Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG Ở DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.53 KB, 24 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ BÁN HÀNG Ở DOANH NGHIỆP
1.1 Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả
bán hàng
1.1.1 Vị trí vai trò của quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng
Bán hàng là việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, thành phẩm, dịch
vụ cho khách hàng, doanh nghiệp thu được tiền hay được quyền thu tiền. Đó
cũng chính là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn thành phẩm, hàng
hoá sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài quá trình bán hàng ra bên ngoài, doanh nghiệp còn có thể phát sinh
nghiệp vụ bán hàng trong nội bộ doanh nghiệp theo yêu cầu phân cấp quản lý
và tiêu dùng nội bộ.
Theo chuẩn mực kế toán số 14 “ Doanh thu và thu nhập khác” thì bán hàng là bán
sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra và bán hàng hóa mua vào.
Quá trình bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình tái sản xuất xã hội và
cũng là khâu cuối cùng trong toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Sau quá trình bán hàng doanh nghiệp sẽ thu được tiền bán hàng hay sẽ phải thu
được tiền bán hàng. Số tiền này dùng để bù đắp các chi phí bỏ ra và hình thành
nên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc xác định đầy đủ kết quả bán hàng là thước đo đánh giá tình hình
hoạt động của doanh nghiệp, là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ với
Ngân sách Nhà nước.
Bên cạnh đó, thông qua quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng
doanh nghiệp có thể nhìn nhận được nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của từng khu
vực, đối với từng sản phẩm, hàng hoá để từ đó có thể xây dựng được chiến lược
kinh doanh hợp lý cũng như có những biện pháp tích cực để đẩy mạnh quá trình
tiêu thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, giữa chúng có
mối quan hệ tương quan mật thiết với nhau. Kết quả bán hàng là mục đích cuối
cùng của doanh nghiệp còn bán hàng là phương tiện hữu hiệu để thực hiện được


mục đích đó. Nó đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải có cái nhìn sâu
sắc về quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng nhằm xác định hướng đi
đúng đắn nhất cho doanh nghiệp. Có tổ chức tốt quá trình bán hàng và xác định
kết quả bán hàng, doanh nghiệp mới tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh
bình thường, đồng thời có điều kiện để mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh những thị
trường mới.
1.1.2 Yêu cầu quản lý đối với quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng
Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đã đặt các doanh nghiệp
trước rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời khó khăn thử thách cũng không ngừng
tăng lên. Để thực hiện hoạt động bán hàng đạt hiệu quả cao, đáp ứng được nhu
cầu của sản xuất, tiêu dùng, đời sống xã hội và không ngừng nâng cao lợi
nhuận, doanh nghiệp cần phải quản lý chặt chẽ quá trình bán hàng và xác định
kết quả bán hàng theo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, quản lý sự vận động và số hiện có của từng loại sản phẩm, hàng
hoá theo chỉ tiêu số lượng, chất lượng, chủng loại và giá trị của chúng.
Thứ hai, quản lý chất lượng, cải tiến mẫu mã và xây dựng thương hiệu
sản phẩm là mục tiêu cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Thứ ba, tìm hiểu khai thác và mở rộng thị trường, áp dụng các phương
thức bán hàng phù hợp và các chính sách sau bán hàng nhằm không ngừng tăng
doanh thu giảm chi phí của các hoạt động.
Thứ tư, tính toán, xác định doanh thu bán hàng, doanh thu thuần tạo cơ sở
để xác định chính xác lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thứ năm, quản lý chặt chẽ các chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
1.1.3 Nhiệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
Để đáp ứng được yêu cầu quản lý về thành phẩm, hàng hoá, bán hàng,
xác định kết quả bán hàng, phân phối kết quả kinh doanh, kế toán phải thực hiện
đầy đủ các nhiệm vụ sau:
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ kịp thời, chính xác tình hình hiện có và sự
biến động của từng loại hàng hoá, thành phẩm theo từng chỉ tiêu số lượng, chất

lượng, giá trị, chủng loại.
- Phản ánh và ghi chép đầy đủ kịp thời chính xác các khoản doanh thu,
các khoản giảm trừ doanh thu và đôn đốc các khoản phải thu của khách hàng.
- Phản ánh và tính toán chính xác kết quả bán hàng, giám sát tình hình
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và tình hình phân phối lợi nhuận.
- Cung cấp các thông tin kế toán phục vụ cho việc lập Báo cáo tài chính
và định kỳ phân tích hoạt động kinh tế liên quan đến quá trình bán hàng, xác
định và phân phối kết quả.
1.2 Những vấn đề cơ bản về bán hàng và xác định kết quả bán hàng
1.2.1 Phương thức bán hàng
Quá trình bán hàng là quá trình thực hiện quan hệ trao đổi thông qua
phương tiện thanh toán để thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm,
hàng hoá dịch vụ cho khách hàng, còn khách hàng phải trả cho doanh nghiệp
một khoản tương đương với giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đó theo
giá đã quy định hoặc theo thoả thuận giữa hai bên.
Nói cách khác, bán hàng chính là việc chuyển giao quyền sở hữu sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời đã thu được
tiền hoặc được quyền thu tiền.
Trong các chính sách về bán hàng thì phương thức bán hàng có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng. Phương thức bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử
dụng các tài khoản kế toán phản ánh tình hình xuất kho thành phẩm, hàng hoá,
đồng thời có tính chất quyết định đối với việc xây dựng thời điểm bán hàng,
tình hình doanh thu bán hàng và tiết kiệm chi phí bán hàng, từ đó nâng cao hiệu
quả hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, cac doanh nghiệp thường áp dụng hai phương thức bán hàng
sau:
1) Phương thức giao hàng trực tiếp
Theo phương thức này doanh nghiệp giao hàng trực tiếp tại kho của
doanh nghiệp cho khách hàng. Khi giao hàng xong, người mua ký xác nhận vào
chứng từ bán hàng, khi đó đã hội tụ đầy đủ các điều kiện ghi nhận doanh thu, số

hàng đó được xác định là tiêu thụ không kể người mua đã thanh toán hay chỉ
chấp nhận thanh toán số hàng đã chuyển giao.
Phương thức này gồm có các trường hợp cụ thể sau:
- Bán hàng thu tiền ngay: Sau khi nhận hàng, bên mua phải thanh toán ngay
tiền hàng cho doanh nghiệp bán.
- Bán chịu: Trong trường hợp này, bên bán giao hàng cho bên mua nhưng
bên mua không trả tiền ngay mà trả tiền sau một thời hạn đã thoả thuận.
Khi nền sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển thì việc bán
chịu có xu hướng ngày càng tăng để tạo ra sự hấp dẫn thu hút khách hàng, tăng
doanh thu. Tuy nhiên, bán chịu cũng có nhược điểm là doanh nghiệp bị chiếm
dụng vốn và có khả năng mất vốn.
- Bán trả góp : Là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Người mua
sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua. Số tiền còn lại người mua chấp
nhận thanh toán dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định.
Thông thường số tiền trả ở các kỳ tiếp theo bằng nhau trong đó bao gồm một
phần doanh thu và phần lãi trả chậm.
2) Phương thức gửi hàng đi bán
Theo phương thức này, định kỳ doanh nghiệp phải gửi hàng cho khách
hàng trên cơ sở thoả thuận trong hợp đồng mua bán giữa hai bên và giao hàng
tại địa điểm đã quy định trong hợp đồng. Khi xuất kho gửi đi, hàng gửi đi vẫn
thuộc quyền quản lý, sở hữu hoặc kiểm soát cua doanh nghiệp, chưa đủ điều
kiện ghi nhân doanh thu. Khi đại lý đã bán được hàng hoặc người mua đã nhận
được hàng, thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng thì doanh
nghiệp mới được quyền xác định đã tiêu thụ và hạch toán doanh thu bán hàng.
Phương thức này được chia thành hai trường hợp:
- Gửi hàng được chấp nhận thanh toán ngay:
Trong trường hợp này doanh nghiệp chuyển hàng cho bên mua thep địa
điểm đã ghi trong hợp đồng, số hàng chuyển đi vẫn thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp. Khi bên mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng
được xác định là tiêu thụ. Doanh thu được ghi nhận.

- Gửi hàng cho các đại lý ký gửi:
Theo phương thức này doanh nghiệp (bên giao đại lý) xuất hàng cho bên
nhận đại lý ký gửi (bên đại lý) để bán. Bên đại lý sẽ được hưởng thù lao đại lý
dưới hình thức hoa hồng đại lý hay chênh lệch giá. Chỉ khi nào đại lý bán được
hàng, lập báo cáo, lập giấy nộp tiền về doanh nghiệp thì mới được ghi nhận
doanh thu.
Ngoài các phương thức bán hàng như đã trình bày chủ yếu trên đây, trong
thực tế tại các doanh nghiệp còn có các phương thức bán hàng khác cụ thể như:
Phương thức bán buôn, phương thưc bán lẻ..
1.2.2 Doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu
1.2.2.1 Doanh thu bán hàng
 Khái niệm và nội dung của doanh thu
Doanh thu là tổng lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán,
phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp
góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Doanh thu được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản đã thu được
hoặc sẽ thu được. Đó là: giá trị tài sản có thể trao đổi một cách tự nguyện giữa
các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang giá. Theo quy định hiện
hành:
- Đối với các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ là toàn bộ tiền bán hàng, cung cấp dịch
vụ (chưa có thuế GTGT) bao gồm cả phụ thu, phí thu thêm ngoài giá bán (nếu
có) mà doanh nghiệp được hưởng.
- Đối với doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phưong
pháp trực tiếp: doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là toàn bộ tiền bán
hàng, cung cấp dịch vụ và phí thu thêm (nếu có) mà doanh nghiệp được hưởng
(tổng giá thanh toán bao gồm cả thuế GTGT)
Theo chuẩn mực số 14 “ Doanh thu và thu nhập khác” thì doanh thu bán
hàng là doanh thu do bán sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra và bán hàng
hoá mua vào.

 Nguyên tắc ghi nhận doanh thu
Theo chuẩn mực số 14, doanh thu bán hàng được ghi nhận khi thỏa mãn
đồng thời 5 điều kiện sau:
1. Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với
quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
2. Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người
sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
3. Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
4. Doanh thu đã được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ các giao dịch
bán hàng.
5. Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Khi xem xét năm điều kiện ghi nhận doanh thu bán hàng, doanh nghiệp
phải lưu ý những điểm sau:
Một là, doanh nghiệp phải xác định thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro
và lợi ích gắn lion với quyền sở hữu hàng hóa cho người mua trong từng trường
hợp cụ thể. Trong hầu hết các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro
trùng với thời điểm chuyển giao lợi ích gắn lion với quyền sở hữu hợp pháp
hoặc quyền kiểm soát hàng hóa cho người mua.
Hai là, trường hợp doanh nghiệp vẫn còn chịu phần lớn rủi ro gắn liền
với quyền sở hữu hàng hóa thì giao dịch không được coi là hoạt động bán hàng
và doanh thu không được ghi nhận.
Ba là, nếu doanh nghiệp chỉ còn phải chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền
với quyền sở hữu hàng hóa thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được
ghi nhận.
Bốn là, doanh thu bán hàng được ghi nhận chỉ khi đảm bảo là doanh
nghiệp nhận đựoc lợi ích kinh tế từ giao dịch. Trường hợp lợi ích kinh tế từ giao
dịch bán hàng còn phụ thuộc yếu tố không chắc chắn thì chỉ ghi nhận doanh thu
khi yếu tố không chắc chắn này đã xử lý xong. Nếu doanh thu đã đựoc ghi nhận
trong trường hợp chưa thu được tiền thì khi xác định khoản tiền nợ phải thu này
là không thu được thì phải hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ

mà không được ghi giảm doanh thu. Khi xác định khoản phải thu là không chắc
chắn thu được (nợ phải thu khó đòi) thì phải lập dự phòng nợ phải thu khó đòi
mà không ghi giảm doanh thu. Các khoản nợ phải thu khó đòi khi xác định thực
sự không đòi được thì được bù đắp bằng nguồn dự phòng phải thu khó đòi.
Năm là, doanh thu và chi phí liên quan tới cùng một giao dịch phải được
ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Các chi phí, bao gồm cả chi phí
phát sinh sau ngày giao hàng (như chi phí bảo hành và chi phí khác), thường
được xác định chắc chắn khi các điều kiện ghi nhận doanh thu được thỏa mãn.
Các khoản tiền nhận trước của khách hàng không được ghi nhận là doanh thu
mà được ghi nhận là một khoản nợ phải trả tại thời điểm nhận tiền trước của
khách hàng. Khoản nợ phải trả về số tiền nhận trước của khách hàng chỉ được
ghi nhận là doanh thu khi đồng thời thỏa mãn 5 điều kiện đã nêu ở trên.
1.2.2.2 Các khoản giảm trừ doanh thu
Theo quy định hiện hành, trong chuẩn mực kế toán số 14 các khoản giảm
trừ doanh thu bao gồm
- Chiết khấu thương mại: là số tiền mà doanh nghiệp đã giảm trừ hoặc đã
thanh toán cho người mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ với khối lượng lớn theo
thỏa thuận về chiết khấu thương mại đã ghi trong hợp đồng kinh tế mua bán
hoặc các cam kết mua bán hàng.
- Trị giá hàng bán bị trả lại: là số tiền doanh nghiệp phải trả lại cho khách
hàng trong trường hợp hàng đã được xác định là bán nhưng do chất lượng quá
kém, khách hàng trả lại số hàng đó.
- Giảm giá hàng bán: là khoản tiền doanh nghiệp giảm trừ cho người mua
do hàng hoá kém phẩm chất sai quy cách và lạc hậu so với thị hiếu.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu phải nộp đối với sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
- Thuế GTGT đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ bán ra của cơ sở nộp
thuế theo phương pháp trực tiếp.
1.2.3 Phương pháp xác định trị giá vốn hàng bán
Để xác định đúng đắn kết quả bán hàng, trước hết cần xác định đúng đắn

trị giá vốn hàng bán. Trị giá vốn hàng bán là toàn bộ chi phí kinh doanh liên
quan đến quá trình bán hàng bao gồm trị giá vốn hàng xuất kho để bán, chi phí
bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho số hàng đã bán.
1.2.3.1 Trị giá vốn hàng xuất kho để bán
Trị giá vốn hàng bán có thể xác định theo các phương pháp khác nhau tuỳ
thuộc vào đặc điểm hình thành, sự vận động của sản phẩm, hàng hoá trong từng
loại hình doanh nghiệp và việc đăng ký phương pháp tính trị giá thực tế hàng
xuất kho của doanh nghiệp.
*Đối với doanh nghiệp sản xuất: Trị giá vốn của hàng xuất kho để bán
hoặc thành phẩm hoàn thành không nhập kho đưa bán ngay chính là giá thành
sản xuất thực tế của thành phẩm xuất kho hoặc giá thành sản xuất thực tế của
thành phẩm hoàn thành.
Theo chuẩn mực kế toán số 02 “ Hàng tồn kho”, giá vốn thực tế của
thành phẩm xuất kho được xác định bằng một trong bốn phương pháp sau:
- Phương pháp tính theo thực tế đích danh: Theo phương pháp này, hàng
xuất kho thuộc lô hàng nào thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó để tính trị
giá vốn thực tế của lô hàng xuất kho.
Phương pháp này áp dụng với những doanh nghiệp có ít loại mặt hàng
hoá hoặc mặt hàng hoá ổn định và nhận diện được đồng thời doanh nghiệp phải
theo dõi hàng hoá thành phẩm theo từng lô hàng.
- Phương pháp bình quân gia quyền:
Theo phương pháp này, giá trị của từng loại hàng hoá tồn kho được tính
theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho tương tự đầu kỳ và giá trị từng
loại hàng tồn kho được sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể tính theo thời
kỳ hoặc mỗi khi nhập một lô hàng về.
- Phương pháp nhập trước xuất trước (FIFO)
Phương pháp này dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua trước hoặn
sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn
kho được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì
giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu

kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập
kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ.
- Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO)
Phương pháp này dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua sau hoặc
sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn
kho được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng
xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của
hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn
tồn kho.
Trị giá vốn hàng xuất kho để bán
Trị giá mua thực tế của hàng xuất kho để bán
Chi phí mua phân bổ cho hàng đã bán
* Đối với doanh nghiệp thương mại.
= +
- Trị giá mua thực tế của hàng xuất kho để bán được tính theo một trong
bốn phương pháp đã nêu ở trên.
- Chi phí mua phân bổ cho số hàng đã bán:
Do chi phí mua hàng liên quan đến nhiều chủng loại hàng hoá, liên quan
đến cả khối lượng hàng hoá trong kỳ và hàng hoá đầu kỳ cho nên cần phải phân
bổ chi phí mua cho hàng đã bán trong kỳ và hàng tồn kho cuối kỳ.
Tiêu chuẩn phân bổ chi phí mua hàng được lựa chọn là:Số lượng, Trọng
lượng, Trị giá mua thực tế của hàng hoá.
Công thức tính toán đối với trường hợp tiêu chuẩn phân bổ là trị giá mua
thực tế của hàng hoá như sau
Chi phí
mua phân
bổ cho
hàng xuất
kho để bán
=

Chi phí mua của
hàng tồn kho đầu kỳ
+
+
Chi phí mua của hàng
nhập trong kỳ
x
Trị giá
mua của
hàng
xuất bán
trong kỳ
Trị giá mua của hàng
tồn kho đầu kỳ
+
Trị giá mua của hàng
nhập kho trong kỳ
1.2.3.2 Trị giá vốn hàng bán
Sau khi xác định được trị giá vốn của hàng xuất kho để bán, chi phí bán
hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, kế toán tổng hợp lại để tính trị giá vốn
hàng bán.
Trị giá
vốn
hàng
=
Trị giá vốn
hàng xuất kho
để bán
+
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý

doanh nghiệp phân bổ cho số hàng đã
bán
Đối với các doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn, doanh nghiệp thương mại
dự trữ hàng hoá giữa các kỳ không có sự biến động lớn thì chi phí bán hàng và
chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh trong kỳ được phân bổ cho toàn bộ số
hàng đã bán.
Đối với doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ dài, doanh nghiệp thương mại
dự trữ hàng hóa lớn, doanh thu không ổn định, chi phí bán hàng và chi phí quản
lý doanh nghiệp cần phải được tính toán phân bổ hợp lý cho số hàng đã bán và
số hàng còn tồn trong kho.
Thường các doanh nghiệp tiến hành phân bổ chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp cho hàng đã bán theo tiêu chuẩn : trị giá vốn hàng xuất
bán
CFBH
( CPQLDN)
phân bổ cho
số hàng đã
bán
=
CPBH
(CPQLDN) của
hàng tồn đầu kỳ
+
CPBH (CPQLDN)
phát sinh trong kỳ
x
Trị giá
vốn hàng
đã bán
trong kỳ

Trị giá vốn hàng
tồn kho đầu kỳ
+
Trị giá vốn hàng
nhập kho trong kỳ
1.2.4 Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
1.2.4.1 Chi phí bán hàng
Trong quá trình bán hàng, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp
phải bỏ ra các khoản chi phí như chi phí bao gói sản phẩm, bảo quản hàng hoá,
chi phí vận chuyển, tiếp thị, quảng cáo gọi chung là chi phí bán hàng. Có thể
nói chi phí bán hàng là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị phát sinh trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Chi phí bán hàng có nhiều khoản chi
cụ thể với nội dung và công dụng khác nhau, tuỳ theo yêu cầu quản lý, có thể
phân biệt chi phí bán hàng theo tiêu thức thích hợp.
Theo quy định hiện hành, chi phí bán hàng của doanh nghiệp được phân
thành các loại sau:

×