Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.28 KB, 32 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
I.1. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và sự cần thiết việc kế toán
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp:
I.1.1 Đặc điểm SXKD của ngành xây dựng cơ bản:
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng,hoạt động độc lập
và có chức năng tái sản xuất TSCĐ cho nền kinh tế quốc dân, tạo nên cơ sở
vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế cho đất nước.Trong những
năm thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý, cũng như các ngành kinh tế khác,
XDCB ngày càng đổi mới và phát triển,đã , đang và sẽ tiếp tục thực hiên mục
tiêu hiện đại hoá đất nước.
Là một ngành sản xuất vật chất kỹ thuật mang tính chất của ngành sản xuất
công nghiệp song ngành XDCB có những đặc điểm kinh tế- kỹ thuật riêng,
điều này được thể hiện rất rõ qua đặc điểm của sản phẩm xây lắp và quá trình
hình thành nên sản phẩm xây lắp.Những đặc điểm này đã chi phối tới công
tác hạch toán nói chung, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm nói riêng. Cụ thể:
- Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu
phức tạp, mang tính đơn chiếc và thời gian thi công kéo dài, quá trình thi công
chia làm nhiều giai đoạn. Vì vậy yêu cầu về tổ chức quản lý, tổ chức thi công
và giải pháp thi công phải phù hợp với đặc điểm của từng công trình cụ thể.
Đồng thời phải xây dựng được dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công)
riêng cho mỗi công trình. Trong quá trình thi công phải so sánh với dự toán,
lấy dự toán làm thước đo. sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán
(giá thanh toán với bên chủ đầu tư) hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá
thoả thuận này cũng phải được xác định trên dự toán công trình).
- Sản phẩm xây lắp mang tính chất cố định, nơi sản xuất đồng thời là nơi sử
dụng sản phẩm và địa điểm xây dựng luôn thay đổi theo địa bàn thi công. Nên
các điều kiện sản xuất: lao động, máy móc thiết bị... luôn phải di chuyển theo


công trình sẽ làm ảnh hưởng đến công tác tổ chức sản xuất và công tác hạch
toán tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn cũng trở nên phức tạp hơn đặc biệt là
máy thi công, vật tư luân chuyển tham gia vào nhiều công trình trong một kỳ
hạch toán.
- Trang 1 -
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp tương đối dài nên mọi sai lầm trong
quá trình thi công thường khó sửa chữa, phải phá đi làm lại. Do đó trong quá
trình thi công phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ chất lượng công
trình.
- Hoạt động xây lắp thường diễn ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp của
điều kiện tự nhiên và do đó việc thi công xây lắp ở một mức độ nào đó mang
tính chất thời vụ. Do đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần tổ chức
quản lý lao động, vật tư chặt chẽ, đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ trong
điều kiện thời tiết thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng thi công, có thể làm các thiệt hại phát sinh do ngừng
sản xuất nên doanh nghiệp cần có kế hoạch cho phù hợp nhằm tiết kiệm được
chi phí, hạ giá thành.
- Sản phẩm xây lắp không nhập kho sau quá trình sản xuất mà tiêu thụ ngay
tại nơi sản xuất theogiá dự toán hoặc giá đã được thoả thuận với chủ đầu tư
từ trước trong hợp đồng. Vì vậy, tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp
không được thể hiện rõ.
Với những đặc điểm này công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp
bị chi phối và làm ảnh hưởng đến phương pháp, trình tự hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm, tạo ra sự khác biệt giữa hạch toán chi phí sản
xuất trong doanh nghiệp xây lắp so với các ngành sản xuất khác.
I.1.2. Sự cần thiết phải tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp:
a) Vai trò của kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm trong

doanh nghiệp xây lắp:
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải hạch toán kinh
tế độc lập và chịu sự chi phối của quy luật thị trường. Trước sự cạnh tranh gay
gắt, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động kinh doanh
phải có hiệu quả, thu nhập phải bù đắp được chi phí. Các doanh nghiệp xây
lắp cũng không phải là một ngoại lệ. Để trúng thầu một công trình nào đó, đòi
hỏi doanh nghiệp phải đưa ra được một giá dự thầu hợp lý có khả năng cạnh
tranh với các đối thủ cùng tham gia đấu thầu. Giá dự thầu của doanh nghiệp
được xây dựng dựa trên giá dự toán do chủ thầu đưa ra trên cơ sở các định
mức đơn giá xây dựng theo quy định của Nhà nước, phù hợp với giá cả thị
trường và khả năng của doanh nghiệp.
Hơn nữa, do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản là sản phẩm quy mô lớn,
kết cấu phức tạp, có quá trình thi công kéo dài chia làm nhiều giai đoạn... nên
để đảm bảo thi công đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình đồng thời
quản lý, sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư, lao động, tiền vốn... tránh hao hụt,
lãng phí nhằm hạ giá thành công trình thì điều quan trọng là phải có biện pháp
- Trang 2 -
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
để quản lý chi phí sản xuất và giá thành một cách có hiệu quả. Một trong
những biện pháp đó là bằng công cụ kế toán, thông qua công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Mặt khác, để xác định đúng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình, các doanh nghiệp phải xác định được giá thành sản phẩm xây lắp vì giá
thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả sử dụng tài sản, lao
động và tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mà điều này chỉ được
thực hiện thông qua kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp.
Như vậy, công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm đóng một vai trò quan trọng, cung cấp thông tin kịp thời, chính xác

phục vụ yêu cầu quản lý trong doanh nghiệp.
b) Yêu cầu của kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp:
Do sản phẩm của ngành xây lắp thường có giá trị lớn, chi phí đầu tư XDCB
chiếm khoảng 30% trong các khoản chi ngân sách nhà nước nói chung và cho
một sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong doanh nghiệp xây lắp nói riêng. Để
vốn đầu tư được quản lý chặt chẽ,đảm bảo không thất thoát và sủ dụng một
cáh có hiệu quả, hoạt động của ngành XDCB phải đáp ứng được các yêu cầu
sau:
- Công tác đầu tư XDCB phải tạo ra những sản phẩm được xã hội công
nhận về giá cả, chất lượng, thiết kế thẩm mỹ…đáp ứng được mục tiêu phát
triển của xã hội trong từng thời kỳ.
- Thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước cũng như nước
ngoài vào Việt Nam, khai thác tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng lao
động…Đặc biệt chú trọng việc bảo vệ môi trường sinh thái.
- Xây dựng phải theo quy hoạch được duyệt,thiết kế hợp lý,mỹ quan,công
nghệ hiện đại,đảm bảo đúng tiến độ chất lượng cao với giá thành hợp lý.
(Trích điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng được ban hành kèm theo nghị
quyết số 177/CP ngày 20/10/1994)
Riêng với công tác kế toán tập hợp CPSX vá tính giá thành sản phẩm phải
đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phản ánh kịp thời , chính xác,trung thực, hợp lý các chi phí phát sinh
trong quá trình thi công công trình.
- Phân bổ các chi phí đã tập hợp được theo từng khoản mục và chi tiết cho
từng đối tượng liên quan theo tiêu thức hợp lý.
- Trang 3 -
3

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đảm bảo thực hiện đúng các định mức về chi phí vật tư, nhân công, sủ
dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung, phát hiện các chi phí phát sinh
ngoài định mức và dự toán để có biên pháp khắc phục kịp thời nhằm SXKD
có lãi.
- Kiểm tra việc tính giá thành theo từng khoản mục chi phí,theo từng hạng
mục công trình,tìm ra khả năng tiềm tàng và đề xuất biện pháp hạ giá thành
sản phẩm.
- Phản ảnh hiệu quả SXKD của đơn vị trong từng thời kỳ, kịp thời lập các
báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phục vụ cho
nhu cầu quả lý của doanh nghiệp.
c) Nhiệm vụ của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp:
Nhằm tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm , đảm bảo các yêu cầu về quản lý chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp, kế toán phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đắn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành một cách hợp lý phù hợp với đặc điểm quy trình công
nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định bằng phương pháp thích hợp đã
chọn, cung cấp kịp thời những số liệu, thông tin tổng hợp về các khoản mục
chi phí và yếu tố chi phí quy định, xác định đúng chi phí sản xuất dở dang
cuối kỳ.
- Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính toán giá thành và
giá thành đơn vị của các đối tượng tính giá thành theo đúng các khoản mục
quy định và đúng kỳ giá thành đã xác định.
- Định kỳ tiến hành phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí và
dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá
thành sản phẩm, phát hiện kịp thời khả năng tiềm tàng đề xuất biện pháp thích

hợp để phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
I.2 :Khái niệm, bản chất, nội dung kinh tế của kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp:
I.2.1: Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp
I.2.1.1-Khái niệm:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp xây lắp cũng
như bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có ba yếu tố cơ bản là tư liệu
lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh
- Trang 4 -
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của doanh nghiệp xây lắp là một quá trình biến đổi có ý thức, có mục đích các
yếu tố đầu vào để tạo nên thực thể sản phẩm là các công trình, hạng mục công
trình nhất định. Quá trình sử dụng các yếu tố sản xuất để tạo nên sản phẩm
cũng là quá trình phát sinh những hao phí nhất định về tư liệu lao động, đối
tượng lao động và sức lao động. Để đo lường các hao phí mà doanh nghiệp đã
bỏ ra trong một thời kỳ nhất định nhằm tổng hợp, xác định kết quả kinh
doanh, phục vụ cho yêu cầu quản lý thì mọi hao phí được biểu hiện dưới hình
thái giá trị gọi là chi phí sản xuất.Ngoài ra, để tạo nên thực thể sản phẩm,
doanh nghiệp còn phải bỏ ra những chi phí cần thiết khác như các khoản trích
BHXH, BHYT, KPCĐ... Như vậy có thể nói, chi phí sản xuất là toàn bộ hao
phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác mà doanh nghiệp
đã chi ra trong quá trình sản xuất sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong một thời kỳ
nhất định biểu hiện bằng tiền.
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà
doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành hoạt động thi công xây lắp trong một
thời kỳ nhất định.
Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai nhân tố:

- Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao vào quá trình sản xuất
trong một thời kỳ nhất định
- Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền lương của một đơn vị lao
động đã hao phí.
I.2.1.2:Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất sản phẩm xây
lắp:
Trong quá rình hoạt động SXKD, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải
bỏ ra những chi phí nhất định là điều kiện vật chất tiền đề để tạo ra sản phẩm.
Quá trình tái sản xuất mở rộng trong doanh mghiệp xây lắp là tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật cho xã hội.Để sản xuất các sản phẩm này doanh nghiệp xây lắp
phải tiêu dùng các nguồn lực là các yếu tố đầu vào, tạo nên chi phí và cấu
thành trong yếu tố đầu ra là các công trình , hạng mục công trình hoàn thành
đưa vào sử dụng. Như vậy, tuy các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra đều biểu
hiện dưới hình thái giá trị nhưng bản chất của chi phí xây lắp là sự chuyển
dịch vốn,chuyển dịch giá trị các yếu tố sản xuất và các đối tượng tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp phá sinh thường xuyên trong các
quá trình thi công. Để phục vụ cho việc quản lý và hạch toán, chi phí sản xuất
phải được tập hợp ,tính toán theo từng kỳ nhất định như tháng, quý , năm.Chi
phí sản xuất phát sinh trong kỳ chỉ bao gồm các chi phí bỏ ra trong kỳ đó,
không bao gồm chi phí từ kỳ trước chuyển sang.Chi phí sản xuất trong ngành
xây lắp có nhiều loại nên cần phân loại chi phí theo những tiêu thức nhất định
nhằm thuận tiện cho việc quản lý và hạch toán.
- Trang 5 -
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.2.1.3. Phân loại chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp:
Chi phí sản xuất bao gồm nhiều khoản chi có nội dung, công dụng khác
nhauvà có mục đích sử dụng không như nhau. Hơn nữa trong xây dựng cơ
bản, việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ dựa vào số liệu tổng hợp mà còn

cần phải dựa vào số liệu chi tiết, cụ thể của từng loại chi phí theo từng công
trình, hạng mục công trình trong từng thời điểm nhất định. Do vậy, để phục
vụ cho công tác quản lý nói chung và công tác kế toán nói riêng, cần phải
phân loại chi phí theo những tiêu thức thích hợp.
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp thường được phân loại theo
những tiêu thức chủ yếu sau:
a) Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Phân loại theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí là căn cứ vào đặc
điểm kinh tế giống nhau của chi phí để xếp chúng vào cùng một loại. Mỗi loại
là một yếu tố chi phí có cùng nội dung kinh tế và không thể phân chia được
nữa, bất kể chi phí đó phát sinh ở đâu và được dùng vào mục đích gì trong sản
xuất sản phẩm (phục vụ cho quản lý hay trực tiếp sản xuất sản phẩm). Do vậy,
cách phân loại này còn được gội là phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi
phí.
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành các yếu tố chi
phí:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ các chi phí về nguyên liệu,
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phục tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây
dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng cho các hoạt động sản xuất trong
kỳ.
- Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ chi phí tiền lương, tiền công, phụ cấp
và các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp xây lắp và của nhân
viên quản lý phân xưởng, bộ phận sản xuất.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao
tài sản cố định sử dụng cho sản xuất của doanh nghiệp như các loại máy thi
công, nhà xưởng...
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp đã
chi trả về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài như: tiền điện, tiền nước... phục
vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí bằng tiền khác: bao gồm toàn bộ chi phí khác dùng cho hoạt động

sản xuất của doanh nghiệp ngoài các yếu tố chi phí đã kể trên.
Cách phân loại chi phí này cho phép ta biết được trong quá trình sản xuất
doanh nghiệp cần phải chi ra những chi phí gì và cơ cấu, tỷ trọng của từng
yếu tố chi phí trong tổng chi phí như thế nào. Cách phân loại nằy là cơ sở để
kế toán để kế toán tập hợp chi phí sản xuất nói riêng và chi phí sản xuất kinh
- Trang 6 -
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
doanh nói chung theo từng yếu tố chi phí để phục vụ cho việc lập báo cáo chi
phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố.
- Đồng thời thông qua cách phân loại này, việc tập hợp chi phí sản xuất
theo yếu tố làm cơ sở để xây dựng dự toán chi phí cho kỳ tiếp theo và là cơ sở
để lập kế hoạch về lao động, vật tư, tiền vốn... cho kỳ tiếp theo.
b) Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí:
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí trong
sản để chia thành các khoản mục chi phí khác nhau. Những chi phí có chung
mục đích, công dụng được xếp chung vào một khoản mục chi phí, không
phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Do vậy, cách phân loại
này còn được gọi là phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục.
Trong doanh nghiệp xây lắp, toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
được chia thành các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: là chi phí của các vật liệu chính
(cát, sỏi, đá, xi măng...), vật kết cấu, vật liệu phụ, vật liệu luân chuyển (ván
khuôn, đà giáo...), bán thành phẩm... cần thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp.
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí về tiền công, phụ cấp của
công nhân trực tiếp xây lắp kể cả công nhân phụ... Chi phí nhân công trực tiếp
không bao gồm các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định
tính trên tiền lương phải trả của công nhân trực tiếp xây lắp. Khoản này được
tính vào chi phí sản xuất chung.
- Chi phí sử dụng máy thi công là chi phí sử dụng máy thi công để hoàn

thành sản phẩm xây lắp (đối với các doanh nghiệp xây lắp thực hiện thi công
hỗn hợp). Chi phí sử dụng máy thi công bao gồm:
+ Chi phí nhân công
+ Chi phí vật liệu
+ Chi phí dụng cụ sản xuất
+ Chi phí khấu hao máy thi công
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ Chi phí bằng tiền khác
Chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm các khoản trích BHXH,
BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tiền lương của công nhân điều khiển
máy thi công , khoản này được tính vào chi phí sản xuất chung.
- Trang 7 -
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất
chung ở các đội (phân xưởng) sản xuất và các chi phí ngoài chi phí nguyên
liệu, vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí sản xuất chung bao gồm:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng (đội xây dựng)
+ Chi phí vật liệu
+ Chi phí dụng cụ sản xuất
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ Chi phí bằng tiền khác
Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí là cơ sở để
tập hợp chi phí sản xuất theo từng khoản mục chi phí làm căn cứ để tính giá
thành sản phẩm xây lắp theo khoản mục. Đồng thời cũng là cơ sở để kiểm tra
tình hình thực hiện định mức chi phí và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch
giá thành và kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
c) Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng

hoạt động:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành 3 loại:
- Chi phí cố định (định phí): là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi
có sự thay đổi về khối lượng hoạt động. Khối lượng hoạt động có thể là số
lượng sản phẩm hoàn thành, số giờ máy hoạt động.
- Chi phí khả biến (biến phí): là các chi phí thay đổi về tổng số khi có sự
thay đổi của khối lượng hoạt động.
- Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó gồm các yếu tố của định
phí và biến phí.
Việc phân loại chi phí thành định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp có ý
nghĩa quan trọng trong việc thiết kế, xây dựng các mô hình chi phí trong mối
quan hệ giữa chi phí, khối lượng, lợi nhuận, đưa ra các quyết định quan trọng
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời, việc phân loại này còn giúp
cho các nhà quản lý trong doanh nghiệp xác định được đúng phương hướng
để nâng cao hiệu quả của chi phí.
Ngoài các cách phân loại nêu trên, chi phí sản xuất còn được phân loại theo
các cách khác thường sử dụng trong kế toán quản trị như:
- Phân loại theo mối quan hệ và khả năng quy nạp chi phí vào các đối
tượng kế toán chi phí thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
- Phân loại chi phí theo nội dung cấu thành của chi phí thành chi phí đơn
nhất và chi phí tổng hợp.
- Phân loại căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với quy trình công nghệ
sản xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh thành chi phí cơ bản và chi phí
chung...
- Trang 8 -
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
I.2.2. Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp:
I.2.2.1-Khái niệm:

Để tiến hành xây dựng công trình hoặc hoàn thành lao vụ, doanh nghiệp
phải đầu tư vào quá trình thi công một lượng chi phí nhất định. Tuy nhiên, chi
phí chỉ thể hiện hao phí lao động bỏ ra. Để đánh giá được chất lượng sản xuất
kinh doanh, chi phí phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với kết quả
sản xuất. Mối quan hệ đó hình thành nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc một
đơn vị sản phẩm (công việc, lao vụ) do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ các chi phí tính bằng tiền để hoàn
thành khối lượng sản phẩm xây lắp theo quy định.
I.2.2.2-Bản chất và nội dung kinh tế của giá thàh sản phẩm xây lắp
Khác với các doanh nghiệp các ngành khác, giá thành sản phẩm xây lắp
mang tính chất cá biệt vì mỗi công trình, hạng mục công trình đều có giá trị
riêng và giá bán (giá nhận thầu hoặc giá hợp đồng) đã được biết trước khi xác
định được giá thành thực tế. Do đó, thông qua chỉ tiêu giá thành doanh nghiệp
có thể xác định được hiệu quả của việc sử dụng vật tư, lao động tiền vốn trong
quá trình sản xuất cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, kinh tế,
kỹ thuật, và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản xuất, tiết kiệm chi phí nâng cao lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
Giá thành sản phẩm xây lắp thường có 4 khoản mục:
- Khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Khoản mục chi phí nhân công
- khoản mục chi phí sử dụng máy thi công
- khoản mục chi phí sản xuất chung
I.2.2.3-Phân loại giá thành:
Trong doanh nghiệp xây lắp, giá thành sản phẩm xây lắp thường được
phân loại theo 2 cách như sau:
a) Phân loại căn cứ vào cơ sở số liệu và thời gian tính giá thành:
Theo cách phân loại này thì giá thành sản phẩm được chia thành các loại:
- Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây

lắp công trình.
Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức, quy định của Nhà
nước và khung giá quy định áp dụng theo từng vùng lãnh thổ.
Giá thành dự toán Giá trị dự toán Thu nhập Thuế
- Trang 9 -
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của công trình, hạng = công trình, hạng mục - chịu thuế - GTGT
mục công trình công trình sau thuế tính trước
đầu ra

Giá thành dự toán được xây dựng và tồn tại trong những điều kiện trung bình
về sản xuất thi công, về tổ chức quản lý, về hao phí lao động vật tư... cho
từng công trình hoặc công việc nhất định. Giá thành dự toán có tính cố định
tương đối và mang tính chất xã hội.
- Giá thành kế hoạch: là giá thành được xây dựng trên cơ sở những điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức, đơn giá, biện pháp thi công
trong một kỳ kế hoạch nhất định.

Giá thành kế = Giá thành - Mức hạ giá thành
hoạch dự toán dự toán

Giá thành kế hoạch là một chỉ tiêu để các doanh nghiệp xây lắp tự phấn đấu
để thực hiện mức lợi nhuận do hạ giá thành trong kỳ kế hoạch.
- Giá thành thực tế: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để hoàn
thành bàn giao khối lượng mà doanh nghiệp đã nhận thầu.
Giá thành thực tế bao gồm các chi phí theo định mức, vượt định mức và
không trong định mức như các khoản thiệt hại trong sản xuất, các khoản bội
chi, lãng phí về vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất và quản lý
của doanh nghiệp được phép tính vào giá thành. Giá thành thức té biểu hiện

chất lượng, hiệu quả về kết quả hoạt động của doanh nghiệp xây lắp.
Giá thành thực tế được xác định theo số liệu kế toán về chi phí sản xuất đã tập
hợp được cho khối lượng xây lắp thực hiện được trong kỳ.
So sánh các loại giá thành trên với nhau, ta sẽ đánh giá được chất lượng sản
xuất thi công và công tác quản lý chi phí, quản lý giá thành của doanh nghiệp
xây lắp. Về nguyên tắc phải đảm bảo:
Giá thành dự toán ≥ Giá thành kế hoạch ≥ Giá thành thực tế
b) Phân loại căn cứ vào phạm vi các chi phí cấu thành giá thành:
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm xây lắp được chia làm 2
loại:
- Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): bao gồm các chi phí sản xuất
như: chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sử dụng máy thi công và chi phí sản xuất chung tính cho công trình, hạng mục
công trình hoặc lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp được sử dụng để ghi sổ cho sản
phẩm đã hoàn thành. Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp là căn cứ để
xác định giá vốn hàng bán và lợi nhuận ở các doanh nghiệp xây lắp.
- Trang 10 -
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây lắp: bao gồm giá thành sản xuất của
sản phẩm xây lắp cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
tính cho sản phẩm đó.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây lắp chỉ được tính toán xác định khi sản
phẩm xây lắp hoặc lao cụ được tiêu thụ. Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây
lắp là căn cứ để xác định lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
I.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp:
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác

mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành hoạt động thi công xây lắp trong một
thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất sẽ dần kết tinh trong sản phẩm. Kết quả
cuối cùng là doanh nghiệp có đc các công trình, hạng mục công trình hoàn
thành. Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ các chi phí tính bằng tiền để
hoàn thành công trình, hạng mục công trình đó.
Như vậy xét về bản chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái
niệm giống nhau. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để thực hiện thi
công xây lắp hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ biểu hiện bằng tiền.
Tuy nhiên giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự khác biệt
ở một số phương diện sau:
Chi phí sản xuất là chi phí chi ra trong một khoản thời gian nhất định vừa liên
quan đến khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành, vừa liên quan đến khối
lượng sản phẩm xây lắp chưa hoàn thành.
Còn giá thành sản phẩm là chi phí chi ra tính cho khối lượng sản phẩm xây
lắp đã hoàn thành bao gồm cả chi phí sản xuất của kỳ này và chi phí sản xuất
của kỳ trước nằm trong giá trị sản phẩm xây lắp làm dở đầu kỳ.
Sự khác nhau này được biểu hiện thông qua công thức:

Giá thành sản phẩm = Giá trị sản phẩm + Chi phí phát - Giá trị sản phẩm
hoàn thành dở dang đầu kỳ sinh trong kỳ dở dang cuối kỳ
I.3:Đối tượng và phương pháp hạch toán tập hợp chi phí sản xuất
trong doanh nghiệp xây lắp:
I.3.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp phát sinh luôn gắn với nơi diễn ra hoạt
động sản xuất, thi công như phân xưởng, đội xây dựng...và với sản phẩm xây
lắp. Do đó, kế toán cần phải xác định được đối tượng để tập hợp chi phí sản
- Trang 11 -
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

xuất từ đó thực hiện việc tập hợp chi phí sản xuất, kiểm soát chi phí và tính
giá thành sản phẩm hay tổng hợp chi phí của doanh nghiệp.
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí là phạm vi, giới hạn để tập hợp chi phí
nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Giới hạn tập hợp chi phí có thể là nơi phát sinh chi phí (phân xưởng, đội sản
xuất, đội xây dựng...) hoặc có thể là nơi chịu chi phí (công trình, hạng mục
công trình...).
Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên của
công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất.Việc xác định đúng đối tượng kế
toán tập hợp chi phí và tiến hành tập hợp chi phí theo đúng đối tượng đã xác
định là cơ sở, là tiền đề quan trọng để kiểm tra, kiểm soát chi phí. Có xác định
đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí mới có thể đáp ứng được yêu cầu quản
lý chi phí sản xuất của doanh nghiệp, giúp cho tổ chức tốt công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí thực chất là xác định nơi các chi
phí đã phát sinh và các đối tượng chịu chi phí. Xác định đối tượng tập hợp chi
phí phải dựa vào các yếu tố:
-Tính chất sản xuất và quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm: sản xuất
giản đơn hay sản xuất phức tạp...
- Loại hình sản xuất: sản xuất đơn chiếc hay sản xuất hàng loạt...
- Đặc điểm tổ chức sản xuất: có phân xưởng, đội sản xuất hay là không có
phân xưởng, đội sản xuất...
- Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp
- Yêu cầu kiểm tra, kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp ...
Ở các doanh nghiệp xây lắp, do đặc thù của ngành đó là sản xuất mang
tính đơn chiếc, sản phẩm xây lắp có giá trị lớn và do các đội thi công thực
hiện, các chi phí sản xuất phát sinh phần lớn là các chi phí trực tiếp nên đối
tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp thường là
từng công trình, hạng mục công trình hoặc có thể là từng đội thi công (trong
trường hợp một công trình do nhiều đội phụ trách thi công).

I.3.2. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Tuỳ thuộc vào khả năng quy nạp chi phí vào các đối tượng kế toán tập hợp
chi phí, kế toán sẽ áp dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất cho phù
hợp:
I.3.2.1. Phương pháp tập hợp trực tiếp:
Phương pháp tập hợp trực tiếp áp dụng đối với các chi phí có liên quan trực
tiếp đến đối tượng kế toán tập hợp chi phí đã xác định.
Theo phương pháp này, ngay từ khâu lập chứng từ ban đầu phản ánh các chi
phí sản xuất thức tế phát sinh, kế toán phản ánh chi phí sản xuất cho từng đối
- Trang 12 -
12

×