Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.67 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XÂY LẮP ẢNH HƯỞNG
TỚI KẾ TOÁN CHI SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY
LẮP
1.1.1 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất
công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Một
bộ phận lớn của thu nhập quốc dân, của quỹ tích luỹ cùng với vốn đầu tư của
nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về kinh
tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra
sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Trong quá trình đầu tư XDCB nhằm tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho nền
kinh tế quốc dân, các tổ chức xây lắp nhận thầu giữ vai trò quan trọng. Hiện
nay, ở nước ta đang tồn tại các tổ chức xây lắp như: Tổng công ty, công ty , xí
nghiệp, đội xây dựng… thuộc các thành phần kinh tế. Tuy các đơn vị này khác
nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng các đơn vị này đều là những
tổ chức nhận thầu xây lắp.
1.1.2 Đặc điểm của sản phẩm xây lắp
Sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng biệt khác với ngành sản xuất khác và
có ảnh hưởng đến tổ chức kế toán.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc… có quy
mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây
lắp lâu dài… Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm
xây lắp nhất thiết phải theo dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công) quá trình
sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời
để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với


chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không
thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có
trước khi xây dựng thông qua hợp đồng giao nhận thầu…).
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe
máy, thiết bị thi công, người lao động…) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản
phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư
rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư
hỏng…
Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn
giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp
về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai
đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc
thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như
nắng, mưa, lũ lụt… Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt
chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán: các nhà
thầu phải có trách nhiệm bảo hành công trình (chủ đầu tư giữ lại một tỷ lệ nhất
định trên giá trị công trình, khi hết thời hạn bảo hành công trình mới trả lại cho
đơn vị xây lắp).
Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Công tác kế toán vừa
phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh
nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh
nghiệp xây lắp.
1.1.3 Đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý doanh
nghiệp xây lắp
Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp phổ biến theo phương
thức “khoán gọn” các công trình, hạng mục công trình, khối lượng hoặc công
việc cho các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp (đội, xí nghiệp…). Trong giá
khoán gọn bao gồm đầy đủ các loại chi phí: chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ,
chi phí tiền lương, chi phí thi công và chi phí chung cho bộ phận khoán.

Địa bàn hoạt động kinh doanh rộng lớn, hoạt động mang tính lưu động.
Hiện nay, ngành XDCB áp dụng 3 hình thức chọn nhà thầu: đấu thầu rộng rãi,
đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu. Mỗi công trình được xây dựng và quản lý
bằng một thiết kế dự toán riêng.
Nhà trúng thầu tiến hành thi công các công trình, hạng mục công trình
theo thiết kế kỹ thuật, bàn giao đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng công trình.
Do đó, công tác kế toán phải ghi chép đầy đủ chi phí và giá thành sản phẩm để
cung cấp thông tin về số liệu chính xác phục vụ việc quản lý doanh nghiệp đạt
hiệu quả cao.
1.2 SỰ CẨN THIẾT CỦA KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.2.1 Chi phí sản xuất xây lắp
1.2.1.1 Khái niệm
Chi phí sản xuất của đơn vị xây lắp là toàn bộ chi phí về lao động sống và
lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên giá thành
của sản phẩm xây lắp.
1.2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất xây lắp
Việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ đơn thuần là quản lý số liệu phản
ánh tổng hợp chi phí mà phải dựa trên cả các yếu tố chi phí riêng biệt để phân
tích toàn bộ chi phí sản xuất của từng công trình, hạng mục công trình hay theo
nơi phát sinh chi phí. Dưới các góc độ xem xét khác nhau, theo những tiêu chí
khác nhau thì chi phí sản xuất cũng được phân loại theo các cách khác nhau để
đáp ứng yêu cầu thực tế của quản lý và hạch toán.
o Theo khoản mục tính giá thành, chi phí ở đơn vị xây lắp gồm:
• Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVL TT): là chi phí của các vật liệu chính,
vật liệu phụ, vật kết cấu, giá trị thiết bị kèm theo vật kiến trúc… cần thiết để
tham gia cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp.
• Chi phí nhân công trực tiếp: là các chi phí tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp
lương của công nhân trực tiếp tham gia xây lắp công trình. Không bao gồm các
khoản trích theo tiền lương kinh phí công đoàn (KPCĐ), bảo hiểm xã hội (BHXH),

bảo hiểm y tế (BHYT) của công nhân trực tiếp xây lắp.
• Chi phí sử dụng máy thi công: là chi phí cho các máy thi công nhằm thực hiện
khối lượng công tác xây, lắp bằng máy. Chi phí sử dụng máy thi công bao gồm
chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
Chi phí thường xuyên sử dụng máy thi công bao gồm: lương chính, lương
phụ của của công nhân điều khiển máy, phục vụ máy…, chi phí vật liệu, chi phí
công cụ dụng cụ (CCDC), chi phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ), chi phí dịch
vụ mua ngoài, chi phí khá bằng tiền…
Chi phí tạm thời sử dụng máy thi công bao gồm: chi phí sửa chữa lớn
máy thi công (đại tu, trung tu…), chi phí công trình tạm thời cho máy thi công
(lều, lán, bệ, đường ray chạy máy…). Chi phí tạm thời có thể phát sinh trước
(được hạch toán vào TK 142) sau đó được phân bổ dần vào bên Nợ TK 623.
Hoặc phát sinh sau nhưng phải tính trước vào chi phí xây lắp trong kỳ (do liên
quan tới việc sử dụng thực tế máy thi công trong kỳ), trường hợp này phải tiến
hành trích trước chi phí, sử dụng TK 335 (ghi Nợ TK 623, Có TK 335).
• Chi phí sản xuất chung: là các chi phí sản xuất của đội, công trường xây dựng
gồm: lương của nhân viên quản lý đội xây dựng, các khoản trích theo tiền lương
theo tỷ lệ quy định (19%) của nhân viên quản lý đội và công nhân trực tiếp tham
gia xây lắp, chi phí khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội, chi phí
vật liệu, chi phí CCDC và các chi phí khác phát sinh trong kỳ liên quan đến hoạt
động của đội…
Cách phân loại này phục vụ yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định
mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, lập định mức chi phí sản xuất và kế
hoạch giá thành sản phẩm. Hơn nữa, căn cứ vào công dụng kinh tế và địa điểm
phát sinh chi phí để xác định sự biến động từng khoản mục đối với giá thành
sản phẩm, nhằm mục tiêu hạ giá thành sản phẩm. Do đặc điểm của ngành
XDCB là tập hợp chi phí theo từng công trình, hạng mục công trình nên phương
pháp này được áp dụng phổ biến trong doanh nghiệp xây lắp.
o Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí

Để phục vụ cho việc tập hợp và quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban
đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh,
chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và
phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự
toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia
thành các yếu tố:
• Chi phí nguyên liệu, vật liệu : gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật
liệu, phục tùng thay thế, công cụ dụng cụ ...sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
• Chí phí nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất.
• Chi phí nhân công: tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương phải trả cho
công nhân viên chức.
• Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương
và phụ cấp phải trả cho cán bộ công nhân viên.
• Chi phí khấu hao TSCĐ: tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả
TSCĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
• Chi phí dịch vụ mua ngoài: toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản
xuất kinh doanh.
• Chi phí bằng tiền khác: toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các
yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo cách này, doanh nghiệp xác định được kết cấu tỷ trọng của từng loại
chi phí trong tổng chi phí sản xuất để lập thuyết minh báo cáo tài chính đồng
thời phục vụ cho nhu cầu của công tác quản trị trong doanh nghiệp, làm cơ sở
để lập mức dự toán cho kỳ sau.
1.2.2 Giá thành sản phẩm xây lắp
1.2.2.1 Khái niệm
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao
động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan
tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành.
Giá thành sản xuất sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, phản
ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực

sự chi ra cho sản xuất. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh
được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất và các khoản
chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
Chỉ tiêu giá thành nếu được xác định một cách chính xác, trung thực có
thể giúp cho các doanh nghiệp cũng như Nhà nước có cơ sở để xem xét, đánh
giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra những biện pháp,
đường lối thích hợp cho từng giai đoạn cụ thể.
Giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền
thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp đã
bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu vào
mới chỉ là đáp ứng yêu cầu của tái sản xuất giản đơn. Trong khi đó mục đích
chính của cơ chế thị trường là tái sản xuất mở rộng tức là giá tiêu thụ hàng hóa
sau khi bù đắp chi phí đầu vào vẫn phải bảo đảm có lãi. Do đó, việc quản lý,
hạch toán công tác giá thành sao cho vừa hợp lý, chính xác vừa bảo đảm vạch ra
phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm có vai trò vô cùng quan trọng.
1.2.2.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Có rất nhiều cách phân loại giá thành sản phẩm. Tùy theo tiêu chí lựa
chọn mà giá thành sản phẩm có thể được phân loại thành các trường hợp sau:
o Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành
Theo cách phân loại này thì chi phí được chia thành giá thành dự toán, giá
thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế.
• Giá thành dự toán: là chỉ tiêu giá thành được xây dựng trên cơ sở thiết kế
kỹ thuật đã được duyệt, các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước quy định,
tính theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực thi công và phân tích định mức.
Căn cứ vào giá trị dự toán, ta có thể xác định được giá thành của sản
phẩm xây lắp theo công thức:
Giá thành dự toán
sản phẩm xây lắp
=
Giá trị dự toán

sản phẩm xây lắp
- Lãi định mức
Trong đó
- Lãi định mức trong XDCB được Nhà nước quy định trong từng
thời kỳ
- Giá trị dự toán sản phẩm xây lắp được xác định dựa vào định mức
đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền và dựa trên mặt bằng giá cả của
thị trường.
• Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh
doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí
của kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu này được xác lập trên cơ sở giá thành dự toán gắn liền
với điều kiện cụ thể, năng lực thực tế của từng doanh nghiệp trong một thời kỳ
nhất định.
Giá thành kế
hoạch sản
phẩm xây lắp
=
Giá thành dự
toán sản phẩm
xây lắp
-
Mức hạ giá thành
dự toán
+
Chênh lệch
định mức
Giá thành kế hoạch là căn cứ để so sánh, phân tích tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành, là mục tiêu phấn đấu hạ giá thành của doanh nghiệp.
• Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức
cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với

giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến
và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xây dựng
trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong
kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi
phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực
hiện kế hoạch giá thành.
• Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết
thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh trong
quá trình sản xuất sản phẩm.
Các phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác
định được các nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó,
điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
o Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá
thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.
• Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản
xuất. Đối với các đơn vị xây lắp giá thành sản xuất gồm chi phí nguyên vật liệu,
chi phí nhân công, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung.
• Giá thành tiêu thụ: (hay còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh
toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức:
Giá thành
toàn bộ của
sản phẩm
=
Giá thành sản
xuất của sản
phẩm
+

Chi phí quản
lý doanh
nghiệp
+
Chi phí
bán hàng
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả
kinh doanh của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí
bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ
nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
1.2.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt biểu hiện của quá trình
sản xuất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giốn nhau về chất vì đều là những
hao phí về lao động sống, lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá
trình sản xuất. Tuy vậy, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không
giống nhau về lượng do phạm vi giới hạn xác định chi phí và giá thành không
trùng nhau. Chi phí sản xuất phản ánh phản ánh hao phí sản xuất còn giá thành
sản phẩm phản ánh kết quả sản xuất.
Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn giá
thành sản phẩm lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ hoàn thành.
Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ bao gồm chi phí sản để sản xuất
những sản phẩm hoàn thành mà còn bao gồm chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ
và sản phẩm hỏng, còn giá thành lại không bao gồm chi phí sản xuất của sản
phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại bao gồm chi phí sản xuất
của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Chi phí sản xuất là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành sản phẩm. Sự tiết
kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến
việc hạ hay tăng giá thành sản phẩm. Quản lý giá thành phải gắn liền với quản
lý chi phí sản xuất.

Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành:
Chi phí sản xuất dở dang đầu
kì
Chi phí sản xuất phát sinh trong kì
Tổng giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành
(được bàn giao, nhập kho…)
Chi phí sản xuất dở dang
cuối kì
Qua sơ đồ ta thấy:
Tổng giá
thành sản
phẩm xây lắp
=
Chi phí sản
xuất xây lắp dở
dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất
xây lắp phát sinh
trong kỳ
-
Chi phí sản
xuất xây lắp dở
dang cuối kỳ
1.2.4 Ý nghĩa và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp
1.2.4.1 Ý nghĩa của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp
Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chính xác, hợp lý và tính đúng, tính đủ
giá thành công trình xây lắp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí,

giá thành xây dựng, trong việc kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của chi phí phát
sinh ở doanh nghiệp nói chung và ở các tổ đội xây dựng nói riêng. Với chức
năng là ghi chép, tính toán, phản ánh và giám đốc thường xuyên liên tục sự biến
động của vật tư, tài sản, tiền vốn, kế toán sử dụng thước đo hiện vật và thước đo
giá trị để quản lý chi phí. Thông qua số liệu do kế toán tập hợp chi phí, tính giá
thành, người quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của
từng công trình, hạng mục công trình của quá trình sản xuất kinh doanh. Qua
đó, nhà quản trị có thể phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình
hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện
pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất
lượng là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường.
Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể
dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần giá thành thì giá thành lại chịu
ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Do vậy, tổ chức tốt
công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp để xác định
nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành cũng như lượng giá trị các
yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm hoàn thành là yêu cầu rất cần thiết
đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng.
Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là tiền đề để xác định kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng lãi giả, lỗ thật như một số
năm trước đây. Khi nền kinh tế đang trong thời kế hoạch hoá tập trung, các
doanh nghiệp hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh, vật tư, tiền vốn do cấp trên cấp,
giá thành là giá thành kế hoạch định sẵn. Vì vậy, công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm chỉ mang tính hình thức. Chuyển sang nền kinh
tế thị trường, các doanh nghiệp được chủ động hoạt động sản xuất kinh doanh
theo phương hướng riêng và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của
mình. Để có thể cạnh tranh được trên thị trường, công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp còn phải thực hiện đúng theo những
quy luật khách quan.Như vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản

phẩm xây lắp là phần không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp xây lắp
khi thực hiện chế độ kế toán, hơn nữa là nó có ý nghĩa to lớn và chi phối chất
lượng công tác kế toán trong toàn doanh nghiệp.
1.2.4.2 Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây dựng nên
việc quản lý về đầu tư xây dựng rất khó khăn phức tạp, trong đó tiết kiệm chi
phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối quan tâm hàng đầu,
là nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp. Hiện nay, trong lĩnh vực xây
dựng cơ bản chủ yếu áp dụng cơ chế đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng. Vì vậy,
để trúng thầu, được nhận thầu thi công thì doanh nghiệp phải xây dựng được giá
thầu hợp lý, dựa trên cơ sở đã định mức đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước
ban hành, trên cơ sở giá thị trường và khả năng của bản thân doanh nghiệp. Mặt
khác, phải đảm bảo kinh doanh có lãi. Để thực hiện các yêu cầu đòi hỏi trên thì
cần phải tăng cường công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí giá
thành nói riêng, trong đó trọng tâm là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành đảm bảo phát huy tối đa tác dụng của công cụ kế toán đối với quản lý
sản xuất.
Trước yêu cầu đó, nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm xây lắp là:
- Phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, chi phí nhân
công, chi phí sử dụng máy thi công và các chi phí dự toán khác, phát hiện kịp
thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch,
các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng…trong sản xuất để đề xuất những biện
pháp ngăn chặn kịp thời.
- Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp, các sản phẩm lao vụ hoàn
thành của doanh nghiệp.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp theo
từng công trình, hạng mục công trình từng loại sản phẩm lao vụ, vạch ra khả

năng và các biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý và có hiệu quả.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công
tác xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng thi công
dở dang theo nguyên tắc quy định.
- Đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở từng công
trình, hạng mục công trình, từng bộ phận thi công tổ đội sản xuất…trong từng
thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo cáo về chi phí sản xuất, tính giá thành công
trình xây lắp, cung cấp chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản
xuất và giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TRONG DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP
1.3.1 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp

×