Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY TNHH ERNST & YOUNG VIỆT NAM THỰC HIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.13 KB, 57 trang )

HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG
GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO
CÔNG TY TNHH ERNST & YOUNG VIỆT NAM THỰC HIỆN
3.1 SỰ TẤT YẾU HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM
TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
3.1.1 Vai trò của quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn Lập kế
hoạch kiểm toán đối với mỗi cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc kiểm
toán, đồng thời nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán có giá trị để từ đó có
thể đưa ra kết luận kiểm toán hợp lý, mọi cuộc kiểm toán đều được thực hiện qua 3
giai đoạn là Lập kế hoạch kiểm toán, Thực hiện kiểm toán và Kết thúc kiểm toán.
Trong đó, giai đoạn Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên bắt đầu mọi cuộc
kiểm toán. Tại mục 08 của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300 có khẳng định
“Kế hoạch kiểm toán phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán
phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng
yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và đảm
bảo cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn. Kế hoạch kiểm toán trợ giúp
kiểm toán viên phân công công việc cho trợ lý kiểm toán và phối hợp với các kiểm
toán viên và chuyên gia khác về công việc kiểm toán”.
Trong giai đoạn này thì quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán là một công việc
quan trọng phải được thực hiện vô cùng chặt chẽ. Dựa vào mức độ trọng yếu đã được
xác định trên toàn bộ BCTC hay được phân bổ cho từng khoản mục, các KTV sẽ
đánh giá rủi ro kiểm toán tức là xác định khả năng xảy ra những sai sót trên phương
diện toàn bộ BCTC hay trong từng khoản mục để từ đó có thể thiết kế các thủ tục
kiểm toán và xây dựng chương trình kiểm toán cho phù hợp nhằm mục đích cuối
cùng là giảm thiểu được rủi ro kiểm toán trong BCTC của khách hàng đã được kiểm
toán. Với vai trò quan trọng như vậy thì việc hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro
kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán nói riêng và trong toàn bộ cuộc
1
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B


kiểm toán nói riêng là một nhu cầu tất yếu. Nhờ quá trình hoàn thiện mà quy trình
đánh giá rủi ro sẽ được thiết kế và thực hiện một cách bài bản, chặt chẽ và hiệu quả
đem lại những đánh giá xác đáng về mức độ rủi ro kiểm toán, để từ đó có những biện
pháp trong việc thiết kế và xây dựng chương trình kiểm toán nhằm giảm thiểu rủi ro
kiểm toán xuống mức có thể chấp nhận được.
3.1.2 Sự tất yếu phải hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính trong Kiểm toán báo cáo tài
chính nhằm phù hợp với phương hướng phát triển của công ty
Với quan điểm vì lợi ích cao nhất của khách hàng, phương hướng hoạt động
của Công ty Ernst & Young Việt Nam là tiếp tục đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ
chuyên ngành và các thông tin đáng tin cậy nhằm giúp khách hàng đưa ra các quyết
định quản lý, tài chính và kinh tế một cách chính xác và có hiệu quả. Dựa trên cơ sở
này, trong thời gian tới, công ty sẽ hỗ trợ khách hàng giải quyết tốt hơn và kịp thời
hơn các vấn đề phát sinh mà ít có một tổ chức dịch vụ chuyên ngành nào có thể thực
hiện được để nhanh chóng trở thành công ty kiểm toán hàng đầu tại Việt Nam, có sức
ảnh hưởng lớn.
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, điều đầu tiên Ernst & Young Việt Nam
nghĩ tới đó là yếu tố con người. Công ty sẽ không chỉ tập trung vào những nhân viên
đã đi làm, đã có kinh nghiệm mà còn tập trung vào cả những sinh viên chuyên ngành
còn đang ngồi trên ghế các giảng đường đại học bằng cách tổ chức các cuộc thi để
trao những học bổng. Đồng thời, công ty cũng đang trong quá trình xây dựng kế
hoạch mở rộng các dịch vụ cung cấp để đa dạng hóa các loại hình dịch vụ nhằm thúc
đẩy doanh thu và tăng lợi nhuận. Đặc biệt công ty cũng có kế hoạch nhằm tiếp thị
công ty với các doanh nghiệp trong cả nước để thu hút thêm nhiều khách hàng sử
dụng dịch vụ của công ty.
Nhưng trên tất cả thì Ernst & Young Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện quy trình
kiểm toán nói chung và quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán nói riêng để tạo nên
thương hiệu kiểm toán riêng. Có như vậy thì chất lượng của các cuộc kiểm toán mà
Ernst & Young Việt Nam thực hiện cho khách hàng sẽ ngày càng được nâng lên trong
2

Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
hoàn cảnh hiện nay các công ty kiểm toán khác cũng đang phát triển rất mạnh mẽ.
Với một chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng tốt như vậy thì Công ty sẽ xây
dựng cho mình một lợi thế cạnh tranh riêng biệt, khi đó các khách hàng sẽ tin tưởng
và tìm đến với Công ty nhiều hơn. Hơn nữa, cùng với việc hoàn thiện quy trình kiểm
toán, việc nâng cao chất lượng của quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp cho
các KTV của công ty có những đánh giá xác đáng về những rủi ro xuất phát từ phía
khách hàng (rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát) để điều chỉnh mức độ rủi ro phát hiện
thông qua việc thực hiện các thử nghiệm kiểm toán tiếp theo, qua đó nâng cao độ tin
cậy của các thông tin đã được kiểm toán trên các báo cáo tài chính của khách hàng,
đồng thời cũng góp phần giảm thiểu mức độ rủi ro kinh doanh cho chính các KTV và
cho Ernst & Young Việt Nam.
3.2 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI
CHÍNH TẠI CÔNG TY TNHH ERNST & YOUNG VIỆT NAM
3.2.1 Ưu điểm
Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong quá trình thực hiện kiểm toán báo cáo
tài chính nói chung và trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán nói riêng của Công ty
TNHH Ernst & Young Việt Nam được thiết kế bởi Ernst & Young toàn cầu. Đây là
quy trình đánh giá chung cho mỗi khách hàng được áp dụng cho tất cả các công ty
kiểm toán thành viên của hãng kiểm toán Ernst & Young. Quy trình này được các
chuyên gia của hãng thiết kế dựa trên kinh nghiệm làm việc của mình cũng như việc
thử nghiệm quy trình trong nhiều năm để khắc phục và hoàn thiện những điểm yếu
trong quy trình. Việc đánh giá rủi ro kiểm toán do Ernst & Young thiết kế bao gồm
những bước rất cụ thể đi từ tổng thể đến chi tiết nhằm đánh giá chính xác từng loại
rủi ro, cụ thể như sau:
• Đánh giá rủi ro sơ bộ để ra quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng
Đây là công đoạn mở đầu cho mỗi cuộc kiểm toán, trước khi ký hợp đồng thực
hiện kiểm toán cho một khách hàng nào đó, Giám đốc công ty sẽ thực hiện những
đánh giá về những rủi ro có thể tồn tại ở khách hàng dựa trên những thông tin thu

thập được, đồng thời cũng dựa vào những nguồn lực mà công ty có như về số lượng
3
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
kiểm toán viên, sự am hiểu của các kiểm toán trong lĩnh vực hoạt động của khách
hàng…để xem xét liệu Ernst & Young Việt Nam có thể phát hiện và đánh giá những
rủi ro kiểm toán của khách hàng để có thể đạt được mức rủi ro có thể chấp nhận được
trên báo cáo tài chính của khách hàng không, liệu việc thực hiện kiểm toán báo cáo
tài chính cho khách hàng có làm ảnh hưởng đến uy tín, vị thế của Công ty kiểm toán
không?
• Tìm hiểu đặc điểm về hoạt động kinh doanh của khách hàng
Để đánh giá được những rủi ro của khách hàng, các kiểm toán viên phải thu
thập những thông tin chi tiết về ngành nghề hoạt động, sản phẩm dịch vụ cung cấp,
các khách hàng và nhà cung cấp chủ yếu…cũng như sự ảnh hưởng của nền kinh tế,
của các quyết định có liên quan của các cơ quan chức năng của Nhà nước…lên khả
năng kinh doanh của khách hàng, để từ đó dựa vào kinh nghiệm cuả mình để xác
định những rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có thể xuất hiện ở những khách hàng
hoạt động trong từng lĩnh vực như sản xuất, kinh doanh, thương mại, ngân hàng hay
bảo hiểm, chứng khoán…
• Tìm hiểu sự phức tạp trong công nghệ thông tin mà công ty khách hàng áp
dụng và xác định rõ những vấn đề liên quan đến chuyên môn công nghệ thông
tin
Ngày nay, các công ty dù lớn hay nhỏ đều áp dụng công nghệ thông tin vào
các ứng dụng hỗ trợ cho công việc hàng ngày của mình dù ít hay nhiều. Hệ thống
công nghệ thông tin đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong hệ thống kiểm soát
nội bộ của khách hàng. Do đó, việc tìm hiểu hệ thống công nghệ thông tin của khách
hàng sẽ giúp cho các kiểm toán viên có được những thông tin về cách thức hoạt động
và kiểm soát của các ứng dụng để từ đó xác định được những sai sót do hệ thống
thông tin gây ra.
• Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ tại từng cấp của công ty khách hàng và chỉ ra
những rủi ro gian lận và xác định những giải thích cho những rủi ro đó

Mỗi doanh nghiệp, mỗi công ty đều có những kiểm soát nội bộ của riêng
mình, ở công đoạn này, các kiểm toán viên sẽ tìm hiểu sự thiết kế và hiệu quả hoạt
động của những thủ tục kiểm soát của đơn vị, những sai sót mà hệ thống kiểm soát
4
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
nội bộ không phát hiện ra để có thể đánh giá được mức độ rủi ro kiểm soát của khách
hàng. Những yếu tố thuộc về hệ thống kiểm soát nội bộ được các kiểm toán viên sử
dụng làm căn cứ để đánh giá mức độ rủi ro là:
• Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay
đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
• Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên
kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ.
• Những áp lực bất thờng đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng phải
trình bày báo cáo tài chính không trung thực;
• Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các
đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
• Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: Các biến
động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trờng mua, thị trờng bán và
sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
• Các thành viên tham gia kiểm toán thảo luận để có những đánh giá chung và
thống nhất về những rủi ro có thể tồn tại ở khách hàng
Đây là công đoạn được thực hiện cùng với việc tìm hiểu, đánh giá hệ thống
kiểm soát nội bộ của khách hàng, xác định những rủi ro gian lận và những lời giải
thích cho những gian lận đó. Việc trao đổi ý kiến này sẽ giúp cho các kiểm toán viên
có cái nhìn khách quan và toàn diện về những rủi ro tồn tại ở khách hàng.
• Chỉ ra những khoản mục trọng yếu và những cơ sở dẫn liệu liên quan đến
khoản mục đó
Dựa theo Báo cáo tài chính, các kiểm toán viên đã xác định những khoản mục
được cho là trọng yếu để xác định những rủi ro tổng quan của khoản mục dựa trên
quy mô, số lượng các nghiệp vụ có liên quan, mức độ phức tạp của các nghiệp vụ và

những điều chỉnh mang tính trọng yếu có liên đến khoản mục đó trong năm. Sau đó,
với mỗi khoản mục, các kiểm toán viên sẽ xác định những cơ sở dẫn liệu có liên quan
có thể có sai sót. Các yếu tố mà các kiểm toán viên có thể dựa vào để đánh giá mức
độ rủi ro đối với các khoản mục gồm có:
5
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
• Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có
những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo cáo tài chính có nhiều ước
tính kế toán, hoặc tổng năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
• Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế,
như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh
sau ghi nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá
TSCĐ,...;
• Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu,
chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài,...;
• Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý
kiến của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp,...;
• Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm
kết thúc niên độ;
• Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
• Xác định những lớp nghiệp vụ trọng yếu và những ứng dụng liên quan đến
nghiệp vụ đó
Sau khi đã xác định được những khoản mục trọng yếu trên Báo cáo tài chính,
các kiểm toán viên sẽ tìm hiểu chi tiết hơn vào các khoản mục đó bằng cách xác định
những nghiệp vụ cần chú ý hình thành nên khoản mục đó và những ứng dụng có liên
quan đến nghiệp vụ đó.
• Tìm hiểu quy trình thực hiện các nghiệp vụ trọng yếu, xác định những điểm dễ
xảy ra sai sót và những hoạt động kiểm soát nhằm phát hiện những sai sót
trong quy trình đó
Việc xác định rủi ro về những sai sót và gian lận của mỗi nghiệp vụ liên quan

sẽ hình thành nên những sai sót, gian lận của khoản mục. Do đó, các kiểm toán viên
phải tiến hành tìm hiểu quy trình thực hiện các nghiệp vụ để từ đó mới có thể xác
định được những sai sót, gian lận nảy sinh trong quy trình thực hiện từng nghiệp vụ.
• Thực hiện kiểm tra xuyên suốt
Đặc biệt ở công đoạn này các KTV của Ernst & Young Việt Nam chú trọng vào
6
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
việc kiểm tra những điểm dễ sai sót để xem những kiểm soát đó có tồn tại và hiệu
quả để giảm thiểu rủi ro kiểm soát cho những lớp nghiệp vụ đó không?
Công đoạn này được thực hiện để đánh giá sơ bộ về rủi ro kiểm soát đối với
những nghiệp vụ trọng yếu được xét đến. Nếu những kiểm soát được thiết kế đối với
các nghiệp vụ không hiệu quả hay thiết kế hiệu quả nhưng thực hiện lại không hiệu
quả thì những rủi ro kiểm soát sẽ ở mức độ lớn, tức là nguy cơ xảy ra sai sót, gian lận
ở mỗi nghiệp vụ sẽ lớn, điều này sẽ khiến cho các kiểm toán viên phải thực hiện
nhiều thủ tục kiểm toán để có thể giảm thiểu những sai sót, gian lận đó.
• Tìm hiểu hệ thống kiểm soát công nghệ thông tin
Các KTV của Ernst & Young Việt Nam sẽ tìm hiểu những thông tin về cách
thức thiết kế và hoạt động nhằm đánh giá hiệu quả của hệ thống công nghệ thông tin
trong những hoạt động của khách hàng. Đặc biệt đối với những khách hàng sử dụng
công nghệ thông tin vào các giao dịch hàng ngày như Ngân hàng, Công ty Chứng
khoán…thì việc kiểm soát hệ thống thông tin này là vô cùng quan trọng bởi chỉ một
sai sót trong hệ thống sẽ dẫn đến những sai sót vô cùng nghiêm trọng.
• Thiết kế và thực hiện các kiểm tra về hệ thống kiểm soát công nghệ thông tin
Các kiểm toán viên sẽ thực hiện kiểm tra xem hệ thống công nghệ thông tin
của khách hàng có được kiểm soát một cách chặt chẽ hay không, những thay đổi
trong hệ thống có thực sự cần thiết, có được thử nghiệm trước khi áp dụng, có được
các nhà quản lý kiểm tra và phê duyệt không, những truy nhập của hệ thống thông tin
có logic hay không…
• Đánh giá hệ thống kiểm soát công nghệ thông tin của khách hàng dựa vào
những sai sót trong hoạt động của hệ thống đã được phát hiện khi thực hiện

kiểm tra
Nếu việc thực hiện các kiểm tra về hệ thống kiểm soát công nghệ thông tin ở
trên cho thấy việc kiểm soát này là kém hiệu quả thì các kiểm toán viên sẽ phải cân
nhắc việc thực hiện các thủ tục các kiểm toán tiếp theo bởi khi đó mức độ rủi ro từ
phía hệ thống thông tin là lớn và những sai sót, gian lận trong các hoạt động tài chính
cũng như trong việc lập Báo cáo Tài chính của khách hàng là vô cùng lớn.
7
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
• Đánh giá rủi ro tổ hợp dựa vào những đánh giá về rủi ro kiểm soát và rủi ro
tiềm tàng đối với từng cơ sở dẫn liệu của từng khoản mục
Sau khi xác định được những rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của từng cơ
sở dẫn liệu của từng nghiệp vụ có liên quan, các kiểm toán viên sẽ xác định được
mức rủi ro tổ hợp của từng khoản mục. Đối với mọi khách hàng, Ernst & Young Việt
Nam luôn đặt ra một mức chính xác đối với mọi số liệu trình bày trên các Báo cáo tài
chính là 95%, tức là mức độ rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận được trên các Báo cáo
Tài chính được Ernst & Young Việt Nam kiểm toán là 5%. Để đảm bảo được mức độ
rủi ro này, Ernst & Young Việt Nam sẽ dựa vào mức độ rủi ro tổ hợp xác định được
thông qua việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của khách hàng thông
qua ma trận sau đây:
Bảng 3.1: BẢNG ĐÁNH GIÁ RỦI RO TỔ HỢP
Rủi ro kiểm soát
Nhỏ nhất Trung bình Lớn nhất
Rủi ro tiềm tàng Thấp Nhỏ nhất Thấp Trung bình
Cao Thấp Trung bình Cao
Rủi ro tổ hợp
Mức độ rủi ro tổ hợp ở đây chính là mức độ rủi ro phát hiện, dựa vào mức độ
rủi ro này mà các kiểm toán viên mới có thể thiết kế những thủ tục kiểm toán cần
thiết nhằm phát hiện những sai sót, gian lận trên Báo cáo Tài chính của khách hàng,
nếu mức độ rủi ro tổ hợp cao thì các kiểm toán viên phải thực hiện nhiều các thủ tục
kiểm toán chi tiết hơn để phát hiện ra những sai sót và gian lận của khách hàng.

Với một quy trình được thiết kế tốt nhưng việc thực hiện lại không hiệu quả thì
kết quả đem lại cũng sẽ không thể đạt được kết quả đã đặt ra. Nhận biết được điều đó
nên bên cạnh một quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán được thiết kế chặt chẽ và hiệu quả, các kiểm toán viên của Ernst & Young
Việt Nam đã tuân thủ một cách nghiêm ngặt những thủ tục trong quy trình đánh giá
đã được thiết kế. Những người thực hiện đánh giá rủi ro này là những kiểm toán viên
lâu năm, có kinh nghiệm chuyên môn, do đó họ hiểu được khá sâu sắc vai trò của
8
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
việc đánh giá rủi ro trong mỗi cuộc kiểm toán đăc biệt là trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán, vì vậy họ thực hiện công việc này khá tỉ mỉ và thận trọng. Tuy nhiên, họ
không áp dụng một cách máy móc quy trình đó mà đối với mỗi khách hàng, tùy vào
đặc trưng của mỗi khách hàng mà các kiểm toán viên có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Nhờ đó mà các Báo cáo Tài chính do Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam thực
hiện có độ tin cậy rất cao đem lại uy tín lớn cho công ty.
3.2.2 Những hạn chế, tồn tại
Do quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
báo cáo tài chính mà Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam đang áp dụng nằm
trong quy trình kiểm toán chung do các chuyên gia của Ernst & Young trên toàn thế
giới thiết kế dựa vào kinh nghiệm chuyên môn của mình, đồng thời quy trình ấy cũng
đã được hoàn thiện qua hàng chục năm phát triển của hãng. Hơn thế nữa, vì mới là
một sinh viên mới ra trường với lượng kiến thức có hạn về chuyên ngành nên em chỉ
xin đưa ra một vài những hạn chế còn tồn tại mà em nhận thấy trong quy trình đánh
giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn Lập kế hoạch của Công ty bên cạnh những ưu
điểm trên đây:
• Phương pháp mô tả Hệ thống kiểm soát nội bộ trong các bước công việc nhằm
đánh giá rủi ro kiểm soát của khách hàng
Bản chất của việc đánh giá rủi ro kiểm soát là việc các KTV đưa ra ý kiến xem
xét liệu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể kiểm toán có tồn tại không, có được
thiết kế và hoạt động một cách hiệu quả trong việc phát hiện và ngăn chặn những sai

sót, gian lận trong các nghiệp vụ kinh tế của doanh nghiệp hay không? Để đánh giá được
thì trước tiên, các KTV phải tiến hành thu thập các tài liệu, thông tin về hệ thống kiểm
soát nội bộ của khách hàng, sau đó KTV sẽ tổng hợp những tài liệu thu thập được để
miêu tả về sơ đồ tổ chức, quy trình thực hiện các hoạt động, các thủ tục kiểm soát của hệ
thống đó làm bằng chứng cho những đánh giá của mình.
Để thể hiện sự hiểu biết của mình về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
hàng, các KTV có thể sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp rất nhiều phương pháp miêu tả
như Bảng câu hỏi, Bảng tường thuật và Lưu đồ, trong đó phương pháp sử dụng Lưu
đồ là phương pháp được các chuyên gia đánh giá là đem lại hiệu quả cao nhất. Tuy
9
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
nhiên trên thực tế thì Ernst & Young Việt Nam lại chủ yếu miêu tả hệ thống kiểm soát
nội bộ của khách hàng bằng việc sử dụng Bảng câu hỏi và Bảng tường thuật (ta có
thể thấy ở phần Phụ lục của Luận văn) làm giảm bớt hiệu quả của quá trình đánh giá
rủi ro kiểm soát của các KTV.
• Các kiểm toán viên chưa được tìm hiểu cặn kẽ về quá trình đánh giá rủi ro
Kiểm toán trong Giai đoạn lập kế hoạch
Ở Ernst & Young Việt Nam có sự chuyên môn hóa khá cao, thể hiện ở chỗ chỉ
có các Kiểm toán viên cấp cao mới được phép thực hiện quá trình đánh giá rủi ro
kiểm toán, đây là một yêu cầu đảm bảo cho chất lượng của những đánh giá rủi ro của
các kiểm toán viên. Tuy nhiên, ở Ernst & Young Việt Nam, các nhân viên kiểm toán ở
các cấp độ thấp hơn hầu như chỉ tập trung vào một phần hành cụ thể trong giai đoạn
Thực hiện kiểm toán mà không được tìm hiểu cụ thể về quá đánh giá rủi ro kiểm toán
của cấp trên. Tình trạng này dẫn đến việc các nhân viên đó không thể hiểu được bản
chất của những rủi ro của khách hàng có liên quan đến cuộc kiểm toán và trong một
số trường hợp họ sẽ thực hiện các thử nghiệm kiểm toán tiếp theo một cách máy móc.
Ngược lại, nếu họ có được cái nhìn chung và hiểu được phần nào thực chất của
những rủi ro đó thì họ sẽ thực hiện các thử nghiệm cơ bản một cách chủ động hơn,
sáng tạo hơn và họ sẽ hiểu hơn yêu cầu đối với từng thử nghiệm kiểm toán cần thực
hiện.

3.3 NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI
ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG
TY TNHH ERNST & YOUNG VIỆT NAM THỰC HIỆN
3.3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán
trong giai đoạn lập kế hoạch Kiểm toán Báo cáo Tài chính do Công ty TNHH
Ernst & Young Việt Nam thực hiện
• Phương pháp mô tả Hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
Thực tế hiện nay tại Ernst & Young Việt Nam, các KTV vẫn sử dụng hai
phương pháp chính để miêu tả hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, đó là Bảng
câu hỏi và Bảng tường thuật, trong khi đó phương pháp sử dụng lưu đồ là phương
10
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
pháp mang lại hiệu quả cao nhất lại không được áp dụng thường xuyên.
Do đó, để mang lại hiệu quả ngày càng cao cho quy trình đánh giá rủi ro kiểm
toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, trong toàn cuộc kiểm toán hoặc để nâng
cao chất lượng của cuộc kiểm toán thì Ernst & Young Việt Nam nên áp dụng phương
pháp sử dụng lưu đồ vào việc mô tả của mình. Để làm được điều này, Công ty nên có
những khóa đào tạo cho tất cả các nhân viên của mình về cách thức sử dụng phương
pháp này và những ứng dụng của nó, đồng thời cũng khuyến khích các nhân viên sử
dụng phương pháp này trong công việc, đặc biệt Công ty cũng nên có những phần
mềm hỗ trợ cho các nhân viên sử dụng phương pháp này để giảm bớt lượng công
việc.
• Đào tạo cho các kiểm toán viên của Công ty những kiến thức về quy trình đánh
giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Đây là một hạn chế của Ernst & Young Việt Nam đã được nhắc đến ở phần trên.
Tại Công ty, việc thực hiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán đều do các KTV cấp cao, có kinh nghiệm phụ trách thực hiên, tuy nhiên
hầu như tất cả các KTV cấp dưới hay các trợ lý kiểm toán đều không hiểu được những
đánh giá rủi ro của cấp trên và do đó họ chỉ biết thực hiện những thủ tục kiểm toán đã

được xây dựng trong chương trình kiểm toán. Điều này đã làm cho các nhân viên này
làm việc khá máy móc, hạn chế sự hiểu biết và sáng tạo của họ.
Để khắc phục được hạn chế này, Công ty cần phải đào tạo cho các nhân viên
kiểm toán của mình những kiến thức cơ bản về quá trình đánh giá rủi ro kiểm toán
trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, đồng thời càng lên cấp bậc cao hơn thì các
kiểm toán viên sẽ được đào tạo những kiến thức sâu hơn về việc đánh giá rủi ro. Đặc
biệt trước khi bước vào giai đoạn thực hiện kiểm toán cho mỗi khách hàng, Ernst &
Young Việt Nam nên tổ chức những buổi thảo luận, trong đó các KTV cấp cao sẽ
trình bày về quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch và
những kết quả thu được nhằm giúp cho các kiểm toán viên cấp dưới hiểu được bản
chất của những kết quả đánh giá rủi ro kiểm toán thu được, để từ đó họ có thể chủ
động hơn và sáng tạo hơn trong việc thực hiện các thủ tục kiểm toán nhằm đảm bảo
cho quá trình thực hiện kiểm toán được diễn ra chặt chẽ và hiệu quả.
11
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
3.3.2 Những bài học cho các Công ty Kiểm toán trong nước rút ra từ quy trình
đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch Kiểm toán Báo cáo Tài
chính do Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam thực hiện
• Từ việc tìm hiểu việc thiết kế quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán của Công ty
TNHH Ernst & Young Việt Nam
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400, “Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán
viên và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính
của đơn vị được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác
định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến
từng cơ sở dẫn liệu…”, yêu cầu này không chỉ dừng lại ở việc đánh giá rủi ro tiềm tàng
mà cần được thực hiện ở việc đánh giá cả những loại hình rủi ro khác.
Điều đó ta có thể thấy ở quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán của Công ty TNHH
Ernst & Young Việt Nam-một quy trình được thiết kế rất chi tiết và cụ thể. Trong quy
trình này có những thủ tục đánh giá ngay từ giai đoạn tìm hiểu khách hàng để ra quyết
định có hợp tác để kiểm toán cho khách hàng hay không? Các thủ tục đánh giá rủi ro

trong quy trình này được Ernst & Young Việt Nam thiết kế theo trình tự xác định
những rủi ro tiềm tàng trước rồi đến những rủi ro kiểm soát tương ứng với các công
đoạn như: tìm hiểu khách hàng để ra quyết định kiểm toán, tìm hiểu ngành nghề hoạt
động của khách hàng, tìm hiểu mức độ phức tạp của hệ thống công nghệ thông tin
khách hàng áp dụng, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và xác định những rủi ro gian
lận tồn tại ở khách hàng.
Việc tìm hiểu đánh giá rủi ro của Ernst & Young Việt Nam được tiến hành thông
qua việc tìm hiểu từ tổng thể đến chi tiết:
• Rủi ro tiềm tàng
Đầu tiên, các kiểm toán viên sẽ thực hiện tìm hiểu khách hàng về cơ cấu tổ
chức, ngành nghề hoạt động kinh doanh…để xác định những rủi ro xuất phát từ cơ
cấu tổ chức, lĩnh vực hoạt động của khách hàng (rủi ro kinh doanh) có ảnh hưởng đến
cuộc kiểm toán mà cụ thể là ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán của các kiểm toán viên.
Trong công đoạn này các Kiểm toán viên tìm hiểu rất kỹ lưỡng và tỷ mỉ về quy mô,
cơ cấu tổ chức, đặc điểm của ngành nghề lĩnh vực kinh doanh, cũng như những ảnh
hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài...của khách hàng. Đặc biệt, nắm bắt
được xu hướng hiện nay các doanh nghiệp đã bắt đầu ứng dụng các công nghệ thông
tin vào hoạt động của mình nên Ernst & Young Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng đến
việc tìm hiểu hệ thống công nghệ thông tin của khách hàng nhằm phát hiện những rủi
12
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
ro tiềm tàng của khách hàng nảy sinh từ việc áp dụng công nghệ thông tin. Việc coi
trọng và thực hiện nghiêm túc công đoạn này đã giúp cho các Kiểm toán viên của
Ernst & Young Việt Nam có những đánh giá chính xác hơn về những rủi ro tiềm tàng
của khách hàng.
• Rủi ro kiểm soát
Sau khi đã xác định và đánh giá được các rủi ro tiềm tàng của khách hàng, các
kiểm toán viên sẽ đi sâu vào từng khoản mục được trình bày trên Báo cáo Tài chính
của khách hàng-đối tượng kiểm toán, để xác định những khoản mục và những cơ sở
dẫn liệu có liên quan dễ xảy ra sai sót và gian lận, tức là có rủi ro cao. Nhưng để đánh

giá một cách chính xác những rủi ro đã chỉ ra đối với mỗi khoản mục ở công đoạn
trên thì các kiểm toán viên lại tiếp tục đi sâu vào từng khoản mục để tìm hiểu những
loại nghiệp vụ hình thành nên khoản mục đó và xác định những rủi ro dễ xảy ra đối
với từng loại nghiệp vụ cùng những thủ tục kiểm soát của khách hàng nhằm hạn chế
những rủi ro đó, để từ đó các kiểm toán viên có thể đánh giá được mức độ rủi ro của
từng nghiệp vụ, rồi khái quát lên cho từng khoản mục liên quan đến những nghiệp vụ
đó.
• Rủi ro phát hiện
Công thức để xác định được Mức độ Rủi ro tổ hợp đã được các chuyên gia của
Ernst & Young toàn cầu thiết kế và thử nghiệm qua nhiều năm và đến nay đã được áp
dụng là một công thức chuẩn của Hãng Kiểm toán Ernst & Young. Nhờ công thức
chuẩn này mà dựa vào việc xác định và đánh giá một cách chính xác và cụ thể từng
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, các Kiểm toán viên đã xác định được mức độ rủi
ro phát hiện (mà tại Ernst & Young Việt Nam gọi là Rủi ro tổ hợp) có thể chấp nhận
được để đảm bảo một mức độ tin cậy nhất định cho các Báo cáo Tài chính đã được
kiểm toán.
Đây là một biện pháp đánh giá khá chặt chẽ, với việc đi từ tổng quát đến chi
tiết, các kiểm toán viên sẽ giảm bớt được việc bỏ sót các rủi ro phát sinh, tránh tình
trạng không ước lượng mức độ rủi ro làm tăng mức độ rủi ro kiểm toán cho các Báo
cáo Tài chính được kiểm toán của khách hàng.
Tuy nhiên để thực hiện tốt được công việc này thì các Công ty Kiểm toán phải
13
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
xây dựng cho mình được kế hoạch kiểm toán thật chi tiết, chặt chẽ và có tính khả thi
cao, đồng thời người thực hiện việc lập kế hoạch này phải là người có kinh nghiệm
chuyên môn, có cái nhìn tổng quát về cuộc kiểm toán.
• Từ việc tìm hiểu việc thực hiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán đã được
thiết kế của Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam
• Những người được giao nhiệm vụ thực hiện quy trình
Đây là một quy trình có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mọi cuộc kiểm

toán, do đó các công ty luôn có những quy định về những người được phép thực hiện
công việc này. Ngay cả trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 cũng đã khẳng
định “Kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát
nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán
thích hợp, có hiệu quả. Kiểm toán viên phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên môn
của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm
các rủi ro kiểm toán xuống thấp tới mức có thể chấp nhận được.”
Tại Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam, quy trình đánh giá rủi ro kiểm
toán không được giao cho các kiểm toán viên mới mà luôn do các kiểm toán viên lâu
năm, có kinh nghiệm như Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc Kiểm toán,
các kiểm toán viên cao cấp…thực hiện bởi đây là một công việc đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong mỗi cuộc kiểm toán, nó quyết định việc thiết kế các thủ tục kiểm
toán được triển khai trong giai đoạn thực hiện kiểm toán và kết quả của cuộc kiểm
toán, đồng thời đây cũng là một công việc chủ yếu dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm
làm việc của người thực hiện. Nếu việc này được giao cho một kiểm toán viên thiếu
kinh nghiệm thì nguy cơ mức độ rủi ro tiềm tàng cũng như rủi ro kiểm soát của khách
hàng sẽ không được đánh giá ở mức thích hợp, như vậy thì mức độ rủi ro trên Báo
cáo Tài chính của khách hàng do Ernst & Young Việt Nam kiểm toán sẽ tăng lên, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín lâu năm của Công ty.
Một ưu điểm nổi bật trong việc thực hiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán do
Ernst & Young toàn cầu thiết kế đó là có sự tham gia của nhiều kiểm toán viên để
thực hiện đánh giá. Đây là một biện pháp nhằm tăng tính khách quan trong việc đánh
giá bởi đánh giá rủi ro là một công việc mang nặng tính phán xét chủ quan của người
14
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
thực hiện. Nếu công việc này chỉ được giao cho một kiểm toán viên thì những ý kiến
người đó đưa ra có thể chỉ mang tính một chiều, không thể hiện được đầy đủ những
rủi ro tồn tại ở khách hàng. Nhận biết được điều này, Ernst & Young Việt Nam
thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận giữa các kiểm toán viên có kinh nghiệm
trong giai đoạn đầu của quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán cho khách hàng ở phần

lập kế hoạch kiểm toán. Tại những buổi thảo luận ấy, các kiểm toán viên sẽ nêu ra ý
kiến của mình về những rủi ro có thể tồn tại ở khách hàng ở từng lĩnh vực cụ thể. Đặc
biệt với những khách hàng đã thực hiện kiểm toán năm trước thì sẽ có sự truyền đạt
những rủi ro nhận thấy trong quá trình kiểm toán của các kiểm toán viên đã thực hiện
kiểm toán khách hàng đó vào năm trước cho những kiểm toán viên thực hiện kiểm
toán năm nay. Đây là những đánh giá mang tính nền tảng cho các kiểm toán viên thực
hiện việc đánh giá rủi ro kiểm toán trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán cho khách
hàng. Cùng với những ý kiến đa dạng về những rủi ro trong quá trình kiểm toán
khách hàng do các kiểm toán viên đóng góp, Ernst & Young Việt Nam luôn đảm bảo
một sự chính xác nhất định trong việc đánh giá rủi ro kiểm toán đối với khách hàng
để đảm bảo rằng các thông tin trên các Báo cáo Tài chính của khách hàng được đóng
dấu kiểm toán của Ernst & Young Việt Nam luôn được đảm bảo một mức độ rủi ro có
thể chấp nhận được khoảng 5% tức là mức độ chính xác sẽ là 95%.
Học được cách thức phân công giao nhiệm vụ thực hiện quy trình đánh giá rủi
ro kiểm toán này, các Công ty kiểm toán trong nước có thể nâng cao chất lượng của
cuộc kiểm toán của mình, giảm thiểu được rủi ro kinh doanh cho chính các KTV và
các Công ty Kiểm toán. Tuy nhiên, đây cũng là một bài toán khó nếu trong Công ty
các nhân viên kiểm toán chưa có được trình độ và chuyên môn nghiệp vụ cao, điều
này đòi hỏi các công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông
qua đào tạo…
• Linh hoạt trong việc áp dụng quy trình cho các khách hàng khác nhau
Mặc dù có những quy định mang tính bắt buộc trong việc thực hiện quy trình
đánh giá rủi ro kiểm toán đối với các khách hàng, nhưng Chuẩn mực cũng có quy
định về rủi ro kiểm toán trong đơn vị có quy mô nhỏ: “…Trường hợp công việc kiểm
soát nội bộ bị giới hạn bởi việc không phân chia nhiệm vụ thì ý kiến của kiểm toán
viên về báo cáo tài chính phải hoàn toàn dựa trên bằng chứng thu thập từ thử nghiệm
cơ bản.”
15
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
Theo hướng đó, tuy Ernst & Young Việt Nam luôn áp dụng cùng một quy trình

kiểm toán nói chung và một quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán nói riêng cho tất cả
các khách hàng mà công ty thực hiện kiểm toán nhưng Công ty không áp dụng một
cách máy móc. Đối với khách hàng, công ty luôn có những tìm hiểu kỹ lưỡng về
khách hàng để có những thủ tục đánh giá cho phù hợp. Đồng thời, công ty cũng luôn
có sự cân nhắc giữa chi phí bỏ ra và những lợi ích thu lại khi thực hiện các công đoạn
đánh giá rủi ro kiểm toán với mỗi khách hàng. Nếu nhận thấy những thủ tục đánh giá
được áp dụng vừa mất chi phí, vừa không mang lại những kết quả như mong muốn
thì các kiểm toán viên sẽ bỏ qua công đoạn đó với điều kiện việc làm này không làm
ảnh hưởng đến kết quả của việc đánh giá rủi ro kiểm toán mà các kiểm toán viên
đang thực hiện. Cụ thể là đối với những Công ty có quy mô nhỏ, nếu xét thấy ngành
nghề hoạt động của khách hàng không mang quá nhiều rủi ro thì việc tìm hiểu khách
hàng sẽ được giảm bớt, hay đối với những khách hàng mà có hệ thống công nghệ
thông tin đơn giản, không quá phức tạp thì công đoạn tìm hiểu mức độ phức tạp của
hệ thống công nghệ thông tin có thể sẽ không được thực hiện bởi các nhân viên
chuyên về kiểm tra công nghệ thông tin của Ernst & Young Việt Nam mà sẽ do các
kiểm toán viên thực hiện trong các công đoạn tiếp theo.
Tuân thủ theo quy định này sẽ đảm bảo cho việc đánh giá rủi ro kiểm toán
trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính của các Công ty Kiểm toán
đạt được kết quả xác đáng, vừa tiết kiệm được chi phí và thời gian cũng như nguồn
lực cho các thử nghiệm kiểm toán không cần thiết. Từ đó, các quy trình kiểm toán sẽ
mang lại hiệu quả cao hơn, mà vẫn đảm bảo được tính chính xác của những đánh giá
nêu ra, giảm thiểu rủi ro trên báo cáo tài chính của khách hàng.
Để có thể đạt được yêu cầu này thì các Công ty Kiểm toán phải thật sự linh
hoạt trong việc lập kế hoạch kiểm toán, đặc biệt là các kiểm toán viên cần phải có sự
am hiểu sâu sắc về khách hàng như về đặc điểm lĩnh vực kinh doanh, sự ảnh hưởng
của các nhân tố bên trong và bên ngoài đến doanh nghiệp…để từ đó có thể phân loại
được khách hàng nhằm thiết kế được những chương trình kiểm toán thích hợp cho
từng khách thể kiểm toán.
16
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B

KẾT LUẬN
Quy trình đánh giá rủi ro là một quy trình rất quan trọng, nó quyết định mức độ
rủi ro phát hiện mà các kiểm toán viên cần phải duy trì trong suốt cuộc kiểm toán
nhằm đảm bảo một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được về các thông tin trên Báo
cáo Tài chính sau khi được kiểm toán của khách hàng. Dựa vào những đánh giá về
rủi ro phát hiện đối với mỗi cơ sở dẫn liệu của mỗi khoản mục mà các kiểm toán viên
sẽ có những thủ tục kiểm toán thích hợp nhằm phát hiện được những sai sót, gian lận
xuất hiện trên các Báo cáo Tài chính của khách hàng.
Thông qua việc tìm hiểu quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm toán cho Ngân hàng XYZ (khách hàng cũ) và Công ty ABC (khách
hàng mới) do Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam thực hiện, ta đã thấy được sự
khác biệt trong quy trình đánh giá rủi ro áp dụng cho mỗi khách hàng của công ty để
từ đó nhận biết được sự coi trọng việc đánh giá rủi ro trong mỗi cuộc kiểm toán của
công ty, đồng thời ta cũng nhận ra được những điểm mạnh trong việc thực hiện quy
trình kiểm toán nói chung và quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán nói riêng của Ernst
& Young Việt Nam. Cũng chính từ những quy trình được thiết kế chặt chẽ và được
các kiểm toán viên thực hiện hiệu quả như vậy mà các Báo cáo Tài chính của các
khách hàng do Ernst & Young Việt Nam thực hiện luôn được đảm bảo một mức độ
chính xác rất cao, điều này đã làm nên vị thế của Ernst & Young Việt Nam trên thị
trường kiểm toán Việt Nam và Thế giới.
Em hi vọng qua luận văn tốt nghiệp của mình, người đọc sẽ có được cái nhìn
chi tiết về quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
của Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam.Tuy nhiên do thời gian và kiến thức có
hạn nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót,em rất mong nhận được
sự chỉ bảo,góp ý của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Cô giáo.Ths.Tạ Thu Trang đã
giúp em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội ngày 05 tháng 6 năm 2008
Sinh viên: Nghiêm Diệu Oanh

17
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
PHỤ LỤC
BẢNG CÂU HỎI VỀ NHỮNG RỦI RO PHÁT SINH
(Áp dụng cho Ngân hàng XYZ)
1. Có những thay đổi đáng kể nào về người ký thư giới thiệu của ngân hàng
hay không?
Có Không
2. Chứng khoán của ngân hàng có được mua bán công khai không? Hay nói
cách khác, ngân hàng có giải trình công khai các chứng khoán ngân hàng
nắm giữ hay không? (như chứng khoán của các đơn vị chính quyền, các tổ
chức tài chính, các công ty bảo hiểm, các tổ chức công cộng và các tổ chức từ
thiện)
Có Không
3. Những nhân viên đã từng làm cho Ernst & Young đã chuyển sang ngân
hàng XYZ làm trong vòng năm 5năm lại đây có giữ những vị trí quan trọng
về quản lý, kế toán và lập báo cáo tài chính không? (như: Thành viên ban
quản trị, Chủ tịch, Giám đốc điều hành, Giám đốc tài chính, Kế toán
trưởng, Nhân viên ban Kiểm soát, ban Tài chính, thành viên của bộ phận
Kiểm toán nội bộ, người Cố vấn…)?
Có Không
4. Có những thay đổi đáng kể nào từ lần gần nhất thực hiện đánh giá tiếp tục
chấp nhận khách hàng về hoạt động kinh doanh (như: khách hàng, sản
phẩm, vận chuyển hàng hóa, đơn đặt hàng…), về môi trường kinh tế và
ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, những yêu cầu luật pháp và các nguyên tắc
trong những hoạt động của Ngân hàng?
Có Không
18
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
5. Những yếu tố rủi ro sau đây có được đề cập không?

I. Quan điểm, thái độ quản lý của ngân hàng
A. Có mối quan hệ không thuận lợi với các tổ
chức bên ngoài.
Có Không
B. Có mối quan hệ không thiện chí với các cán
bộ,nhân viên trong ngân hàng.
Có Không
C. Áp dụng đối với các khách hàng là những tổ
chức công cộng, Giám đốc điều hành/Người
sáng lập luôn coi công ty là của cá nhân.
Có Không Không áp
dụng
D. Giám đốc điều hành độc đoán.
Có Không
E. Ban quản trị có phong cách sống và làm việc
không tốt.
Có Không
II. Môi trường nội bộ
A. Những hành động và thái độ của những người
quản lý làm xuất hiện những ý kiến và phản
ứng của các nhân viên về tính chính trực của
họ.
Có Không
B. Ngân hàng cố gắng giới hạn phạm vi kiểm toán
(trực tiếp hay ép buộc mức phí không hợp lý)
hoặc tìm mọi cách để áp đặt một thời hạn hoàn
thành không khả thi.
Có Không
C. Đặt tầm quan trọng thái quá đối với việc dự
đoán lợi nhuận thu được trên 1 cổ phiếu hay

mức giá trị thị trường của chứng khoán vốn.
Có Không
D. Có những thay đổi đáng kể về ban giám đốc, tư
vấn pháp luật hay tình hình tranh chấp.
Có Không
E. Có sự cơ cấu lại hay thay thế không mong
muốn trong bộ máy quản lý, có sự thay thế liên
tiếp trong ban quản trị hay có sự thay đổi
không cần thiết trong cơ cấu quản lý phức tạp.
Có Không
19
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
F. Áp lực thái quá đối với những nhà quản lý mới
khiến họ báo cáo kết quả tốt hơn trên thực tế họ
đã làm.
Có Không
G. Những mô hình ước lượng tài chính bị xác định
sai nghiêm trọng hay bị đánh giá một cách
đáng nghi ngờ bởi ban quản trị-những người
kiểm soát việc lập báo cáo tài chính của ngân
hàng.
Có Không
H. Đã từng hoàn thành những nghiệp vụ nổi bật và
bất thường nhanh chóng trước khi kết thúc mỗi
quý hay năm tài chính.
Có Không
I. Có kế hoạch bồi thường cho những kỳ vọng
thái quá trên báo cáo lợi nhuận.
Có Không
J. Ngân hàng là bên phải chi trả nhiều nhất trong

những thị trường của mình.
Có Không
III. Điều kiện tài chính
A. Báo cáo kiểm toán gần nhất hay một sự suy xét
nghiêm túc có đề cập đến một ý kiến từ chối
hay một đoạn thuyết minh miêu tả sự không
chắc chắn trong việc tiếp tục tồn tại của ngân
hàng.
Có Không
B. Báo cáo kiểm toán tiếp theo hay những xét
đoán nghiêm túc chắc chắn sẽ đề cập đến đến
một ý kiến từ chối hay một đoạn thuyết minh
miêu tả sự không chắc chắn trong việc tiếp tục
tồn tại của ngân hàng.
Có Không
C. Lượng vốn làm nền tảng cho phạm vi hoạt
động của ngân hàng không thỏa đáng.
Có Không
Giải thích: Bởi tỷ lệ vốn tương
ứng thấp hơn 8%.
D. Lượng vốn lưu động không đầy đủ hay giảm
bớt các khoản công nợ nhằm lấy lòng tin.
Có Không
20
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
E. Có tình hình nợ nhiều hoặc điều kiện đòn bầy
nặng.
Có Không
Giải thích: Vì là một ngân hàng
nên khách hàng XYZ có tỷ lệ nợ

rất cao.
F. Những thay đổi bất lợi trong việc đánh giá và
phân loại những vấn đề đáng chú ý về nợ của
các tổ chức tín dụng như Moody’s hay
Standard &Poors.
Có Không
G. Khó khăn tăng lên trong việc thỏa mãn hiệp
định giới hạn cho vay.
Có Không
H. Những hợp đồng nợ chứ đựng sự thay đổi
trọng yếu bất lợi hay những điều khoản thúc ép
mang tính chủ quan.
Có Không
I. Đã có lịch sử của việc hoạt động thua lỗ.
Có Không
J. Có sự giảm giá trị đáng kể của lợi nhuận cả
trong lịch sử và trong dự án.
Có Không
K. Lợi nhuận thu được có chất lượng kém và
không ổn định.
Có Không
L. Tăng trưởng hay tích trữ đột biến
Có Không
IV. Các chức năng tài chính và kế toán
A. Xuất hiện sự tranh chấp có liên quan đến kế
toán hay thực tiến của việc lập báo cáo tài
chính.
Có Không
B. Có sự trình bày lại của các báo cáo tài chính
năm trước để chỉnh sửa lại những sai sót phát

hiện được trên thực tế vẫn còn tồn tại trên các
báo cáo tài chính đã được phát hành ban đầu.
Có Không
C. Có sự phê phán của công chúng liên quan đến Có Không
21
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
kế toán, đến việc lập báo cáo tài chính hay thực
tế hoạt động kinh doanh của ngân hàng hay của
các công ty trong một tập đoàn hoặc trong
những ngành nghề mà ngân hàng có hoạt động
đáng kể.
D. Số lượng nhân viên kế toán không đủ, không
có kinh nghiệm, được đào tạo không bài bản
hay có sự thay đổi liên tiếp về mặt nhân sự.
Có Không
E. Thiếu sự hợp tác giữa ban Kế toán và ban Công
nghệ thông tin.
Có Không
F. Phụ thuộc vào một số ít cá nhân, do kết quả của
những cuộc khủng hoảng liên miên và mất
kiểm soát về kế toán.
Có Không
G. Sai lầm và chậm trễ trong việc lập báo cáo tài
chính gồm cả báo cáo tài chính giữa niên độ.
Có Không
H. Kiểm soát nội bộ yếu kém.
Có Không
I. Không quan tâm hay không có khả năng chỉnh
sửa những thiếu sót hay những điều kiện được
thông báo bao gồm cả sự yếu kém trọng yếu

của kiểm soát nội bộ.
Có Không
J. Sử dụng những nguyên tắc kế toán không ổn
định.
Có Không
K. Có những phán xét hoàn toàn chủ quan trong
suốt thời gian xác định lại nguồn gốc thu nhập,
chi phí, một hay một chuỗi những nghiệp vụ
nổi bật.
Có Không
L. Có một số lượng lớn những hoạt động ghi sổ
thủ công trong quá trình theo dõi tài chính.
Có Không
M. Những kiểm toán viên hàng năm thực hiện
kiểm toán cho ngân hàng gặp rắc rối.
Có Không
22
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
N. Có sự trục trặc của các kiểm toán viên nói
chung khi không thể đưa ra phán quyết hay
trong việc thực hiện phân chia trong kiểm toán
một cách thận trọng dựa vào những doanh thu
hay tài sản được kiểm toán.
Có Không
O. Trong báo cáo kiểm toán những năm trước có
xuất hiện những đoạn thuyết minh hay loại trừ.
Có Không
Giải thích: Vào năm 2004, báo
cáo kiểm toán đã có một số ý
kiến loại trừ. Năm 2005, ý kiến

kiểm toán được đưa ra về báo
cáo tài chính theo Chuẩn mực kế
toán Việt Nam là chấp nhận toàn
phần. Và chỉ có một ý kiến loại
trừ liên quan đến trái phiếu
chính phủ trên báo cáo tài chính
theo Chuẩn mực các tổ chức tín
dụng Quốc tế.
V. Những bên liên quan
A. Có những giao dịch với những bên liên quan
bao gồm cả những bên có liên kết với các thành
viên của Hội đồng Quản trị của ngân hàng,
những người có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt
động cũng như vị trí tài chính của Ngân hàng.
Có Không
B. Có phụ thuộc vào các bên liên quan về tài
chính.
Có Không
C. Có những giao dịch với các bên liên quan vào
cuối năm hay cuối mỗi quý có thể góp phần
duy trì xu hướng hoạt động của ngân hàng.
Có Không
D. Các kiểm toán viên khác có quan hệ với các
bên liên quan hay một số bên liên quan chưa
được kiểm toán.
Có Không
VI. Ngành nghề và lĩnh vực hoạt động
A. Chủ thể kiểm toán không có một lĩnh vực kinh Có Không
23
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B

doanh có triển vọng thuận lợi lâu dài.
B. Những hoạt động nổi bật của ngân hàng tại
quốc gia ngân hàng thực hiện giao dịch là đáng
nghi ngờ.
Có Không
C. Có những điều kiện kinh tế không thuận lợi đối
với những ngành nghề hay những khu vực mà
ngân hàng và các khách hàng của mình hoạt
động.
Có Không
D. Những ngành nghề của ngân hàng có tỷ lệ phá
sản cao hay có sự phụ thuộc về mặt kinh tế vào
một hay nhiều công ty hoạt động trong ngành
nghề có tỷ lệ phá sản cao.
Có Không
E. Có những giao dịch phức tạp hay những sự
kiện đổi mới gồm cả việc phân chia thuế thu
nhập, khiến cho việc đưa ra những đánh giá về
tính hiệu quả của chúng gặp nhiều khó khăn
hay mang tính chủ quan cao.
Có Không
F. Một công ty mới yêu cầu một kết quả tài chính
đẹp nhằm thu hút được tài trợ cho những cô
gắng trong tương lai của công ty.
Có Không
G. Có những thay đổi trọng đại trong hoạt động
kinh doanh của chủ thể.
Có Không
H. Công ty không có sự quản lý rõ ràng về tính
liêm chính, cũnh như chưa có một cán bộ kế

toán tài chính, người có sự hiểu biết về kinh
doanh và những quyết định được ban quản lý
hoạt động đưa ra.
Có Không
I. Tình hình tài chính cho thấy đã có hoạt động
gian lận hay những hoạt động vi phạm luật
pháp và các nguyên tắc chung phát sinh
Có Không
J. Có sự tranh cãi giữa ban quản trị với các cổ Có Không
24
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B
đông hay giữa đa số và thiểu số cổ đông về
những vấn đề có thể ảnh hưởng tới các Báo cáo
tài chính.
K. Có sự tranh cãi để đề nghị về khả năng phù hợp
là ngân hàng có thể ngừng hoạt động.
Có Không
L. Có sự phụ thuộc kinh tế vào một hay một số
nhà cung cấp và khách hàng.
Có Không
25
Nghiêm Diệu Oanh Lớp: Kiểm toán 46B

×