Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH THU VÀ KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC DOANH THU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.91 KB, 29 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH THU VÀ KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC DOANH
THU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Đối với doanh nghiệp, quá trình hoạt động kinh doanh bình thường gồm ba
giai đoạn chủ yếu: giai đoạn chuẩn bị các yếu tố đầu vào, giai đoạn kết hợp các
yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm và giai đoạn tiêu thụ sản phẩm đó. Kết quả
của giai đoạn tiêu thụ chính là doanh thu của doanh nghiệp, việc hạch toán
doanh thu trong kế toán doanh nghiệp cần áp dụng đúng theo các nguyên tắc và
các quy định của Nhà nước.
1.1 Doanh thu và kế toán doanh thu
1.1.1 Khái niệm doanh thu
Tiêu thụ là quá trình chuyển giao hàng hoá sản phẩm, hoặc cung cấp lao vụ
dịch vụ cho khách hàng được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán để
thực hiện giá trị sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Tiêu thụ là quá trình tạo ra
doanh thu của hoạt động kinh doanh. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14,
“Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế
toán phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường hay bất thường
của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu”. Giá trị hợp lý của doanh
thu được xác định theo giá trị đã thu được hoặc sẽ thu được nhưng phải được
xác định tương đối chắc chắn. Doanh thu cần được ghi nhận đúng thời điểm,
đảm bảo đầy đủ các điều kiện ghi nhận doanh thu. Bao gồm:
- Doanh nghiệp đã chuyển giao cho bên mua phần lớn rủi ro và lợi ích
gắn với quyền sở hữu sản phẩm;
- Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý cũng như quyền
kiểm soát sản phẩm;
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;
- Doanh nghiệp đã thu hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động
tiêu thụ sản phẩm đó;
- Doanh nghiệp xác định được các chi phí liên quan đến bán hàng.
Để được ghi nhận là doanh thu của doanh nghiệp, nghiệp vụ kinh tế phát
sinh phải đảm bảo đồng thời năm điều kiện trên. Khi xác định thời điểm ghi
nhận doanh thu, doanh nghiệp phải xác định thời điểm chuyển giao phần lớn rủi


ro gắn liền với quyền sở hữu tài sản, hàng hoá cho người mua trong từng trường
hợp cụ thể. Trong phần lớn các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn rủi
ro trùng với thời điểm chuyển giao lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hợp pháp
hoặc quyền kiểm soát hàng hoá cho người mua. Khi hạch toán doanh thu, kế
toán doanh nghiệp cần đảm bảo các yêu cầu chung, đó là: doanh thu phải được
ghi nhận đúng đắn, đúng thời điểm; các nghiệp vụ doanh thu phát sinh trong kỳ
được ghi nhận đầy đủ và định giá đúng, không bỏ sót nghiệp vụ cũng như xác
định sai giá trị; khi ghi nhận, kế toán căn cứ vào từng hoạt động cụ thể để phân
loại đúng các khoản doanh thu của doanh nghiệp. Tiêu chuẩn nhận biết giao
dịch tạo ra doanh thu còn được áp dụng cho hai hay nhiều giao dịch đồng thời
có quan hệ với nhau về mặt thương mại, khi đó phải xem xét các giao dịch trong
mối quan hệ tổng thể. Đối với hoạt động bán hàng thông thường, là hoạt động
chủ yếu của doanh nghiệp, doanh nghiệp còn xác định doanh thu thuần từ bán
hàng và cung cấp dịch vụ. Doanh thu thuần được xác định bằng doanh thu bán
hàng của doanh nghiệp sau khi trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu như: chiết
khấu thương mại, giảm giá hàng bán, doanh thu hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Các khoản này
ghi giảm doanh thu khi xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong
đó:
Chiết khấu thương mại là khoản mà doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết
cho khách hàng khi khách hàng mua với số lượng lớn trong một hoặc nhiều lần
mua hàng, tuỳ theo chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho người mua do hàng hoá kém
phẩm chất, sai quy cách theo yêu cầu trong hợp đồng kinh tế hoặc lạc hậu so với
thị hiếu mà doanh nghiệp đồng ý theo thoả thuận của hai bên mua và bán.
Doanh thu hàng bán bị trả lại là giá trị khối lượng hàng đã xác định tiêu
thụ bị khách hàng trả lại và từ chối thanh toán vì nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu được ghi giảm doanh thu bán hàng
mà không hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Thuế GTGT là khoản giảm trừ doanh thu khi doanh nghiệp tính thuế GTGT

theo phương pháp trực tiếp, khi xác định khoản thuế GTGT phải nộp nhà nước
đồng thời kế toán sẽ hạch toán giảm doanh thu bán hàng.
Theo chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số
15/2006/QĐ- BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006, doanh thu của doanh nghiệp nói
chung gồm ba loại: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ; doanh thu hoạt
động tài chính và thu nhập khác.
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được theo dõi trên tài khoản 511-
doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, chi tiết thành năm tiểu khoản:
TK 5111- “Doanh thu bán hàng hoá”
TK 5112- “Doanh thu bán các thành phẩm”
TK 5113- “Doanh thu cung cấp dịch vụ”
TK 5114- “Doanh thu trợ cấp, trợ giá”
TK 5117- “Doanh thu kinh doanh bất động sản đầu tư”
Doanh thu hoạt động tài chính được theo dõi và hạch toán trên tài khoản
515- Doanh thu hoạt động tài chính.
Thu nhập bất thường được hạch toán và theo dõi trên tài khoản 711- Thu
nhập khác.
1.1.2 Đặc điểm hạch toán kế toán doanh thu trong doanh nghiệp
Hoạt động tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng quan trọng nhất của quá trình sản
xuất kinh doanh, trong đó, doanh thu là sản phẩm trực tiếp để xác định kết quả
kinh doanh. Hơn nữa, vấn đề xác định đúng thời điểm ghi nhận doanh thu chỉ
mang tính chất tương đối, loại hình nghiệp vụ và tính chất nghiệp vụ liên quan
đến doanh thu rất phức tạp. Do đó, hạch toán kế toán doanh thu đòi hỏi những
yêu cầu cao hơn kế toán các khoản mục khác. Hiện nay, việc hạch toán kế toán
các khoản doanh thu của doanh nghiệp được thực hiện theo Chế độ kế toán
doanh nghiệp ban hành kèm theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20
tháng 03 năm 2006.
Hạch toán các nghiệp vụ doanh thu yêu cầu đảm bảo các nguyên tắc hạch
toán kế toán chung và một số các yêu cầu đặc thù của nghiệp vụ doanh thu phát
sinh. Khi phát sinh nghiệp vụ liên quan đến doanh thu cần hạch toán, người

hạch toán cần xem xét nghiệp vụ phát sinh đó có thoả mãn đồng thời tất cả các
điều kiện ghi nhận doanh thu hay không. Ngoài ra khi hạch toán, doanh thu
được ghi nhận phải đảm bảo phù hợp với chi phí phát sinh trong cùng một giao
dịch. Doanh thu cần được theo dõi chi tiết cho từng loại trên từng tài khoản
khác nhau theo quy định của nhà nước và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Cuối kỳ kế toán, doanh thu được tập hợp và kết chuyển về tài khoản 911- “Xác
định kết quả kinh doanh”, các tài khoản doanh thu không có số dư cuối kỳ. Sơ
đồ hạch toán cụ thể như sau:
333
521,531,532
511, 512 111,112,131,138…
333911
Thuế XK, thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp Nhà nước, thuế GTGT phải nộp (phương pháp trực tiếp)
Cuối kỳ,kết chuyển chiết khấu TM, doanh thu háng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán trong kỳ
DT bán hàng và cung cấp dịch vụ phát sinh
Đơn vị áp dụng phương pháp trực tiếp (tổng giá thanh toán)
Đơn vị áp dụng phương pháp khấu trừ (giá chưa thuế GTGT)
Thuế GTGT đầu raCuối kỳ,kết chuyển doanh thu thuần
Chiết khấu thương mại, hàng bán bị trả lại, giảm giá hàng bán phát sinh trong kỳ
Hình 1.1 Sơ đồ hạch toán kế toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịc h vụ
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: Hiểu theo một cách khái quát
nhất, đây là khoản doanh thu hình thành từ các nghiệp vụ bán sản phẩm, hàng
hoá do doanh nghiệp sản xuất, mua bán hoặc thực hiện các công việc theo hợp
đồng kinh tế đã ký với khách hàng. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là
khoản doanh thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các doanh nghiệp hiện nay vì
đây là hoạt động chính của doanh nghiệp. Việc xác định một giao dịch bán hàng
hoá hay dịch vụ đủ điều kiện ghi nhận doanh thu rất phức tạp, phụ thuộc vào
loại hình kinh doanh cũng như hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên. Tuy
nhiên, yêu cầu ghi nhận doanh thu phải đảm bảo các điều kiện như đã nói ở trên
mới được coi là hợp lý. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ khi ghi nhận

bao gồm cả doanh thu nội bộ, là doanh thu của lượng hàng hoá, sản phẩm, lao
vụ tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trong cùng doanh nghiệp, bao gồm công ty,
tổng công ty, tập đoàn, liên hiệp xí nghiệp hạch toán toàn ngành…. Doanh thu
nội bộ sử dụng tài khoản 512 để hạch toán.
Khi trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, kế toán cần tính
toán đầy đủ các chỉ tiêu theo yêu cầu như doanh thu thuần về bán hàng và cung
cấp dịch vụ, lợi nhuận gộp, lợi nhuận thuần….
Khi hạch toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, kế toán cần lưu ý
phương pháp tính thuế GTGT của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tính thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ, tính trên giá trị hàng hoá, thì doanh thu ghi
nhận sẽ là phần doanh thu chưa bao gồm thuế GTGT, khi đó, hoá đơn sử dụng
để phát hành sẽ là hoá đơn GTGT. Nếu doanh nghiệp đăng ký tính nộp thuế
GTGT theo phương pháp trực tiếp, doanh thu được ghi nhận sẽ bao gồm cả
khoản thuế GTGT phải nộp, hoá đơn mà doanh nghiệp phát hành là hoá đơn bán
hàng thông thường.
Doanh thu hoạt động tài chính: Một trong các hoạt động tạo ra thu nhập của
doanh nghiệp là hoạt động đầu tư tài chính, kết quả của hoạt động này là doanh
thu hoạt động tài chính. Doanh thu hoạt động tài chính là khoản thu từ các hoạt
động góp vốn liên doanh, liên kết, góp vốn vàp công ty con; cho thuê tài sản, lãi
tiền gửi ngân hàng; hoạt động mua bán, đầu tư chứng khoán ngắn hạn và hoàn
nhập dự phòng giảm giá chứng khoán, đầu tư ngắn hạn khác; thu từ chênh lệch
tỷ giá hối đoái do đánh giá lại ngoại tệ cuối kỳ kế toán. Khi ghi nhận một khoản
doanh thu hoạt động tài chính, kế toán cần có đầy đủ căn cứ chứng minh khoản
doanh thu ghi nhận đảm bảo hai điều kiện: Giao dịch tạo ra khoản doanh thu
này phải có khả năng tạo ra lợi ích kinh tế và doanh thu được ghi nhận phải
được xác định tương đối chắc chắn.
Thu nhập khác: Là khoản doanh thu ghi nhận từ các hoạt động không
thường xuyên của doanh nghiệp, thu nhập khác hay còn gọi là thu nhập bất
thường. Thu nhập khác có thể là thu nhập từ hoạt động thanh lý, nhượng bán
Tài sản cố định; các khoản nợ phải thu xoá sổ nay thu hồi được; tài sản được

viện trợ, biếu tặng; thu nhập từ tiền phạt vi phạm hợp đồng; tiền bảo hiểm đã
được bồi thường; xử lý tài sản thừa khi kiểm kê; và các hoạt động không thường
xuyên phát sinh khác. Các giao dịch bất thường khi ghi nhận doanh thu có thể là
hoạt động chịu thuế hoặc không chịu thuế GTGT, hạch toán ghi nhận khoản
doanh thu này cũng cần áp dụng theo phương pháp tính thuế GTGT là doanh
nghiệp đăng ký.
1.1.3 Những khả năng sai phạm khi hạch toán doanh thu
Với đặc điểm như trên, việc ghi nhận và hạch toán khoản mục doanh thu có
thể xuất hiện những khả năng sai phạm như sau:
• Doanh thu hạch toán cao hơn doanh thu thực tế phát sinh: Đối với các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh không có hiệu quả hoặc có chỉ tiêu về
doanh thu từ cấp trên giao mà không hoàn thành, khi đó doanh nghiệp sẽ phải
hạch toán tăng doanh thu những khoản chưa đủ điều kiện ghi nhận. Trên thực
tế, sai phạm thường xảy ra như sau:
Thứ nhất, kế toán doanh nghiệp ghi nhận doanh thu khi hàng bán chưa
xuất, nghĩa là thực hiện bút toán ghi nhận doanh thu nhưng không ghi nhận giá
vốn của số hàng bán đó. Theo đúng quy định, khoản tiền đó chưa đủ điều kiện
ghi nhận doanh thu đồng thời việc làm đó sẽ vi phạm nguyên tăc phù hợp giữa
doanh thu và chi phí phát sinh trong kế toán.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp ghi nhận doanh thu
bán hàng và cung cấp dịch vụ khi ký biên bản nghiệm thu mà chưa có quyết
toán A-B. Thực tế, khi hạch toán nghiệp vụ này, hai bên thoả thuận ký biên bản
nghiệm thu trước khi hoàn thành công trình nhưng chưa quyết toán được chi phí
thực hiện công trình vì trên thực tế xác định được chi phí phát sinh. Doanh thu
xây lắp chỉ được ghi nhận khi hai bên thực hiện quyết toán.
Thứ ba, doanh nghiệp có thể ghi nhận một khoản doanh thu không có thật,
lập một hợp đồng kinh tế gọi là “hợp đồng ảo”. Doanh nghiệp không thực hiện
bán hàng hoặc dịch vụ như trên hợp đồng đã viết. Trên thực tế, khách hàng đó
không tồn tại, đối ứng với khoản doanh thu ghi nhận đó là một khoản công nợ
phải thu không có đối tượng nợ (không thực hiện đối chiếu công nợ với khách

hàng). Khoản nợ trên có thể được doanh nghiệp theo dõi trên danh nghĩa sổ
sách từ năm này qua năm khác và xử lý vào chi phí sản xuất kinh doanh trong
những kỳ kế toán sau nếu có điều kiện.
Thứ tư, những giao dịch đồng thời có quan hệ với nhau về mặt thương
mại, là cách thức doanh nghiệp thực hiện để ghi nhận một khoản doanh thu
không đủ điều kiện ghi nhận. Chẳng hạn, doanh nghiệp thực hiện ký kết một
hợp đồng kinh tế thực hiện hoạt động bán hàng hoá, đồng thời ký một hợp đồng
khác mua lại chính số hàng đó sau một thời gian. Khi đó, hàng hoá có thể không
được xuất ra khỏi kho từ thời điểm ký hợp đồng bán đến khi ký kết hợp đồng
mua lại hàng.
• Doanh thu hạch toán thấp hơn doanh thu thực tế phát sinh: Đối với các doanh
nghiệp có hoạt động kinh doanh tốt hoặc để giảm chi phí thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp, kế toán sẽ khai giảm doanh thu bán hàng. Các trường hợp có
thể xảy ra:
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp xây lắp, các công trình đã hoàn thành, hai
bên đã thực hiện quyết toán chi phí thực hiện công trình tuy nhiên doanh nghiệp
không thực hiện ghi nhận khoản doanh thu đó, tương ứng lại ghi nhận giá vốn.
Việc làm đó phản ánh sai lệch tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, ghi tăng
chi phí sản xuất kinh doanh và ghi giảm doanh thu, theo đó sẽ giảm được chi
phí thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Tuy nhiên, điều đó vi phạm quy định
của nhà nước về kế toán doanh nghiệp đồng thời vi phạm nguyên tắc phù hợp
giữa doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, doanh nghiệp thực hiện bán hàng cho khách hàng, có biên bản
giao nhận hàng nhưng doanh nghiệp không ghi nhận khoản doanh thu đó. Khi
giao nhận hàng hoá cho khách hàng và hai bên đã ký biên bản giao nhận, doanh
nghiệp đã chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá và những rủi ro liên quan đến
lượng hàng hoá đó cho bên mua, tuy nhiên theo những mục đích cụ thể của
doanh nghiệp mà khoản doanh thu đó được ghi nhận vào kỳ kế toán sau.
• Đối với những khoản giảm trừ doanh thu: Doanh nghiệp ghi nhận khoản giảm
trừ doanh thu khi thực tế không phát sinh ở kỳ kế toán đó. Theo đó, doanh thu

thuần thực tế cao hơn số hạch toán. Doanh nghiệp có thể thực hiện việc hạch
toán trên bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, khoản chiết khấu thanh toán
mà doanh nghiệp thực hiện chiết khấu cho khách hàng do thời gian thanh toán
tiền hàng trước thời hạn, doanh nghiệp hạch toán giảm giá trị của hợp đồng bán
hàng đó trong khi khoản chiết khấu đó phải được ghi nhận vào chi phí hoạt
động tài chính. Hoặc những chi phí liên quan đến việc xúc tiến hoạt động bán
hàng cho một chương trình hoặc kế hoạch, dự án nào đó được hạch toán giảm
trừ doanh thu trong khi khoản chi phí đó cần được hạch toán vào chi phí bán
hàng theo đúng chế độ kế toán doanh nghiệp.
Đối với khoản mục doanh thu, có rất nhiều sai phạm, có khả năng ảnh
hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, những rủi ro
liên quan đến kiểm toán khoản mục doanh thu cũng đa dạng dẫn đến việc kiểm
toán viên phải thiết kế chương trình kiểm toán phù hợp căn cứ trên kinh nghiệm
và những dự đoán, ước tính ban đầu về rủi ro cho khoản mục này.
1.2 Kiểm toán khoản mục Doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính
Khi kiểm toán Báo cáo tài chính, khoản mục doanh thu có vai trò quan
trọng, ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính của khách thể kiểm toán. Hơn
nữa, khoản mục doanh thu có những đặc thù riêng, hạch toán khoản mục doanh
thu cũng có những đặc điểm riêng biệt do đó, các sai phạm thường gặp đối với
khoản mục này cũng rất khác biệt.
1.2.1 Vai trò, đặc điểm kiểm toán khoản mục doanh thu
Trong hệ thống Báo cáo tài chính, mỗi loại báo cáo đều có những chức
năng và vai trò khác nhau đối với nhu cầu tìm hiểu và phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo phản
ánh tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trọng một thời kỳ, một giai
đoạn nào đó. Trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu doanh thu có
chức năng phản ánh tổng quát nhất về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
trong thời kỳ đó. Quyết định của chủ đầu tư và những người quan tâm khác đến
doanh nghiệp và tình hình tài chính của doanh nghiệp căn cứ chủ yếu trên kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp mà doanh thu là một trong các chỉ tiêu quan

trọng. Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện bởi Báo cáo kết quả kinh
doanh thường thông qua các chỉ tiêu: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ lệ lãi
gộp, …. Khoản mục doanh thu được hạch toán và trình bày đúng đắn trên Báo
cáo tài chính là mục tiêu của kiểm toán khoản mục doanh thu.
Ngoài ra, giữa các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp
cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, khoản mục doanh thu ảnh
hưởng tới nhiều chỉ tiêu khác trên Bảng cân đối kế toán, bao gồm: khoản mục
tiền, phải thu khách hàng, khách hàng ứng trước, hàng tồn kho, lợi nhuận chưa
phân phối…. Khi kiểm toán khoản mục doanh thu, kiểm toán viên có thể tham
chiếu các sai phạm sang các khoản mục này để có sự quan sát và đánh giá tổng
quát về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, thông qua
kiểm toán các khoản mục doanh thu, kiểm toán viên cũng có thể phát hiện các
gian lận và sai sót liên quan đến doanh thu của khách thể kiểm toán trong niên
độ kế toán được kiểm toán. Các chỉ tiêu doanh thu và chi phí liên quan phải
được xác định đầy đủ và chính xác vì hai chỉ tiêu này là cơ sở để xác định lợi
nhuận của doanh nghiệp, phản ánh hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi kiểm toán khoản mục doanh thu, kiểm toán viên có thể kết hợp với kết
quả kiểm toán các khoản mục khác có liên quan trên bảng cân đối kế toán, kiểm
toán các khoản mục chi phí để khẳng định sự phù hợp giữa số phát sinh hay số
dư của các chỉ tiêu này. Doanh thu là một khoản mục trong chu trình bán hàng-
thu tiền, tuy nhiên, vấn đề kiểm toán cả chu trình này sẽ làm cho các bước kiểm
toán cần xây dựng trong chương trình kiểm toán khá nhiều và phức tạp. Trên
thực tế, do tầm quan trọng của khoản mục doanh thu đối với Báo cáo tài chính
và việc phân tích tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nên
khoản mục doanh thu thường được tách ra và thực hiện kiểm toán riêng rẽ với
các phần hành khác.
Hơn nữa, doanh thu đối với mỗi lĩnh vực kinh doanh khác nhau có phương
pháp và điều kiện ghi nhận doanh thu khác nhau. Đối với doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ xây lắp, đầu tư xây dựng cơ bản, …doanh thu được ghi nhận sẽ
căn cứ theo hợp đồng được ký kết giữa hai bên về phương thức ghi nhận và

quyết toán vốn đầu tư, nghiệm thu công trình hoặc hạng mục công trình hoàn
thành. Đối với doanh nghiệp sản xuất, việc ghi nhận doanh thu chỉ được ghi
nhận khi hàng hoá, thành phẩm đã xuất bán khỏi kho của doanh nghiệp và hai
bên đã ký biên bản bàn giao hàng hoá. Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ, điều kiện ghi nhận doanh thu là khi việc cung cấp dịch vụ hoàn thành. Mỗi
doanh nghiệp, mỗi ngành nghề kinh doanh có thời điểm ghi nhận doanh thu
khác nhau. Vì vậy, việc đánh giá những rủi ro tiềm tàng đối với khoản muc
doanh thu trở nên quan trọng và yêu cầu thực hiện thận trọng và chi tiết.
1.2.2 Mục tiêu kiểm toán khoản mục doanh thu
Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200: “Mục tiêu của kiểm toán
Báo cáo tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến
xác nhận rằng Báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có
phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trong yếu hay không?”
Đối với kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung, quá trình kiểm toán phải
đảm bảo thực hiện được các mục tiêu chung, đó là đưa ra kết luận về tính trung
thực và hợp lý của các thông tin được trình bày trên Báo cáo tài chính của khách
thể kiểm toán. Các mục tiêu chung đó bao gồm: tính hiệu lực; tính trọn vẹn;
định giá đúng đắn; phân loại đúng; quyền và nghĩa vụ; tính chính xác cơ học;
tính đúng kỳ và tính được phép. Đối với khoản mục doanh thu nói riêng, các
mục tiêu trên được áp dụng thành các mục tiêu kiểm toán đặc thù:
Một là, các nghiệp vụ doanh thu phát sinh được ghi sổ phải có căn cứ hợp
lý. Căn cứ hợp lý trong kiểm toán khoản mục doanh thu được hiểu là việc ghi

×