kết quả sản xuất. Đó
chính là mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.5. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp.
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp nên việc quản lý
nói chung rất khó khăn phức tạp, trong đó công tác quản lý chi phí dẫn đén tiết
kiệm chi phí xây lắp và hạ giá thành sản phẩm đang là một trong những mối quan
tâm hàng đầu của doanh nghiệp.
Theo " Điều lệ quản lý đầu tư " của chính phủ:"công tác quản lý đầu tư và

XDCB phải đảm bảo tạo ra nhữnh sản phẩm, dịch vụ được xuất hiện và thị trường
chấp nhận về giá cả, chất lượng và đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội trong từng thời kỳ.... Xây dựng phải theo quy hoạch được duyệt, thiết
kế hợp lý, tiên tiến, thẩm mỹ, công nghệ xây dựng phải hiện đại, xây dựng đúng
tiến độ đạt chất lượng caovới chi phí hợp lý...."
Vì vậy, yêu cầu của công tác tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm phải đạt được những yêu cầu sau:
- Phản ánh kịp thời chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong quá trình
sản xuất. Tính toán chính xác, phân bổ kịp thời giá thành xây lắp theo đối tượng
tính giá .
- Phân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoản mục vào các đối tượng
tập hợp chi phí, áp dụng phương pháp tính toán thích hợp.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật liệu, lao động, sử
dụng máy, dự toán chi phí gián tiếp, phát hiện kịp thời các khoản chi phí chênh
lệch ngoài định mức, đề ra các biện pháp ngăn ngừa kịp thời.
- Thông qua ghi chép, tính toán để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của
từng doanh nghiệp. Kịp thời lập báo cáo kế toán về chi phí và giá thành theo quy
định của cơ quan chủ quản cấp trên.
Hiện nay, do phương thức thi công chủ yếu là đấu thầu trong xây lắp , công
tác quản lý chi phí có tác động lớn tới việc thắng thầu, tăng khả năng cạnh tranh và
thu lợi nhuận cao. Hơn nữa. do cơ chế thị trường với bản chất " thương trường là
chiến trường" nên đây là yếu tố cần thiết và bắt buộc đối với doanh nghiệp nếu như
họ không muốn là" kẻ chiến bại" .
Không thể phủ nhận rằng, quản lý kinh doanh là một nghệ thuật và quản lý
chi phí sản xuất là một bí quyết thuộc về mỗi doanh nghiệp. Trong lĩnh vữc
XDCB, quản lý chi phí tốt không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà còn tác động rất
lớn tới việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước. Bởi thế, yêu cầu đặt ra
là:"hiệu quả tối ưu mà không lãng phí " cần phải được quán triệt tới từng công
trình,HMCT.
II. KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT.

2.1 Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
2.1.1 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn mà chi phí cần tập hợp
nhằm phục vụ cho việc thông tin kiểm tra chi phí và tính giá thánh sản phẩm. Giới
hạn tập hợp chi phí sản xuất có thể là nơi phát sinh chi phí hoặc đối tượng chịu chi
phí. Việc xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí có tính chất quyết định tới việc
lựa chọn phương pháp kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Xuất phát từ đặc điểm trong XDCB, có quy trình công nghệ phức tạp, sản
phẩm được sản xuất đơn chiếc riêng lẻ, theo đơn đặt hàng, và việc tổ chức sản xuất
được tổ chức thành nhiều khu vực thi công nên đối tượng tập hợp chi phí có thể là:
- Theo sản phẩm hoặc theo đơn đặt hàng : sản phẩm xây lắp là các công trình,
HMCT có dự toán riêng. Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh có liên quan đến
công trình, HMCT nào thì được tập hợp vào đối tượng đó một cách thích hợp.
- Theo bộ phận sản phẩm: Đó là các giai đoạn xây lắp của công trình,HMCT
có dự toán riêng...Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp cho từng
giai đoạn xây lắp có liên quan.
- Theo nhóm sản phẩm: áp dụng đối với đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng,
cấu kiện lắp sẵn. Trong đó, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm được chia thành
nhiều giai đoạn công nghệ, vật liệu được chế biến liên tục từ khâu đầu đến khâu
cuối theo một trình tự hất định. Chi phí được tập hợp cụ thể sau mỗi giai đoạn kết
thúc.
Mặc dù, đối tượng tập hợp chi phí khá nhiều nhưng trên thực tế các doanh
nghiệp xây lắp hiện nay thường tập hợp chi phí theo công trình và HMCT. Tuy
nhiên, việc xác định đối tượng đúng và đầy đủ cần phải có những căn cứ cụ thể,
phù hợp:
- Căn cứ vào tính chất và quy trình sản xuất sản phẩm phức tạp hay giản đơn,
nhiều hay ít giai đoạn công nghệ ...
- Loại hình sản xuất sản phẩm: sản xuất đơn chiếc hay hàng loạt.
- Đặc điểm tổ chức sản xuất: có hay không có phân xưởng, đội sản xuất.
- Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.

- Căn cứ vào đơn vị tính giá thành áp dụng trong doanh nghiệp.
Như vậy, sự phức tạp và khác biệt của ngành XDCB cũng có ảnh hưởng đến
việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Rất cụ thể, đây chính là điều kiện
thuận lợi cho việc xác định phương pháp tập hợp chi phí sản xuất phù hợp và hiệu
quả.
2.1.2 phương pháp tập hợp chi phí sản xuất.
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các
phương pháp sử dụng để tập hợp và phân loại chi trong phạm vi giới hạn của đối
tượng tập hợp chi phí.
Trên cơ sở đối tượng tập hợp chi phí, kế toán sẽ lựa chon phương pháp thích
hợp . cụ thể trong đơn vị xây lắp là:
- Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo công trình hay HMCT .
Hàng tháng, chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến công trình, HMCT nào thì tập
hợp cho công trình, HMCT đó. Các khoản chi phí được phân chia theo tổng số
khoản mục tính giá thành. Giá thành thực tế của đối tượng chính là tổng số chi phí
được tập hợp cho từng đối tượng kể từ khi khởi công đến hoàn thành.
- Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn đặt hàng : Chi phí
phát sinh hàng tháng sẽ được phân loại theo đơn đặt hàng riêng biệt. Khi hoàn
thành thì tổng chi phí được tập hợp theo đơn đặt hàng chính là giá thành thực tế.
Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp doanh nghiệp xác định đối tượng
tập hợp chi phí là đơn đặt hàng riêng biệt .
- Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn vị thi công:Theo đó các
chi phí phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công công trình. Trong đơn vị
đó, chi phí lại được tập hợp theo từng đối tượng chịu chi phí như công trình, nhóm
HMCT. Trên thực tế có những chi phí phát sinh liên quan đến nhiều công trình,
HMCT. Do vậy cần phải phân bổ chi phí theo tiêu thức thích hợp.
- Phương pháp tập hợp chi phí theo khối lượng công việc hoàn thàn h:
Theo phương pháp này, toàn bộ chi phí phát sinh trong thời kỳ nhất định được tập
hợp cho đối tượng tập hợp chi phí. Giá thành thực tế cuqr khối lượng công tác xây
lắp hoàn thành là toàn bộ chi phí bỏ ra trong giai đoạn thi công khối lượng đó.

2.2 Trình tự kế toán chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp bao gồm rất nhiều loại với nội
dung, phương pháp hạch toán khác nhau. Trước hết chi phí được biểu hiện theo
yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục chi phí rổi mới biểu
hiện thành các khoản mục chi phí khi tính vào giá thành. Vịêc tập hợp chi phí và
tính giá thành phải được tiến hành theo một trình tự khoa học, hợp lý. Trong
XDCB có thể khái quát việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau:
- Bước 1: Tập hợp các chi phí sản xuất liên quan trực tiếp đến từng đối tượng
sử dụng(công trình, HMCT).
-Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của ngành sản xuất kinh doanh phụ có
liên quan trực tiếp cho từng đối tượng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ.
- Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các sản phẩm có
liên quan theo tiêu thức phù hợp.
- Bước 4: Tổng hợp chi phí sản xuất, đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ. Từ
đó tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
Ngoài ra, việc hạch toán chi tiết chi phí sản xuất còn phụ thuộc vào phương
pháp hạch toán chi tiết hàng tồn kho mà doanh nghiệp sử dụng. Trước đây, trong
doanh nghiệp xây lắp để hạch toán hàng tồn kho, có thể lựa chọn phương pháp kê
khai thường xuyên hoặc kiểm kê định kỳ. Theo quy định hiện hành, để hạch toán
hàng tồn kho trong xây lắp, kế toán chỉ áp dụng phương pháp kê khai thường
xuyên . Ưu điểm của phương pháp này là theo dõi thường xuyên liên tục tình hình
biến động tăng, giảm của các yếu tố sản xuất.
2.2.1 Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính ( xi măng, cát,
sỏi...), vật liệu phụ(sơn, phụ gia,...) các cấu kiện riêng lẻ, nhiên liệu( xăng, dầu..)
và các loại vật liệu khác được xuất dùng trực tiếp cho thi công (loại trừ nguyên,
nhiên vật liệu dùng cho máy móc thi công).
CPNVLTT thường chiếm tỷ trọng lớn (70-80%) trong giá thành sản phẩm
xây lắp và được hạch toán trực tiếp cho từng công trình. Nếu vật tư sử dụng chung
cho nhiều công trình thì phải phân bổ cho các đối tượng theo tiêu thức hợp lý

( định mức tiêu hao, khối lượng sản phẩm thực hiện...)
Chi phí phân bổ
cho tong đối tượng
=
Tiêu thức phân bổ
của từng đối tượng
X
Hệ số
phân bổ
Trong đó:
Hệ số phân bổ =
Tổng chi phí nguyên vật liệu cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ
Doanh nghiệp xây lắp có thể xuất vật tư cho thi công từ kho hoặc mua vật tư
nhập thẳng vào công trường. Khi có nghiệp vụ phát sinh, kế toán căn cứ vào chứng
từ gốc để hạch toán.
- Trường hợp vật tư xuất từ kho của kho của đơn vị, chứng từ gốc là phiếu
xuất vật tư, phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ hay phiếu xuất vật tư theo hạn
mức..
Trường hợp vật tư mua về nhập thẳng chân công trình, chứng từ gốc để hạch
toán là hoá đơn bán hàng, hoá đơn kiêm xuất kho của người bán .... trên cơ sở đó
có thể lập bảng phân bổ vật tư cho công trình .
Để hạch toán, kế toán sử dụng TK 621 "chi phí nguyên vật liệu trực tiếp". Kết
cấu và nội dung phản ánh như sau:
Bên Nợ:
-Trị giá thực tế nguyên liệu, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho hoạt động xây
lắp, sản xuất công nghiệp , kinh doanh dịch vụ trong kỳ hạch toán(gồm có thuế
GTGT, hoặc không có thuế GTGT).
Bên Có:
- Trị giá nguyên liệu, vật liệu trực tiếp sử dụng không hết nhập lại kho.

- Kết chuyển hoặc tính phân bổ trị giá nguyên vật liệu thực tế sử dụng trong
các hoạt động xây lắp trong kỳ vào TK 154 - chi phí sản xuất kinh doanh dở dang,
và chi tiết cho các đối tượng để tính giá thành công trình xây lắp, giá thành sản
phẩm , dịch vụ, lao vụ. . .
TK 621 không có số dư cuối kỳ.
* Phương pháp kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp được khái quát theo
sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ KẾ TOÁN CHI PHÍ NGUYÊN VẬT LIỆU TRỰC TIẾP
TK152,153 TK 621 TK 152,153,111..
Xuất NVL,CCDC Thu hồi vật tư sử dụng
Trực tiếp (ở kho) không hết
TK 111,112,331... TK 154

Xuất mua NVL
( không qua kho)
TK 133 Kết chuyển chi phí
Thuế GTGT nguyên vật liệu trực tiếp
đầu vào

2.2.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp
CPNCTT là toàn bộ số tiền lương, phụ cấp phải trả cho công nhân trực tiếp
sản xuất, thi công xây lắp. Chi phí nhân công bao gồm tiền lương phải trả theo thời
gian, theo sản phẩm, trả làm thêm giờ và tiền thưởng..., ăn giữa ca, phụ cấp.
CPNCTT được hạch toán vào chi phí sản xuất theo đối tượng tập hợp chi phí
( công trình, HMCT...). Trong trường hợp, CPNCTT có liên quan đến nhiều đối
tượng thì sẽ được phân bổ theo phương pháp thích hợp( định mức tiền lương của
từng công trình theo tỷ lệ so với khối lượng xây lắp hoàn thành..)
Chứng từ ban đầu để hạch toán khoản mục là các bảng chấm công, hợp đồng
làm
khoán cùng các chứng từ có liên quan..

Để hạch toán, kế toán sử dụng TK 622 "chi phí nhân công trực tiếp". Kết cấu
và nội dung phản ánh như sau:
Bên Nợ:
- Chi phí nhân công trực tiếp tham gia quá trình sản xuất sản phẩm( xây lắp,
sản xuất sản phẩm công nghiệp, cung cấp dịch vụ) bao gồm: tiền lương, tiền công
lao động và các khoản trích trên tiền lươngtheo quy định.
-Riêng đối với hoạt động xây lắp không bao gồm các khoản trích trên tiền
lương theo quy định.
Bên Có:
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên Nợ TK 154 - chi phí sản xuất
kinh doanh dở dang.
TK 622 không có số dư cuối kỳ.
* Phương pháp kế toán chi phí nhân công trực tiếp được khái quát theo sơ đồ
sau:
SƠ ĐỒ KẾ TOÁN CHI PHÍ NHÂN CÔNG TRỰC TIẾP
TK 111,112,334 TK 622 TK 154

PhảI trả nhân viên
trực tiếp sản xuất

Kết chuyển CPNCTT
TK335 theo đối tượng tập hợp chi phí
Trích trước tiền lương
nghỉ phép của CNTTSX
2.23 Kế toán chi phí sử dụng máy thi công.
Đây là khoản chi phí đặc trưng cho hoạt động xây dựng cơ bản. Trong quá
trình thi công, máy thi công góp phần trợ lực rất nhiều cho người lao động và
chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm xây lắp. Máy thi công bao gồm:
Máy trộn bê tông, xe ô tô, xe lu, máy trải thảm. . . Chi phí sử dụng máy thi công
gồm chi phí về vật tư, lao động, nhiên liệu,chi phí sửa chữa máy(đối với máy của

công ty) và chi phí thuê máy ở ngoài.
Để hạch toán, kế toán sử dụng TK 623 " chi phí sử dụng máy thi công". Kết
cấu và nội dung phản ánh như sau:
Bên Nợ:
Các chi phí liên quan đến máy thi công (chi phí nguyên, nhiên vật liệucho
máy
hoạt độn, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương, tiền công của công
nhân trực tiếp điều khiển máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công ...)
Bên Có
Kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào bên nợ TK 154- chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang.
TK 623 không có số dư cuối kỳ.
Việc hạch toán chi tiết chi phí máy thi công, phụ thuộc vào hình thức sử dụng
máy thi công. Cụ thể:
a . Trường hợp tổ chức đội máy thi công riêng biệt và có phân cấp hạch
toán cho đội máy có tổ chức hạch toán kế toán riêng.
Trong trường hợp này đơn vị không sử dụng TK623 mà các chi phí xây lắp
được hạch toán trực tiếp vào TK 621,622,627,theo sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ KẾ TOÁN CHI PHÍ SỬ DỤNG MÁY THI CÔNG
(CỦA ĐỘI MÁY CÓ HẠCH TOÁN RIÊNG)
TK621 TK 154 TK 152,111
K/C CPNVLTT
Khoản giảm CPSDMTC
TK 622
K/C CPNCTT
TK 632
TK 627 Giá thành thực tế của đội
K/C CPSXC máy thi công phục vụ đội xây lắp



TK 512 TK 623
Giá bán của đội máy thi công cho đội xây lắp

TK 133(1331)
TK 333(3331)
Thuế VAT đầu vào khấu trừ (nếu có)
Thuế VAT đầu ra
TK 131,111,112
TK511

Tổng giá thanh toán đội phục vụ cho bên ngoài
b Trường hợp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt, hoặc có tổ chức
đội máy thi công riêng biệt nhưng không tổ chức kế toán riêng cho đội máy thi
công.
Trong kỳ, kế toán tiến hành lập toàn bộ CPSDMTC ( kể cả chi phí thường
xuyên và tạm thời) vào TK 623. cuối kỳ căn cứ vào bảng phân bổ chi phí sử dụng
máy thi công ( chi phí thực tế ca máy) tính cho từng công trình, hạng mục công
trình. Quy trình hạch toán được thực hiện qua sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ KẾ TOÁN CHI PHÍ SỬ DỤNG MÁY THI CÔNG
(CỦA ĐỘI MÁY KHÔNG HẠCH TOÁN RIÊNG)
TK 152,153 TK 623 TK 111,152,153
Xuất kho vật liệu, dụng cụ
Phát sinh giảm CPSDMTC
TK 334

Tiền công phải trả cho công
Nhân điều khiển máy
TK154
TK 214
K.C, phân bổ CPSDMTC

Trích khấu hao MTC cho từng đối tượng
TK 141, 111,112
Chi phí bằng tiền

TK 331, 111, 112
Chi phí dịch vụ mua ngoài
TK 133


Thuế VAT đầu vào
2.2.4 Kế toán chi phí sản xuất chung
CPSXC là các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất của đội xây
dựng nhưng không trực tiếp cấu thành nên thực thể công trình, bao gồm: lương
nhân viên quản lý đội, trích BHXH, BHYT,KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định,
khấu hao TSCĐ dùng chung cho đội ...
Do CPSXC được tập hợp từng đội và liên quan đến nhiều công trình nên cuối
kỳ kế toán phải tiến hành phân bổ cho các đối tượng liên quan theo tiêu thức phù
hợp như: tiền lương công nhân sản xuất, CPSDMTC, khối lượng xây lắp. .
Mức CPSXC
Phân bổ cho
Từng đối tượng
=
Tổng CPSXC
Tổng tiêu thức phân bổ
X
Tiêu thức phân
bổ của từng đối
tượng

×