Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000 -2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.3 KB, 53 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một trong cách tạo vốn có hiệu quả
đối với các nước đang phát triển. FDI được coi như là một trong các “cú hích” quan
trọng đặc biệt khi các nước này gặp phải những khó khăn trong quá trình phát triển
về vốn, công nghệ, các kinh nghiệm và những kiến thức trong quản lý. Chính vì vậy,
trong các chính sách phát triển của mình, các nước đang phát triển đều tạo ra môi
trường thu hút thuận lợi. Việt Nam cũng là một trong những nước như thế. Trong
những năm vừa qua chúng ta đã lien tục ban hành những chính sách nhằm thu hút
FDI và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong thời gian qua, FDI mới
chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành công nghiệp, dịch vụ, còn đối với nông
nghiệp, vốn FDI có tăng trong những năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng số vốn FDI vào nền kinh tế, chưa xứng với tiềm năng phát triển của
ngành trong nền kinh tế. Trong khi đó, GDP do nông nghiệp tạo ra vẫn giữ vị trí hàng
đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn
sống chính dựa vào nông nghiệp. Vậy thực trạng của tình hình thu hút FDI vào ngành
nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua như thế nào? Nguyên nhân chính của vấn
đề này là gì? Và chúng ta cần làm thế nào để thu hút một cách có hiệu quả vốn FDI
trong Nông nghiệp? Điều này đã và đang trở thành một vấn đề hết sức quan trọng và
đang được rất nhiều người quan tâm. Xuất phát từ thực trạng của FDI trong nông
nghiệp và tính cấp thiết của vấn đề này, trong bài viết này em xin trình bày những
hiểu biết của mình về em “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
Nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000 -2015”. Do sự hiểu biết còn hạn chế nên
bài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự đóng góp của quý thầy cô để bài nghiên cứu của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Chương I
1
Những vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông
nghiệp Việt Nam.
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.1 Khái niệm:


Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó
người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử
dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu
của quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế.
Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với
những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực
tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác”. Các
nhà kinh tế quốc tế định nghĩa “ đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước
này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền
mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết
định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh
tế ấy”. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và đựơc bổ
sung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài”, còn theo Luật đầu tư 2005 thì “FDI là việc nhà đầu tư
nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được
hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà
đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để
có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc
gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
2
1.1.2. Đặc điểm của FDI
Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
- FDI là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết

định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình
thức này không có những ràng buộc về chính trị cũng như không để lại gánh nặng nợ
nần cho nền kinh tế của nước tiếp nhận vốn FDI. Mặt khác, quyền lợi của các nhà
đầu tư nước ngoài đi liền với dự án đầu tư, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Do đó, nhà đầu tư phải
tìm hiểu các điều kiện môi trường và dự kiến lỗ lãi trước khi tiến hành đầu tư, chỉ khi
chắc chắn hoạt động kinh doanh tại nước nhận đầu tư sẽ cho kết quả tốt nhà đầu tư
nước ngoài mới thực hiện đầu tư. Vì vậy, FDI thường mang tính khả thi và hiệu quả
kinh tế cao. Tuy nhiên, tính khả thi và hiệu quả kinh tế nghiêng về bên nào hơn, nhà
đầu tư hay nước nhận đầu tư, phụ thuộc vào lĩnh vực đầu tư.
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy
định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân
chia dựa vào tỷ lệ này. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, trong doanh
nghiệp liên doanh, các bên chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị
theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định liên doanh. Như vậy, tùy
vào hình thức chủ thể được thành lập theo giấy phép đầu tư, nhà đầu tư phía nước
ngoài có thể trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành các hoạt động của doanh nghiệp FDI tùy
theo tỷ lệ góp vốn trong doanh nghiệp liên doanh.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, bí quyết kinh doanh, học hỏi được kinh nghiệm quản lý
của nước nước đi đầu tư. Đây là mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác khó có thể
giải quyết được và cũng chính là vấn đề mà các nước tiếp nhận vốn đầu tư, đặc biệt
là các nước đang và kém phát triển rất quan tâm.
- Nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiểm soát hoạt động đầu tư. Nó thể hiện
quyền sở hữu đối tượng đầu tư và quyền ra các quyết định quan trọng. Cho nên, kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của
3
nhà đầu tư. Sau khi trừ đi các khoản đóng góp theo quy định của nước chủ nhà, nhà
đầu tư nước ngoài nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.

1.1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để tiến hành
một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy
định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trắc nhiệm và phân chia các kết
quả kinh doanh cho các bên tham gia.
Đặc trưng của hình thức này:
- Cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân chia quyền lợi và nghĩa vụ.
- Không thành lập pháp nhân mới.
1.1.3.2 Doanh nghiệp liên doanh
Là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà giữa các bên nước ngoài và nước
chủ nhà trong đó các bên cùng đóng góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền
lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn.
Đặc trưng của hình thức này :
- Là dạng công ty TNHH
- Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà
- Mỗi bên thường chịu trách nhiệm với bên kia hoặc với liên doanh theo tỷ lệ góp vốn
1.1.3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà và họ tự
quản lý, chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả sản xuất kinh doanh.
Hình thức này có các đặc trưng như :
- Là dạng công ty TNHH.
- Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà.
- Sở hữu hoàn tòan nước ngoài.
- Chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh
doanh.
1.1.3.4 BOT ( xây dựng – vận hành – chuyển giao)
Là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của
nước chủ nhà để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại
4

hóa công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi
nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ
nhà.
Đặc trưng của hình thức này :
- Cơ sở pháp lý là hợp đồng.
- Vốn đầu tư của nước ngoài.
- Họat động theo dạng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc theo liên doanh.
- Đối tượng hợp đồng thường là các công trình cơ sở hạ tầng.
1.1.3.5. Đầu tư mới, mua lại và sát nhập (M&A)
Đầu tư mới: là việc các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây
dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và cũng là
kênh chủ yếu để các nhà đầu tư của các nước phát triển đầu tư vào các nước đang
phát triển.
Mua lại và sát nhập: là hình thức chủ đầu tư thông qua việc mua lại và sát nhập các
doanh nghiệp hiện có. Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và
tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các
nước phát triển, các nước NICs và rất phổ biến trong những năm gần đây.
1.1.3.6. Các hình thức FDI theo quy định của luật pháp Việt Nam
Tại Việt Nam, FDI chủ yếu vẫn được thực hiện dưới các hình thức đầu tư mới.
Luật Đầu tư được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã công nhận hình thức mua lại và sáp nhập là một hình
thức FDI mới, là một điểm bổ sung cho Luật Đầu tư năm 1996. Cụ thể, các hình thức
đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp được đầu tư bằng 100%
vốn của nhà đầu tư nước ngoài, thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do họ thành
lập tại nước nhận đầu tư và họ tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp
tư nhân và có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.

5
Xu hướng thành lập doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài cũng như chuyển
đổi từ hình thức khác sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng gia
tăng.
Thứ hai là doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức FDI khá phổ biến ở Việt Nam. Nhà đầu
tư nước ngoài liên doanh với nhà đầu tư trong nước để thành lập nên công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh có tư cách pháp
nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Các cá nhân, pháp nhân nước ngoài cùng góp vốn với cá nhân, pháp nhân nước
sở tại, cùng quản lý, cùng kinh doanh và cùng phân phối lợi nhuận, dựa vào kết quả
kinh doanh nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của
doanh nghiệp liên doanh phù hợp với khuôn khổ pháp luật của nước sở tại. Các bên
cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn
của mỗi bên vào vốn pháp định. Đối với những cơ sở sản xuất quan trọng do Chính
phủ quyết định, các bên có thể thoả thuận về tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong liên
doanh.
Thứ ba là hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực khai
thác, thăm dò tài nguyên thiên nhiên như dầu khí, than đá, khoáng sản,… Hợp đồng
BCC được ký giữa hai hay nhiều nhà đầu tư để cùng nhau tiến hành hợp tác sản xuất
kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm, trong đó các bên thỏa thuận
quy định về đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, trách nhiệm,
nghĩa vụ của mỗi bên, quan hệ hợp tác và tổ chức quản lý giữa các bên. Hình thức
BCC không thành lập nên các pháp nhân. Trong quá trình đầu tư, các bên hợp doanh
có thể thoả thuận lập ban điều hành để thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước nhận đầu tư với các tổ chức, cá nhân
nước ngoài để xây dựng, khai thác kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong
một thời gian nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi

hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
6
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết giữa
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng, khi xây dựng xong sẽ chuyển giao công trình đó cho Nhà nước
Việt Nam. Sau đó nhà đầu tư sẽ được Chính phủ Việt Nam dành cho quyền kinh
doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận.
Đối với hình thức hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT), sau khi xây dựng và
chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được thanh toán theo
thoả thuận trong hợp đồng hoặc được tạo điều kiện thực hiện dự án đầu tư khác để
thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Thứ tư là các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Cho đến nay, các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp
liên doanh và đầu tư theo hợp đồng như hợp đồng BCC, BOT vẫn là những hình thức
phổ biển, được các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ưa chuộng. Ngoài ra, theo
Luật đầu tư của Việt Nam năm 2005 cũng quy định một số hình thức đầu tư trực tiếp
khác.
Đầu tư phát triển kinh doanh: Những nhà đầu tư nước ngoài đang thực hiện đầu
tư tại Việt Nam được phép đầu tư để phát triển hoạt động kinh doanh đó như mở
rộng quy mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh hoặc đầu tư để đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng và giảm ô nhiễm môi trường.
Góp vốn mua cổ phẩn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư: Nhà đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam có quyền góp vốn, mua cổ phần của các công ty chi nhánh tại
Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư được Chính phủ Việt Nam quy
định cụ thể đối với một số ngành và lĩnh vực. Khi đó, nhà đầu tư sẽ có quyền tham
gia quản lý hoạt động của công ty mà mình góp vốn và mua cổ phần, đồng thời phải
thực hiện đúng những nghĩa vụ quy định về tỷ lệ vốn góp, hình thức đầu tư và lộ
trình mở cửa thị trường của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Mua lại và sáp nhập (M&A): Tại Việt Nam, hình thức mua lại và sáp nhập mới
được công nhận và quy định trong Luật đầu tư 2005. Theo đó, các nhà đầu tư nước

ngoài phải tuân thủ các quy định của Luật doanh nghiệp, điều kiện tập trung kinh tế
và pháp luật về cạnh tranh. Đây là một điểm mới trong nỗ lực cải thiện môi trường
7
luật pháp để thu hút tối đa dòng vốn FDI từ các công ty đa quốc gia, đồng thời có thể
nắm bắt được xu hướng tất yếu của dòng đầu tư quốc tế.
1.1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng một vai trò
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của cá nước đặc biệt là các
nước là các nước đang phát triển. Ảnh hưởng của FDI đã tác động trên cả ba mặt :
kinh tế, chính trị , xã hội.
1.1.4.1. ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu
đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế.
FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn –
ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Hầu
hết các nước đang phát triển đều rơi vào “ vòng luẩn quẩn” đó là : thu nhập thập dẫn
đến tiết kiệm thấp, vì đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn
quẩn này chính là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội
nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ
của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt
xích của “vòng luẩn quẩn”này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các
nước đang phát triển đó là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công
ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động…Từ
đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, để
tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước thì hậy quả khó
tránh khỏi tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó, vốn nước ngoài sẽ là
một “ cú hích” để góp phần phá vỡ vòng luẩn quẩn đó. Đặc biệt FDI là một nguồn
quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư.
Hơn nữa, FDI còn là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói
chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì FDI góp phần nhằm tăng cạnh
tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận

từ các công ty nước ngoài, thu ngọai tệ từ các họat động dịch vụ phục vụ cho FDI.
1.1.4.2 ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
8
FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước
chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn
có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng
dụng của nước chủ nhà. Chuyển giao công nghệ thông qua FDI thường được thực
hiện chủ yếu bởi các TNCs, dưới hình thức: chuyển giao trong nội bộ giữa các chi
nhánh của một TNCs và chuyển giao giữa các chi nhánh TNCs. Phần lớn công nghệ
được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình
thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài,
dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công
nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công
nghệ marketing.
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn góp
phần tích cực đối với tăng trưởng năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của
nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các họat động nghiên cứu và phát triển
của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều
kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các họat động cải tiến công nghệ của các
doanh nghiệp ĐTNN đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công
nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp
tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử
dụng công nghệ nước ngòai, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học
được cách thiết kế, chế tạo…. công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều
kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Nhờ có
những tác động tích cực trên, khả năng thành công của nước chủ nhà được tăng
cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy được tăng trưởng.
1.1.4.3 ĐTNN góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới.
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này
được thể hiện ở các khía cạnh : xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so sánh, hiệu

quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất, nhập khẩu bổ sung các hàng
hóa, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng, xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động
ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức marketing cho
9
các doanh nghiệp nội địa và lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu
tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới bởi
vì, hầu hết các họat động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các công
ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên
cơ sở thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng đúng
hẹn….
1.1.4.4 ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN
FDI mở rộng các nguồn thu thuế ở nước chủ nhà và đóng góp cho nguồn thu
của chính phủ. Thậm chí trong trường hợp nếu các nhà đầu tư nước ngoài được miễn
thuế thông qua các chính sách ưu đãi đầu tư thì chính phủ vẫn có được nguồn thu gia
tăng từ việc trả thuế thu nhập cá nhân bởi vì FDI tạo ra các việc làm mới, ngoài ra,
nếu FDI định hướng xuất khẩu tạo ra khoản thu ngoại tệ.
1.1.4.5 ĐTNN góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, nâng cao
năng suất lao động.
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các họat động sản xuất, các vấn dề
xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông
qua đầu tư vào các lĩnh vực : sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và
kỹ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất
lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng.
Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn
góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rất
lớn đến tốc độ tăng trưởng.
FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc
cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra những cơ
hội việc làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nứơc ngoài mua hàng hóa

dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, họăc thuê họ thông qua các hợp đồng gia
công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo ra
việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế
biến.
10
Thông qua khoản trợ giúp tài chính họăc mở các lớp đào tạo dạy nghề, FDI
còn góp phần quan trọng đối với phát triển giáo dục của nước chủ nhà trong các lĩnh
vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp một số thiết bị
giảng dạy cho các cơ sở giáo dục của nước chủ nhà, tổ chức các chương trình phổ
cập kiến thức cơ bản cho người lao động bản địa làm việc trong dự án (trong đó có
nhiều lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài ).
Đây là các tác động kép của FDI đối với nền kinh tế : tạo thêm việc làm cũng
có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ
trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong các nước nhận
đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
1.1.5 . Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI
Môi trường đầu tư nước ngoài là một trong yếu tố đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng
trực tiếp tới việc thu hút FDI, nó là tổng hòa các yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc
đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài ở nước nhận đầu tư. Nó bao gồm các yếu tố về
tình hình chính trị, chính sách – pháp luật, vị trí địa lý- điều kiện tự nhiên, trình độ
phát triển kinh tế, đặc điểm văn hóa – xã hội.
1.1.5.1 Tình hình chính trị
Tình hình ổn định chính trị của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng hàng đầu
để thực hiện các cam kết bảo đảm an toàn sở hữu tài sản và các khuyến khích đầu tư
cho các nhà đâu tư nước ngoài. Mặt khác, sự ổn định về chính trị còn là tiền đề cần
thiết để ổn định tình hình kinh tế xã hội, nhờ đó giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Một
nước không thể thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài nếu tình hình chính trị
luôn luôn mất ổn định.
1.1.5.2. Chính sách, pháp luật

Các nhà đầu tư nước ngoài rất cần một môi trường pháp lý hợp lý và ổn định của
nước chủ nhà. Môi trường này gồm những chính sách, quy định đối với đầu tư nước
ngoài và tính hiệu lực của chúng trong thực hiện. Một môi trường pháp lý hấp dẫn
nhà đầu tư nước ngoài nếu có các chính sách, quy định hợp lý và tính hiệu lực cao
trong thực hiện. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng không chỉ để đảm bảo
11
quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn chính các nhà đầu tư trong nước khi
tính đến làm ăn lâu dài.
1.1.5.3 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm các chi phí vận chuyển, đa dạng hóa
các lĩnh vực đầu tư, cung cấp được nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú với giá rẻ
và tiềm năng tiêu thụ lớn. Những yếu tố này không những làm giảm được giá thành
sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư tìm kiếm nguyên liệu tự nhiên và thị
trường tiêu thụ.
1.1.5.4 Trình độ phát triển kinh tế.
Trình độ phát triển của nền kinh tế là các mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô,
cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các họat động kinh doanh của nhà
đầu tư nước ngoài và mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà. Những nước
có trình độ quản lý vĩ mô kém thường dẫn đến tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngòai
lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ tục hành chính rườm rà, nạn tham
nhũng… Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm các yếu tố như sân bay, cảng biển, giao thông,
điện lực, viễn thông, còn cơ sở hạ tầng mềm bao gồm chất lựơng lao động, dịch vụ
công nghệ, hệ thống tài chính. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và dịch vụ sẽ tạo ra
những điều kiện thuận lợi và giảm chi phí phát sinh cho các họat động đầu tư.
1.1.5.5 Đặc điểm văn hóa, xã hội
Đặc điểm văn hóa, xã hội của nước chủ nhà được coi là hấp dẫn đầu tư nước ngoài
nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng về ngôn ngữ, tôn giáo, các
phong tục tập quán với các nhà đầu tư nước ngoài. Các đặc điểm này không chỉ giảm
được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo điều
kiện thuận lợi cho họ hòa nhập vào cộng đồng nước ngoài.

1.1.6. Một số các lý thuyết về FDI :
1.1.6.1. Các học thuyết vĩ mô:
1.1.6.1.1. Lý thuyết thương mại quốc tế của Heckcher và Ohlin – HO (1993)
Giả đinh rằng không có sự lưu chuyển các yếu tố sản xuất qua biên giới và hiệu quả
kinh tế không phụ thuộc vào quy mô thị trường các nước.
Tuy nhiên, trong thực tế thì sự sẵn có của 2 yếu tố sản xuất là lao động và vốn của 2
nước lại khác nhau. Mô hình HO chỉ ra rằng sản lượng của 2 nước sẽ tăng lên nếu
12
như mỗi nước tập trung sản xuất để xuất khẩu hàng hóa và sử dụng nhiều yếu tố sản
xuất dư thừa và nhập khẩu những hàng hóa dùng nhiều yếu tố khan hiếm. Do đó sự
xuất hiện hoạt động thương mại quốc tế được giải thích từ sự chênh lệch tính dư thừa
và khan hiếm của các yếu tố sản xuất giữa các nước.
1.1.6.1.2. Mô hình MacDougall – Kemp (1964)
Mô hình này được xây dựng trên các giả định: nền kinh tế thế giới chỉ có 2 nước I và
II; trước khi di chuyển vốn thì năng suất cận biên của vốn đầu tư ở nước I ( thừa vốn)
thấp hơn ở nước II ( thiếu vốn) ; theo quy luật thì năng suất cận biên của vốn giảm
dần. Luồng FDI sẽ hình thành và di chuyển từ nước I sang nước II cho đến khi
năng suất cận biên của vốn ở 2 nước là bằng nhau. Kết quả là sản lượng thế giới tăng
lên do sử dụng 1 cách hiệu quả hơn các nguồn lực sản xuất. Mô hình cũng giải thích
sự ảnh hưởng khác nhau của FDI ở nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư. ở nước I ,
thu nhập từ sử dụng vốn tăng lên do năng suất cận biên của vốn tăng, trong nước II
thì diễn ra ngược lại. Như vậy FDI mang lại lợi ích cho cả 2 nước.
1.1.6.1.3. Lý thuyết của Krugman( 1983)
Lý thuyết này giải thích nguyên nhân của đầu tư nước ngoài với mục đích khai thác
hiệu quả của vốn là do có sự khác biệt về chính sách kinh tế vĩ mô của các nước tham
gia đầu tư. Lý thuyết này cũng giải thích đầu tư nước ngoài từ góc độ hiệu quả sử
dụng yếu tố đầu tư như 2 lý thuyết trên.
1.1.6.2. Các học thuyết vi mô
Nếu như các học thuyết vĩ mô đứng trên góc độ quốc gia để xem xét lý thuyết FDI
thì các học thuyết vi mô lại đứng trên góc độ các doanh nghiệp hoặc các ngành kinh

doanh.
1.1.6.2.1. Học thuyết về lợi thế độc quyền (Stephen Hymer - Mỹ)
Khi đầu tư ra nước ngoài, chủ đầu tư có một số bất lợi như: khoảng cách địa lý làm
tăng chi phí vận chuyển các nguồn lực (chuyển giao công nghệ), thiếu hiểu biết về
mội trường xa lạ làm tăng chi phí thông tin, thiết lập mối quan hệ khách hàng mới và
hệ thống cung cấp mới cũng mất nhiều chi phí so với các công ty bản địa. Tuy vậy họ
vẫn nên tiến hành FDI khi họ có những lợi thế độc quyền, họ sẽ giảm được chi phí
kinh doanh và tăng doanh thu so với các công ty bản địa. Các lợi thế độc quyền đó có
thể là công nghệ hay nhãn hiệu.
13
Ví dụ nói đến Cocacola là người ta nghĩ ngay đến “nước uống ga có mùi quế” hay
nhãn hiệu Heineken nổi tiếng với những mẩu quảng cáo rất hấp dẫn…
1.1.6.2.2. Học thuyết nội bộ hoá
Theo học thuyết này, FDI tăng khi giao dịch bên trong công ty(Internal Transaction)
tốt hơn giao dịch bên ngoài công ty (Market Transaction), IT tốt hơn MT khi thị
trường không hoàn hảo: không hoàn hảo tự nhiên như khoảng cách giữacác quốc gia
làm tăng chi phí vận tải, không hoàn hảo mang tính cơ cấu như: rào cản thương mại
như các tiêu chuẩn về sản phẩm, về môi trường; các yêu cầu liên quanđến quyền sở
hữu trí tuệ, công nghệ. Khi thị trường không hoàn hảo như vậy, người ta phải tạo ra
thị trường bằng cách tạo ra IT, sử dụng tài sản trong nội bộ công ty mẹ – con, con –
con.
Ví dụ, một doanh nghiệp thép có thể phải đối mặt với tình trạng thiếu nguyên liệu
cung cấp và chi phí giao dịch cao khi phải mua quặng sắt từ nướcngoài, đặc biệt khi
doanh nghiệp này phải mua hàng ở một châu lục khác. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp
này mua lại một công ty khai mỏ nước ngoài, tức là tiến hành việc nội bộ hoá bao
gồm cả việc mua luôn quặng sắt và chi phí vận chuyển,nó sẽ loại bỏ được tình trạng
thiếu thốn nguyên liệu. Nội bộ hoá phải có những lợi ích lớn hơn chí phí phát sinh
khi thành lập mạng lưới công ty mẹ – con thì mới được sử dụng.
1.1.6.2.3. Lý thuyết triết trung:
lý thuyết này được phát triển bởi Dunning đã cung cấp một phương pháp phân tích

khác về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế. Dựa trên phân tích về lợi thế
cạnh tranh, lý thuyết này chỉ ra rằng việc thu hút nguồn vốn FDI phụ thuộc rất nhiều
vào các nhân tố và đặc tính của nước sở tại. Một trong các nhân tố đó là tăng trưởng
kinh tế.
Ví dụ, Chakrabarti (2001) tranh luận rằng tăng trưởng cao tại các nước sở tại sẽ thu
hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu thị trường và đầu tư…
1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam
1.2.1 Nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Có rất
nhiều cách hiểu khác nhau về nông nghiệp. Theo nghĩa hẹp nông nghiệp gồm có
14
ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp – các hoạt
động liên quan đến việc trồng cấy và đầu tư canh tác trên đất nhằm mục đích sản xuất
ra sản lượng lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Như vậy đối
tượng chính của của nông nghiệp theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm loại cây trồng được
thuần hóa canh tác trên đất. Còn hiểu theo nghĩa rộng nông nghiệp bao gồm cả ngành
lâm nghiệp và ngành thủy sản. Vì thế đối tượng của nông nghiệp được mở rộng sang
cả các loại vật nuôi trên cạn và dưới nước. Các đối tượng này là những sinh vật sống,
tiến hóa trong lịch sử đa phần được con người chọn lọc và cải tạo theo mục đích mà
con người mong muốn. Khác với ngành sản xuất khác, các đối tượng của ngành nông
nghiệp cần phải được cấy và phát triển trên đất trong điều kiện sinh trưởng phát triển
của các quy luật tự nhiên. Vì thế mà nông nghiệp luôn gắn chặt với điều kiện về đất
đai và khí hậu thời tiết ở mỗi vùng, địa phương cụ thể.
1.2.2 Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Sản xuất nông nghiệp không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con
người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những mặt
hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện nay, nông nghiệp ngày
càng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là
trong mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia. Nông nghiệp có những vai

trò sau :
1.2.2.1 Cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống con người
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát
triển kinh tế ở hầu hết các nước, và trong việc đảm bảo an ninh lương thực của các
quốc gia. Không chỉ đóng vai trò quan trọng ở các nước đang phát triển, mà ngay cả
những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp
không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng
tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống của con người những sản phẩm tối cần
thiết. Đặc biệt ngày nay khi xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày càng
được nâng cao; nhất là do tác động của các nhân tố gia tăng dân số thì nhu cầu của
con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng
15
và chủng loại, vì thế yêu cầu phát triển nông nghiệp vẫn đóng vai trò hàng đầu trong
quá trình phát triển.
1.2.2.2. Cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành kinh tế khác
Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công
nghiệp, dịch vụ và khu vực thành thị. Điều đó được thể hiện ở các mặt sau:
- Sản phẩm nông nghiệp được sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp chế biến thực phẩm, một phần cho công nghiệp da giầy, dệt may,
sản xuất một số sản phẩm dùng trong ngành y tế, hàng không,… Thông qua công
nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp được tăng lên, nâng cao khả năng
cạnh tranh của nông sản hàng hóa, mở rộng thị trường,… Ở Việt Nam hiện nay, khi
mà các ngành công nghiệp chế tạo còn phát triển ở mức độ hạn chế do yêu cầu về
vốn, thì ngành công nghiệp chế biến chiếm một tỷ trọng lớn, và vì thế ngành nông
nghiệp lại càng có vai trò quan trọng với các ngành công nghiệp này.
- Lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt ở các nước đang phát triển, là khu vực dự trữ
và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị. Trong giai đoạn đầu của
công nghiệp hóa, phần lớn dân cư có họat động kinh tế chủ yếu bằng nghề nông và
tập trung sống ở khu vực nông thôn. Vì thế, khu vực nông nghiệp, nông thôn thực sự
là nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho sự phát triển công nghiệp và đô thị. Quá trình

công nghiệp hóa và đô thị hóa, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ
đó mà năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ
nông nghiệp được giải phóng ngày càng nhiều, số lao động này dịch chuyển, bổ sung
cho phát triển công nghiệp và đô thị. Đó là xu hướng có tính chất quy luật của mọi
quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.2.3. Nông nghiệp và nông thôn là thị truờng tiêu thụ lớn của công nghiệp và
dịch vụ
Hầu hết ở các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất
và tư liệu tiêu dùng được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là
khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông
thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh
mẽ nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua khu vực
16
nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển,
từng bước nâng cao chất lượng để có thể cạnh tranh với thị trường thế giới.
1.2.2.4. Nông nghiệp góp phần tăng thu ngoại tệ nhờ xuất khẩu nông sản
Đối với các nước đang phát triển, nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu
nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông, lâm, thủy sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so
với các hàng hóa công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có
ngoại tệ chủ yếu là dựa vào các loại nông – lâm – thủy sản. Xu hướng chung ở các nước
trong quá trình công nghiệp hóa, trong giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản
chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự
phát triển cao của nền kinh tế. Là một nước nông nghiệp, kim ngạch xuất khẩu nông
nghiệp của Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam. Trong đó có nhiều sản phẩm chiếm giữ mức kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ
USD như gạo, cà phê, cao su… Dó đó, nông nghiệp vẫn là ngành xuất khẩu quan
trọng để tăng thu ngoại tệ về cho đất nước.
1.2.2.5. Góp phần bảo vệ môi trường sinh thái
Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn tới môi trường sinh thái, và là cơ sở trong
sự phát triển bền vững của môi trường. Phát triển nông nghiệp đúng hướng, nông

nghiệp sạch, sử dụng đất có hiệu quả gắn với chống lãng phí tài nguyên đất, đồng
thời phát triển các nông – lâm trường theo hướng kinh doanh trang trại sẽ góp phần
cải thiện môi trường sống, ngăn ngừa thiên tai, và hướng tới phát triển bền vững.
1.2.3. Đặc điểm của ngành nông nghiệp
Ngành nông nghiệp là một ngành có lịch sử lâu đời nhất trong lịch sử phát triển của
loài người, gắn với quá trình phát triển của loài người từ xưa đến nay. Đây cũng là ngành
có những nét đặc biệt so với các ngành kinh tế khác, những đặc điểm đó được thể hiện:
1.2.3.1. Sản xuất của ngành nông nghiệp phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên
Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên. Ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông
nghiệp ở đó. Thế nhưng, ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết
khí hậu rất khác nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng
các loại đất ở các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt động nông
nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng muwam nhiệt
17
độ, độ ẩm , ánh sáng … trên từng địa bàn gắn rất chặt chẽ với điều kiện hình thành và
sử dụng đất. Điều kiện đất đai, khí hậu không giống nhau giữa các vùng đã làm cho
nông nghiệp mang tính khu vực rất rõ nét. Vì vậy, khi tiến hành sản xuất nông nghiệp
cần chú ý các vấn đề kinh tế - kỹ thuật như tìm hiểu vùng quy hoạch bố trí sản xuất
cây trồng phù hợp, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, các hệ thống chính sách kinh tế
phù hợp với điều kiện từng vừng, khu vực.
1.2.3.2. Sản xuất nông nghiệp gắn liền với ruộng đất
Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng mỗi ngành
nó có một vai trò khác nhau. Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu
không thể thay thế được. Điều này có nghĩa là không có đất đai thì không có sản xuất
nông nghiệp; nhờ có đất mới phát huy được hiệu quả của các yếu tố đầu vào khác.
Tuy nhiên, hiện nay do quá trình đô thị hóa,và khai thác của con người, không ngừng
tăng lên nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình, ruộng đất càng ngày bị giới hạn về
mặt diện tích. Chính vì thế trong quá trình sử dụng phải biết quý trọng ruộng đất, sử
dụng tiết kiệm, hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng cơ bản, tìm mọi

biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản
xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích với chi phí thấp nhất trên đơn vị sản
phẩm.
1.2.3.3 Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng và vật nuôi
Các loại cây trồng và vật nuôi phát sinh, phát triển theo quy luật sinh học (sinh
trưởng, phát triển và diệt vong). Do là cơ thể sống nên chúng rất nhạy cảm với yếu tố
ngoại cảnh. Mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến
sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây
trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong bản thân
nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất
trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Vì vậy để chất lượng giống cây
trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, các giống hiện có,
nhập nội những giống cây tốt, tiến hành lai tạo để tạo ra những giống cây mới có
năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp với điều kiện từng vùng và từng địa phương.
1.2.3.4. Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao
18
Đây là đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp. Nguyên nhân của tính
thời vụ trong nông nhiệp là xuất phát từ chính quá trình sản xuất của nông nghiệp. Do
quy luật phát triển sinh học, điều kiện thời tiết, khí hậu, nhiệt độ, ánh sang, lượng
mưa, độ ẩm của mỗi loại cây trồng là khác nhau, vì thế cần có sự chăm sóc khác nhau
vào từng giai đoạn phát triển. Hơn nữa, chu kỳ sản xuất trong ngành nông nghiệp là
kéo dài; không như các ngành khác có chu kỳ sản xuất ngắn, chu kỳ của ngành nông
nghiệp thường là 3 - 4 tháng, 1 năm hoặc thậm chí là 5 năm hay lâu hơn nữa ( cà phê,
tiêu, điều, các loại cây ăn quả lâu năm…). Vì thế để họat động nông nghiệp diễn ra
một cách thuận lợi cần phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý, cung ứng vật tư –
kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc
bố trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những
thời điểm nông nhàn.
1.2.3.5. Khả năng sinh lợi trong ngành nông nghiệp là không cao.
Yếu tố này được quyết định bởi tính chất của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chu

kỳ sản xuất dài, giá trị sản phẩm nông nghiệp không cao, sản phẩm chủ yếu là hàng
thứ cấp, giá cả không ổn định; lại phụ thuộc vào tự nhiên nên không thể lường trước
được kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu được mùa, giá cả nông sản sẽ giảm theo quy
luật cung cầu, nếu mất mùa, giá tăng nhưng tính ra nông dân cũng không được lợi do
sản lượng thấp. Nếu muốn tăng giá trị cho nông sản thì phải kéo dài chuỗi giá trị của
nó, tức là gắn liền với công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, nền nông nghiệp Việt Nam
cũng có những đặc điểm riêng. Hơn nữa một trong các yếu tố làm khả năng sinh lời
trong ngành nông nghiệp sinh lời thấp là do sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, không
tập trung, mang tính tự cung tự cấp do thói quen canh tác lâu đời, năng suất thấp do
chủ yếu là lao động chân tay. Ruộng đất canh tác thì đang giảm đi nhanh chóng do
nhiều nguyên nhân trong đó có sự phát triển nhanh của quá trình đô thị hóa, cũng một
phần do công tác quy hoạch chưa cao. Khí hậu tự nhiên của Việt Nam lại rất khắc
nghiệt do nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, gây ảnh hưởng và tổn thất không nhỏ
cho sản xuất nông nghiệp. Mục đích của các nhà đầu tư luôn là lợi nhuận cao, thu hồi
vốn nhanh. Nhưng do đặc điểm của ngành nông nghiệp mà việc thu hút đầu tư vào
ngành vẫn còn gặp nhiều hạn chế, vốn đầu tư thu hút vào nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ
hơn nhiều so với các ngành khác.
19
1.2.4. Đặc điểm của đầu tư phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam
Đầu tư phát triển nông nghiệp thường có thời gian thu hồi vốn dài hơn đầu tư
vào các ngành kinh tế khác và nguyên nhân chủ yếu để gây ra hiện tượng này đó là :
+ Tính sinh lời của sản xuất kinh doanh nông nghiệp trong điều kiện hiện nay thường
thấp hơn các ngành khác
+ Chu kỳ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp thường dài, năng suất lao động
nông nghiệp lại thấp. Thời gian khấu hao của TSCĐ trong nông nghiệp thường kéo
dài hơn so với các ngành kinh tế khác.
+ Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi,….. ngoài các yếu tố
con người, máy móc thiết bị còn phụ thuộc vào rất nhiều vào yếu tố tự nhiên nên độ
rủi ro cao hơn các ngành khác.
+ Tính rủi ro và kém ổn định của sản xuất kinh doanh nông nghiệp, một mặt ảnh

hưởng tới thời gian thu hồi vốn đầu tư trong nông nghiệp, mặt khác ảnh hưởng tới
thời gian thu hồi vốn đầu tư của ngành kinh tế nông thôn có sử dụng nguyên liệu
nông nghiệp hoặc liên quan tới nông nghiệp.
+ Họat động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhất là trong
nông nghiệp thường diễn ra trên phạm vi rộng lớn. Phần lớn các họat động đầu tư
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có phạm vi không gian rộng lớn hơn trong các
lĩnh vực khác. Chính vì điều này lại làm tăng tính phức tạp của việc quản lý điều
hành các công việc của thời kỳ đầu tư xây dựng các công trình cũng như thời kỳ khai
thác các công trình đầu tư.
1.2.5. Nội dung đầu tư phát triển vào ngành Nông nghiệp Việt Nam:
 Đối với ngành trồng trọt và chế biến nông sản: Nguồn vốn đầu tư cần tập
trung vào các dự án xây dựng các vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa
gạo, cây lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè,... theo hướng thâm canh, nâng cao
chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới thiết bị các xưởng chế biến,...
 Đối với ngành chăn nuôi và chế biến các sản phẩm chăn nuôi: Cần tập trung
thu hút đầu tư vào các dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại
các vùng có điều kiện thuận lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường khi
phát triển chăn nuôi với quy mô lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản xuất thức
ăn gia súc có chất lượng cao.
20
 Đối với ngành trồng rừng - chế biến gỗ: Cần hướng đầu tư vào các dự án sản
xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng
nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản.
 Đối với ngành thủy sản: Cần hướng đầu tư vào các dự án nuôi trồng và đánh
bắt các loại hải sản có giá trị cao, khuyến khích việc tạo ra các giống con có giá trị
cao phù hợp với điều kiện tự nhiên của Việt Nam
1.2.6. Sự cần thiết của việc thu hút FDI vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam
Cũng như đối với nền kinh tế nói chung, vài trò của nguồn vốn FDI đối với
ngành nông nghiệp cũng rất quan trọng, thể hiện:
1.2.6.1 Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp.

FDI là nguồn bổ sung vốn cho quá trình phát triển khi mà nguồn trong nước
không đủ đáp ứng nhu cầu, đối với ngành nông nghiệp nó lại có vai trò quan trọng
hơn khi do đặc điểm của ngành nông nghiệp mà nguồn vốn vào ngành này lại càng
trở nên ít ỏi.
Đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp giai đoạn 2003-2007 bằng 8,7% tổng vốn đầu
tư Nhà nước; năm 2008 giảm xuống 6,4% và năm 2009 còn 6,2%; trong lúc giá trị
sản phẩm nông nghiệp chiếm gần 21% GDP. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông
nghiệp càng thấp hơn nữa, xấp xỉ 0,6% tổng vốn FDI ở năm 2009. Tính cả 5 năm từ
2006 đến 2010, tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm của ngành nông nghiệp đạt
3,3%, giảm so với 5 năm trước có mức bình quân 3,5%. Hiện nay, tỷ trọng vốn đầu
tư nước ngoài vào trong ngành nông nghiệp là chưa cao nhưng vẫn là nguồn lớn hỗ
trợ cho nông nghiệp nước nhà.
1.2.6.2. Góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện
đại, đa dạng hóa, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không
nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá
quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy
các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh
tranh khi tham gia hội nhập.Tuy các dự án đầu tư FDI vào nước ta là không lớn và số
vốn mỗi dự án còn hạn chế nhưng các dự án này đã tạo ra công ăn việc làm, thu nhập
ổn định cho hàng nghìn lao động trực tiếp tham gia cho các nhà máy, các khu chế
21
xuất…, đồng thời còn giúp hàng vạn hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn
nguyên liệu thường xuyên cho dự án hoặc theo mùa vụ (trồng mía đường, khoai
mì…), góp phần quan trọng thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo. Đặc biệt, ở một
số địa phương, dự án ĐTNN tạo việc làm cho khoảng 1/4 dân cư trên địa bàn. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng đã góp phần nâng cao năng suất của người lao động, người
lao động làm việc có ý thức, kỷ luật cao hơn.
1.2.6.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp tạo điều kiện
khám phá thì trường nông sản nước ta.

Nguồn vốn FDI cũng tạo điều kiện cho nông sản nước ta có cơ hội thâm nhập
vào thị trường thế giới. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có lợi thế về hệ thống
phân phối của họ trên thị trường thế giới. Khi có sự tham gia của họ vào ngành nông
nghiệp, mở ra nhiều cơ hội cho nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới, nâng cao
chất lượng nông sản, và từ đó lại giúp nước ta khai thác, tận dụng được những lợi thế
của mình và tiếp tục phát triển . Đồng thời, với các dự án của các nhà đầu tư nước
ngoài, thì giá trị của nông sản cũng được nâng cao, tăng thêm giá trị xuất khẩu, làm
tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước.
1.2.6.4. Góp phần nâng cao việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên của
ngành nông nghiệp.
Việc tăng cường thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho
ngành sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đất - rừng - sông, hồ, biển… do có điều
kiện đầu tư cho sản xuất, giảm thiểu tình trạng lãng phí tài nguyên đang diễn ra ở
nhiều nơi do không có điều kiện đầu tư hoặc sử dụng không đúng cách. Hơn thế nữa,
việc tăng cường đầu tư cũng góp phần khai thác thế mạnh của vùng, tạo nên sản
phẩm mang tính đặc sản, vừa nâng cao giá trị sản phẩm, vừa sử dụng tối đa nguồn tài
nguyên nông nghiệp.
Như vậy, ta có thể thấy rằng, là một ngành kinh tế chính của đất nước, nông
nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng đối với cả kinh tế lẫn trong cả đời sống xã hội.
Tuy nhiên, do những đặc điểm gắn liền với cách thức sản xuất của ngành mà ngành
nông nghiệp vẫn chưa có được sự đầu tư thích đáng cho nhu cầu phát triển. Chính vì
vậy, để phát triển nông nghiệp trong thời gian tới, yêu cầu của việc thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài, thu hút công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại vào phát triển
22
ngành là một trong yêu cầu tất yếu hiện nay. Vì vậy Việt Nam cần đưa ra những
chính sách, biện pháp, phương hướng nhằm thúc đẩy, tăng cường thu hút vốn FDI
vào ngành nông nghiệp.
1.2.7 Các nhân tố ảnh hưởng thu hút FDI vào ngành nông nghiệp
Do những đặc điểm khác biệt của sản xuất nông nghiệp, việc thu hút FDI vào
ngành nông nghiệp cũng phải chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau. Các

nhân tố này đều có tác động trực tiếp tạo ra những khó khăn và thuận lợi trong việc
thu hút FDI vào nông nghiệp, thể hiện :
1.2.7.1 Đất đai
Đất đai là cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất để tiến hành trồng trọt, chăn nuôi.
Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất có ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, năng suất
và sự phân bố cây trồng, vật nuôi.
Nguồn tài nguyên đất nông nghiệp trên thế giới rất hạn chế, chỉ chiếm khoảng
12% diện tích đất tự nhiên, trong khi số dân vẫn không ngừng tăng lên. Tuy diện tích
đất hoang hóa còn nhiều, nhưng việc khai hoang, mở rộng diện tích đất nông nghiệp
rất khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và tiền của. Đó là chưa kể đến việc mất đất do
nhiều nguyên nhân như xói mòn, rửa trôi, nhiễm mặn và chuyển đổi mục đích sử
dụng. Vì vậy, con người cần phải sử dụng hợp lý diện tích đất nông nghiệp hiện có và
bảo vệ độ phì của đất.
1.2.7.2 Dân cư và nguồn lao động
Dân cư và nguồn lao động ảnh hưởng tới hoạt động nông nghiệp ở hai mặt: vừa
là lực lượng sản xuất trực tiếp vừa là nguồn tiêu thụ các nông sản. Các cây trồng và
vật nuôi cần nhiều công chăm sóc đều phải phân bố ở những nơi đông dân, có nhiều
lao động; có nhiều loại cây trồng và vật nuôi lại cần hàm lượng kỹ thuật cao. Chính
vì vậy, việc phân bố nguồn lao động và lao động có tay nghề cao ảnh hưởng tới sự
phân bố và phát triển các loại cây trồng vật nuôi.
Truyền thống sản xuất, tập quán ăn uống của các dân tộc ở mỗi vùng miền, mỗi
đất nước có sự khác nhau: các nước Hồi giáo không ăn thịt lợn, ấn Độ không ăn thịt
bò,... Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nuôi con gì, trồng cây gì để không
làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các dân tộc, tôn giáo trong cùng một địa phương, một
khu vực, một đất nước.
23
1.2.7.3. Cơ sở hạ tầng
Đây là một nhân tố được các nhà đầu tư đánh giá cao trong khi cân nhắc việc
đầu tư vào một thị trường nào đó. Vì kết cấu hạ tầng vật chất tốt đồng nghĩa với việc
thuận lợi trong kinh doanh, liên lạc, vận chuyển hàng hóa, và kết quả là giảm chi phí

kinh doanh. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống điện, nước, đường xá, hệ
thống thủy lợi. Ngoài ra nhà đầu tư còn quan tâm tới các hệ thống dịch vụ như bưu
điện,ngân hàng, y tế, giáo dục và các dịch vụ khác.
1.2.7.4. Thủ tục hành chính
Những thủ tục thông thoáng trong quá trình cấp giấy phép, triển khai dự án
và quản lý dự án giúp cho các doanh nghiệp có vốn FDI tiết kiệm không nhỏ thời
gian và tiền bạc cho nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình thực hiện một dự án,
do đó nhanh chóng đưa được dự án đi vào hoạt động. Với việc sớm đi vào hoạt
động, các sảm phẩm sẽ sớm ra đời, giúp các nhà đầu tư chiếm lĩnh thị trường, tăng
sức cạnh tranh khiến dự án đầu tư trở nên có lãi, là cơ sở quan trọng để các nhà
đầu tư nước ngoài xem xét để đầu tư hay không, và cũng là cơ sở đầu tiên đảm
bảo cho nước chủ nhà có thể thu được các khoản thuế
1.2.7.5. Thị trường sản phẩm.
Thị trường sản phẩm tạo ra đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp đảm bảo cho
họat động của các DN diễn ra một cách thuận lợi, quá trình sản xuất kinh doanh được
liên tục. Một thị trường sản phẩm lớn, hướng ra xuất khẩu, vừa khuyến khích được
các nhà đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa nâng cao được thương hiệu của
sản phẩm, từ đó lại khuyến khích thu hút đầu tư.
24
Chương II
Thực trạng thu hút FDI vào nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn
2000 – 2010
2.1. Khái quát về ngành nông nghiệp Việt Nam:
Ngành nông nghiệp Việt Nam thời kỳ đổi mới đã có những bước tiến vượt
bậc và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cụ thể:
Nông nghiệp Việt Nam đã phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp và nuôi trồng thủy sản; Nông nghiệp nước ta đã đáp ứng cơ bản nhu cầu
lương thực và thực phẩm trong nước, an ninh lương thực đảm bảo, đã hình thành
những vùng sản xuất nông sản hàng hóa qui mô tương đối lớn, tỷ suất hàng hóa tăng
nhanh, một số mặt hàng nông sản đã khẳng định vị thế trên thị trường thế giới như

gạo (đứng thứ hai trên thế giới); cà phê, điều, hồ tiêu (thứ ba); xuất khẩu nông sản
tăng 15%; kim ngạch xuất khẩu nông sản, thuỷ sản chiếm 35% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước (năm 1999); Cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn
được tăng cường, công nghiệp chế biến nông lâm sản tăng 12 - 14%. Hệ thống đê và
các công trình phòng chống thiên tai được tăng cường. Đời sống của các tầng lớp dân
cư nông thôn được cải thiện đáng kể, thu nhập bình quân năm tăng từ 7,7 triệu
đồng/hộ (năm 1993) lên 9,8 triệu đồng/hộ (năm 1999), thu nhập bình quân năm tăng
từ 7,7 triệu đồng/hộ (năm 1993) lên 9,8 triệu đồng/hộ (năm 1999); Quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp được đổi mới theo hướng lấy mục tiêu hiệu quả làm thước đo,
tránh hình thức chủ nghĩa. Kinh tế trang trại phát triển nhanh ở tất cả các vùng đã
mang lại hiệu quả rõ rệt về kinh tế, xã hội và môi trường.
Bên cạnh những thành tựu đó cũng còn không ít tồn tại và thách thức: Cơ cấu
chuyển dịch chậm, sản phẩm chất lượng thấp, giá thành cao, cơ sở hạ tầng còn yếu
kém... Vì thế, chúng ta cần có những giải pháp đồng bộ: Đổi mới chính sách, tăng
cường đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ... để đưa nền nông nghiệp nước ta trở
thành nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa và bền vững.
25

×