Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY HOÁ CHẤT 76

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.14 KB, 30 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY HOÁ
CHẤT 76.
I . Nhận xét về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại công ty hoá chất 76.
Qua thời gian tìm hiểu thực tế về công tác tổ chức kế toán của công ty hoá
chất 76, trên cơ sở những kiến thức tiếp nhận ở trường, em xin có một vài nhận xét
về công tác tổ chức kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm nói riêng ở công ty như sau:
1. Những ưu điểm:
a. Về công tác quản lý:
Công ty hoá chất 76 là một doanh nghiệp quân đội trực thuộcTổng cục công
nghiệp Bộ quốc phòng, từ một doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế tập trung, sản
xuất sản phẩm chủ yếu là phục vụ cho quân đội và khi chuyển đổi sang cơ chế trị
trường co sự quản ký của nhà nước, công ty đã đi vào sản xuất các mặt hàng cung
cấp cho đơn vị khác theo đơn đặt hàng nhưng còn gặp nhiều khó khăn trong những
năm đầu hoạt động, cơ sở vật chất còn thiếu, máy móc thiêt bị đã cũ năng suất thấp
chưa phù hợp với cơ chế sản xuất mới, trình độ tay nghế của công nhân chưa được
nâng cao nhưng với sự năng động của bộ máy quản lý, cùng với sự lỗ lực của
toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty đến nay công ty không những đã khắc
phục dược khó khăn mà ngày càng phát triển .
trước đây số lượng khách hàng đến với công ty còn ít thì ngày nay khách hàng đã
tăng lên rất nhiều và số lượng đơn đặt hàng cũng tăng lên ,công ty đã tiến hành sản
xuất nhiều loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đó. Sản phẩm của công ty luôn đạt
chất lượng tốt, mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng trong và
ngoài nước, khach hàng ngày càng có long tin với công ty.
Trong qúa trình sản xuất kinh doanh công ty đã không ngừng nâng cao trình độ
quản ký sản xuất, quản lý công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất và quy mô tiêu thụ
sản phẩm, luôn tìm tòi nghiên cứu cải tiến hợp lý hoá sản xuất và quy trình công
nghệ sản phẩm. Thực tế sản phâm của công ty ngoài việc đáp ứng tốt cho nhu cầu
của ngành quân đội, còn đáp ứng và chiếm lĩnh được long tin của khách hàng và


ngày càng có nhiều hợp đồng về sản xuất sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm. Nhờ vậy
đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao, đây là phần thưởng
xứng đáng cho sự lỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ công nhân
viên của công ty trong những năm qua.
Cùng với nhịp độ phát triển của đất nước, công ty đã không ngừng lớn mạnh
về cơ sở vật chất kỹ thuật và uy tín sản phẩm của công ty với khách hàng, với thị
trường, đóng góp một phần đáng kể cho các doanh nghiệp trong nước cũng như
xuất khẩu ra nước ngoài, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất trên cả khía cạnh kinh tế
cũng như xã hội trên nguyên tắc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm và
công ty luôn tìm kiếm bạn hàng mới, đầu tư thêm nhiều dây truyền công nghệ để
đáp ứng những sản phẩm mà khách hàng yêu cầu, và bộ phận quản lý kinh doanh
đang từng bước đi vào hoàn thiện để phù hợp với cơ chế, cách thức quản lý hiện
đại.
Chuyển sang vận hành trong cơ chế thị trường, tuy còn nhiều bỡ ngỡ khó khăn
trong cơ chế quản lý mới, song vơi sự nhạy bén và năng động của cơ chế thị trường
đã thúc đầy công ty linh hoạt trong sản xuất kinh doanh. đặc biệt phải kể đến sự
chuyển biến của bộ máy quản lý kinh tế đã góp phần không nhỏ vào kết quả chung
của toàn công ty. Nó đã trở thành cánh tay đắc lực thúc đẩy quá trình phát tiển của
công ty trong việc vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế thị trường kết hợp với
chủ trương chính sách của nhà nước.
Nhận thức được một cách đúng đắn vai trò to lớn của tổ chức công tác kế toán
trong công tác quản ký hoạt động sản xuất kinh doanh. Kế toán không chỉ đảm bảo
tính chính xác của thông tin và còn có tác dụng củng cố nề nếp sản xuất kinh
doanh và đưa ra các giải pháp phù hợp trong tình hình hiện đại chỉ có thể được tiến
hành trên cơ sở phân tích các hoạt động kinh tế. Qua đó đánh giá một cách đẩy đủ
khách quan tình hình quản lý kinh tế của công ty mà nội dung chủ yếu của nó là
công tác kế toán, trong đó kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phần hành kế toán
quan trọng nhất,luôn được đổi mới và hoàn thiện. Do đó công ty luôn quan tâm đến
việc nghiên cứu tìm ra những biện pháp cụ thể để quản lý chi phí sản xuất nhằm
đảm bảo sự phù hợp giữa biện pháp quản lý với tinh hình thực tế của công ty và

yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế hiện nay.
b. Về công tác kế toán:
- Về bộ máy kế toán:
Nhìn chung việc tổ chức bộ máy kế toán phù hợp với thực tế tại Công ty
Hoá chất 76 về quy mô hoạt động, về loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi
phần hành kế toán được đảm trách với một kế toán viên riêng biệt của các phần
hành khác cơ bản. Vì vậy có thể nói bộ máy kế toán được tổ chức hoàn chỉnh và
gọn nhẹ.
Mỗi phần hành kế toán là một mắt xích tạo nên mối quan hệ chặt chẽ và
tương quan với nhau, để đảm bảo tình hình toàn diện của thông tin kinh tế về tài
chính, về thực tế của sản phẩm một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời đòi hỏi các kế
toán của từng phần hành phải có trình độ nghiệp vụ tương đối đồng đều và tinh
thần trách nhiệm cao. Cũng chính điểm này đã tạo lên sự phân công trách nhiệm
trong quá trình xử lý thông tin và thúc đẩy lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ của
mình. Bộ máy kế toán Công ty Hoá chất được tổ chức theo hình thức vừa tập trung
vừa phân tán đã đáp ứng yêu cầu theo dõi chi tiết và tổng hợp tại công ty. Hình
thức này giúp cho việc xử lý thông tin kế toán được chặt chẽ chính xác kịp thời để
phục vụ cho việc ra quyết định quản lý một cách có hiệu quả của nhà lãnh đạo.
Bộ máy kế toán kế toán của công ty là một bộ không thể thiếu được bởi vì
mọi tình hình hoạt động tình chính, về chất lượng giá thành sản phẩm, các chi phí
phát sinh có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến sản phẩm hoàn thành đều được
cung cấp cho cấp lãnh đạo quản lý nắm bắt được tình hình chung toàn công ty.
- Về hình thức sổ sách:
Hiện nay công ty đang áp dụng hình thức sổ NKCT, một hình thức phù hợp
với thực tế tổ chức sản xuất kinh doanh tại công ty. Phòng kế toán đã sử dụng hệ
thống sổ sách, chứng từ kế toán khá đầy đủ, tỷ mỉ, việc ghi chép và mở sổ sách
theo quy định của Bộ Tài Chính và đảm bảo phù hợp với hoạt động kế toán tại
công ty đã tạo ra được mối quan hệ lẫn nhau giữa các phần hành trong toàn bộ hệ
thống kế toán của công ty. Hình thức kế toán mà Công ty áp dụng đã ghi chép
chính xác số liệu tính toán cũng như việc đối chiếu giữa các sổ sách được hợp lý cụ

thể.
c. Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm:
- Công ty đã áp dụng theo phương pháp kê khai thường xuyên trong việc
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã đáp ứng được yêu cầu của
công tác kế tóan tại công ty có quy mô lớn, tổ chức sản xuất phức tạp đòi hỏi thông
tin bất cứ thời điểm nào trong kỳ kế toán.
- Công ty đã áp dụng kỳ tính giá thành là theo từng tháng điều đó xuất phát
từ đặc điểm sản xuất mang tính ổn định, chu kỳ sản xuất ngắn, liên tục phù hợp với
kỳ thực hiện chi phí sản xuất giúp cho kế toán phát huy được chức năng giám đốc
đối với tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành một cách kịp thời. Với kỳ tính giá
thành như vậy nó đảm bảo cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết về chi phí gia
thành cho các nhà quản lý, giúp cho việc lập kế hoạch già thành hàng tháng được
chính xác, hợp lý theo các khoản mục chi phí từ đó góp phần tiết kiệm chi phí
trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó với số liệu giá thành thực tế được tính ra
hàng tháng sẽ giúp cho nhà quản lý nhanh chóng tìm ra được quyết định hợp lý
đúng đắn trong việc ký hợp đồng sản xuất với khách hàng.
- Mặt khác với giá thành thực tế hàng tháng giúp cho việc phân tích giá
thành nhanh chóng kịp thời tìm ra nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp dẫn đến sự tăng
giảm của giá thành qua việc so sánh giữa các tháng với nhau. Từ đó nhà quản lý sẽ
kịp thời đưa ra những biện pháp giải quyết nhằm tìm ra cách hạ thấp giá thành sản
phẩm của công ty, cũng như việc tiết kiệm chi phí sản xuất.
- Việc công ty áp dụng 2 hình thức trả lương theo thời gian và theo sản
phẩm đã đảm bảo gắn thu nhập và lao động với thời gian làm việc và kết quả sản
xuất. Với cách thức trả lương theo sản phẩm cho công nhân trực tiếp sản xuất sản
phẩm đã góp phần đánh giá đúng thực trạng tham gia sản xuất của từng công nhân
phải có tinh thẩn trách nhiệm với công việc của mình.
- Đối với công ty có nhiều phân xưởng sản xuất, quy mô sản xuất rộng lớn,
hình thưc kế toán vừa tập trung vùa phân tán do đó tại mỗi phân xưởng đã có một
nhân viên kế toán phân xưởng ngoài công việc chấm công hàng ngày cho từng
công nhân còn làm nhiệm vụ tính tiền lương phải trả cho từng công nhân trong

phân xưởng. Điều đó làm giảm bớt sự vất vả cho kế toán tổng hợp, mà vẫn theo
dõi sát sao quá trình làm việc của công nhân, xác định chính xác số công thực và
tiền lương.
Như vậy xét về ưu điểm nhìn chung việc tổ chức hạch toán chi phí và gía
thành sản phẩm ở công ty phần lớn đã đáp ứng được những yêu cầu đặt ra như đảm
bảo thống nhất về mặt phạm vi phương pháp tính toán các chỉ tiêu kinh tế giữa các
kê toán với các bộ phận liên quan đảm bảo sô liệu kế toán phản ánh trung thực hợp
lý rõ ràngdo đó việc tổ chức côngtác kế toán chi phí, giá thành phù hợp với
điềukiện thưch tế của công ty đồng thời giúp cho lãnh đạo nắm vữn được tình hình
thực tế hiện co đê từ đó có nhữmg giải pháp quyếtđịnh đúng đắn trong công tác
quản lý lãnh đạo chung toàn công ty.
2. Những mặt còn hạn chế:
Công ty áp dụng phương pháp tính giá thành theo phương pháp cộng chi phí
vẫn còn những điều chưa hợp lý thực tế công tác sản xuất tại công tylàm cho công
tác quản lý chi phí sản xuất và ra các quyết định phù hợp của lãnh đạo bị hạn chế.
a. Về công tác quản lý:
Mặc dù bộ máy công tác quản lý của công ty đã thực hiện được đầy đủ các chức
năng và nhiệm vụ của mình góp phần vào sự phát triển lớn mạnh của công ty. Tuy
nhiên trong công tác quản lý vẫn còn những hạn chế nhất định còn tồn tại và làm
ảnh hưởng đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đó là bộ máy
quản lý còn cồng kềnh, nhiều bộ phận chức năng cùng tham gia quản lý sản xuất
gây nên sự chồng chéo lẫn lộn. Công ty chưa theo dõi kiểm tra thường xuyên quá
trình làm việc sản xuất của công nhân trực tiếp và gián tiếp trong các phân xưởng
dẫn đến công việc sản xuất, chất lượng sản phẩm, vật liệu tiêu hao vượt quá định
mức quy định làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm.
b. Về bộ máy kế toán:
Bộ máy kế toán của công ty đã góp phần không nhỏ vào quá trình hoạt động
sản xuất của công ty cũng sự phát triển của công ty, có thể nói bộ máy kế toán là
một cánh tay đắc lực trong công ty và không bao giờ thiếu được. Nhưng bộ máy kế
toán của công ty hoạt động còn chưa được hiệu quả lớn đáp ứng tốt yêu cầu của

công ty đó là các phần hành kế toán tuy có nhiệm vụ riêng nhưng có phần hành kế
toán còn kiêm công việc tương đối lớn chính là kế toán tổng hợp vừa làm công tác
kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, vừa làm công tác kế
toán tiêu thụ thành phẩm, vừa phải lập báo cáo tài chính, quyết toán. trong tất cả
các doanh nghiệp sản xuất thì hai phần hành kế toán tính giá thành và tính kết quả
tiêu thụ hoạt động sản xuất kinh doanh là lớn nhất, kế toán tổng hợp kiêm hai phần
hành này sẽ rất vất vả trong quá trình tính toán, sản phẩm của công ty sản xuất
nhiều loại và chi phí phát sinh cao. Mặt khác việc theo dõi quá trình tính lương của
các phân xưởng nộp lên phòng kế toán chỉ có số liệu trên giấy tờ, không thể phát
hiện được sai sót và có thể là gian lận.
c. Về công tác kế toán:
công ty đã sử dụng hình thức kế toán nhật ký chứng từ làm công việc ghi chép.
Hình thức này tương đối phức tạp đối với thực tế của công ty, đó là nghiệp vụ kinh
tế phát sinh nhiều trong một kỳ hạch toán dẫn đến việc ghi chép phải diễn ra
thường xuyên để theo dõi. Có nghiệp vụ ghi trực tiếp vào nhật ký chứng từ , có
nghiệp vụ lại ghi vào bảng kê rồi mới ghi vào nhật ký chứng từ hơn nữa cuối tháng
phải khoá sổ kế toán kết chuyển phần dư sang kỳ sau. Tất cả công việc trên tương
đối lộn xộn và chồng chéo lẫn nhau, tốn nhiều sổ sách gây ảnh hưởng đến việc
kiểm tra của nhà quản lý.
Những hạn chế được thể hiện trong nội dung chi phí phát sinh:
- Về nguyên vật liệu phát sinh trong quá trình sản xuất:
Công ty đã hạch toán khoản nguyên vật liệu mua trực tiếp từ bên ngoài về đưa
ngay vào sản xuất vào tài khoản 152 rồi mới ghi giảm giá trị nguyên vật liệu của
tài khoản này.
- Chi phí NCTT:
+ Chi phí tiền lương nhân viên quản lý được hạch toán tại các phân xưởng là
rất chi tiết cụ thể rõ ràng nhưng khi nộp bảng thanh toán lương nên phòng kế toán
thì kế toán tổng hợp chỉ thấy được sự tính toán đó trên sổ sách giấy tờ và rất khó
phát hiện những sai sót, gian lận có thể xảy ra.
+ Việc lập bảng thanh toán tiền lương toàn công ty chỉ theo dõi cho từng

phân xưởng mà không hạch toán chi tiết cho đối tượng sản phẩm rất khó khăn
trong công tác quản lý của lãnh đạo khi ra quyết định sản xuất sản phẩm nào đó.
+ Công ty trích BHYT, BHXH,KPCĐ trên tổng tiền số công nhân thực lĩnh
là chưa phù hợp với thực tế mà trong tháng 2 phát sinh chi phí về tiền lương.
- Chi phí sản xuất chung:
+ Tài khoản 627 không được chi tiết cho bộ phận nào khi xuất dùng
NVL,CCDC cho hoạt động chung ở các phân xưởng phản ánh trên bảng phân bổ
NVL,CCDC.
+ Việc phân bổ đều khấu hao cho các phân xưởng là chưa hợp lý điều này sẽ
làm cho giá thành của các sản phẩm không chính xác.
II. Phương hướng nhằm hoàn thiện công tác hạch toán kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty hoá chất 76:
Qua thời gian thực tế tìm hiểu công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính gía thành sản phẩm ở công ty hoá chất 76 dưới góc độ là một sinh viên thực
tập em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty.
a. Về bộ máy quản lý:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm để giảm bớt các chi phí cho hàng bán bị trả
lạ, hàng không đủ phẩm chất.
- Cần nghiên cứu sắp lại tổ chức sản xuất cân đối giữa hai lực lượng: lao
động trực tiêp và lao động phục vụ quản lý.
- Công ty phải thường xuyên kiểm tra công việc sản xuất của các phân
xưởng để quá trình sản xuất được hiệu quả hơn, bố trí bộ máy quản lý hợp lý hơn
nữa để Công ty ngày càng phát triển.
b. Về bộ máy kế toán:
Công ty cần bố trí các phần hành kế toán được hợp lý hơn, cụ thể là kế toán
tiêu thụ và kế toán giá thành để kế toán tổng hợp tránh vất vả khi phải kiêm nhiều
việc lớn. Làm được như vậy thì công việc hạch toán sẽ được chính xác.
Phòng kế toán có thể yêu cầu các phân xưởng khi nộp bảng thanh toán lương
có kèm theo cả bảng chấm công để xác định được thực tế số công mà công nhân

làm được so với số ghi trên bảng thanh toán lương.
c. Về công tác kế toán.
Ý kiến 1: Về giá trị nguyên vật liệu:
Đối với NVL khi xuất dùng để sản xuất sản phẩm thì mọi chi phí phát sinh
đều được.
Kế toán ghi
Nợ TK 621
Có TK 152
Tuy nhiên trong quá trình sản xuất vẫn có những chi phí phát sinh được mua trực
tiếp từ bên ngoài và đưa vào sản xuất ngay nhưng kế toán vẫn ghi tăng NVL mà
không hạch toán vào chi phí NVL trực tiếp.
Cụ thể: Ngày 8 tháng 10 năm 2004. Công ty tiến hành mua giấy của Công ty
giấy Bãi Bằng về để sản xuất vỏ bao xi măng CHINFON bao gồm giá mua không
thuế là 120850000, thuế suất thuế GTGT là 10%, đưa ngay vào sản xuất, đã trả
bằng TGNH.
Căn cứ vào phân bổ NVL,CCDC. Kế toán định khoản:
Nợ TK 621: 682547006
Có TK 152: 682547006
Điều này chưa phù hợp với chế độ kế toán là khi mua NVL về đưa ngay vào
sản xuất có định khoản sau:
Nợ TK 621
Có TK 111,112,331,
Như vậy căn cứ vào số liệu trên ta có thể định khoản:
Nợ TK 621: 682547006
Có TK 152.1.1: 516697006
Có TK 112: 120850000
Ngoài việc phản ánh đúng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp công ty nên
thường xuyên điểu chỉnh định mức tiêu hao NVL sao cho luôn luôn là định mức
tiên tiến. Bên cạnh đó cũng phải tích cực thực hiện phân tích, kiểm tra định mức
nhằm nâng cao ý thức tiết kiệm của công nhân sản xuất, tìm ra những biện pháp

nhằm tiết kiệm hơn nữa NVL trong sản xuất. công ty cũgn cần tìm những nguồn
hàng ổn định, đảm bảo chất lượng.
Ý kiến 2: Về chi phí nhân công trực tiếp:
- Công ty đã áp dụng hình thức tính lương vừa tập trung vừa phân tán, công
việc tính lương do các kế toán phân xưởng thực hiện và cuối mỗi tháng sẽ nộp
bảng thanh toán lương lên phòng kế toán. điều này dẫn đến kế toán tổng hợp rất
khó theo chặt chẽ được thực tế số công mà công nhân làm được. Do vậy để đảm
bảo được chính xác hơn công việc tính giá thành thì ngoài bảng thanh toán lương
ra kế toán tổng hợp nên yêu cầu kế toán phân xưởng nộp cả bảng chấm công để
theo dõi và đối chiếu số liệu cụ thể, tránh xảy ra sự sai sót và gian lận.
- Căn cứ vào bảng thanh toán lương của các phân xưởng kế toán tổng hợp
lập bảng thanh toán lương toàn công ty theo từng phân xưởng mà không chi tiết
cho đối tượng sử dụng dẫn đến người quản lý khi ký duyệt bảng thanh toán lương
rất khó nắm bắt cụ thể số lượng tiền công cho sản phẩm nàylà bao nhiêu, cao hay
thấp để còn có quyết định đúng đắn đảm bảo công việc lao động.
để khắc phục điểm này thì kế toán tổng hợp có thể lập bảng thanh toán lương như
sau:
Căn cứ vào các bảng thanh toán lương của từng phân xưởng ta thấy được cụ
thể tiền lương cho nhân viên phân xưởng, tiền lương cho từng bộ phận sản xuất sản
phẩm

×