Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CPSX VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHIỆP TÀU THỦY AN ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.55 KB, 20 trang )

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CPSX VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG NGHIỆP TÀU THỦY AN ĐỒNG
2.1. Đánh giá khái quát tình hình Kế toán CPSX và tính giá thành sản
phẩm tại Công ty Cổ phần CNTT An Đồng
Công ty Cổ phần CNTT An Đồng trong quá trình hình thành và phát
triển bước đầu với những nỗ lực phấn đấu của ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ
công nhân viên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Với hoạt động chủ
yếu là đóng mới và sửa chữa các phương tiện vận tải thuỷ, Công ty đã hoạt
động tích cực, cố gắng tạo uy tín trên thị trường và góp phần tạo công ăn việc
làm ổn định đời sống cho nhiều người lao động.
Qua quá trình thực tập tại Công ty với việc nghiên cứu chuyên đề:
“Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty
Cổ phần CNTT An Đồng” em mạnh dạn đưa ra những ý kiến đánh giá chung
về Công ty và về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công ty như sau:
2.1.1. Về tình hình tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh
Trước hết, qua việc tìm hiểu Công ty về tình hình tổ chức quản lý kinh
doanh em thấy Công ty đã tạo được một mô hình tổ chức quản lý khá khoa
học và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, bộ máy quản lý hoạt
động khá nhịp nhàng, tất cả giúp cho Giám đốc và Giám đốc điều hành giám
sát sản xuất một cách có hiệu quả. Về cơ sở vật chất kỹ thuật, Công ty được
trang bị máy móc, thiết bị tiên tiến và hiện đại, nhiều dây chuyền sản xuất
tự động đã được Công ty nhập về vừa giúp tăng năng suất lao động vừa
giảm sự vất vả và nguy hiểm cho công nhân trực tiếp tham gia sản xuất.
Đồng thời với việc cải thiện cơ sở vật chất, Công ty còn chăm lo đào tạo
đội ngũ cán bộ công nhân viên vì đây là lực lượng sản xuất quan trọng
nhất. Đội ngũ kỹ sư và cán bộ kỹ thuật của Công ty đều có trình độ
chuyên môn cao, đội ngũ công nhân lành nghề và nhiệt tình lao động.
Ngoài ra, Công ty Cổ phần CNTT An Đồng có ưu điểm trong
phương thức quản lý sản xuất kinh doanh nữa đó là Công ty đã đề ra các
chế độ thưởng phạt cho cán bộ công nhân viên khi hoàn thành tốt công


việc vượt mức kế hoạch đề ra hoặc không hoàn thành công việc và các
chế độ thưởng phạt theo tiến độ hoàn thành thời gian thi công giữa Công
ty với khách hàng. Đây là những biện pháp tốt giúp phát huy tinh thần
làm việc tích cực của cán bộ công nhân viên, giúp Công ty hoàn thành chỉ
tiêu sản xuất, giao hàng đúng thời hạn, nâng cao uy tín với khách hàng.
Đồng thời chính sách này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
thực hiện kịp thời kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Thêm vào đó,
Công ty còn có chính sách khuyến khích công nhân viên tiết kiệm các loại
nguyên vật liệu thừa như tôn, sắt, thép các loại trong quá trình thi công
công trình. Những cán bộ công nhân có sáng kiến hay trong việc tận dụng
những vật liệu thừa sẽ được Công ty có khen thưởng xứng đáng. Việc này
vừa nâng cao tinh thần lao động sáng tạo của người lao động vừa giúp tiết
kiệm được chi phí cho Công ty. Một chính sách tích cực nữa mà Công ty
luôn coi trọng đó là các biện pháp tránh sử dụng các vật liệu gây ô nhiễm
môi trường, đồng thời có biện pháp xử lý an toàn triệt để với những chất
thải do trong qua trình sản xuất của Công ty thải ra để không gây ô nhiễm
môi trường và không làm ảnh hưởng đến cuộc sống dân cư xung quanh.
Bên cạnh những mặt tích cực kể trên, tình hình hoạt động tổ chức
quản lý và sản xuất kinh doanh của Công ty không tránh khỏi có một số
điểm còn hạn chế. Tổ chức các phòng ban chức năng của Công ty vẫn còn
cồng kềnh, số cán bộ và nhân viên quản lý chiếm tới gần 20% trong tổng
số cán bộ công nhân viên của Công ty. Một số phòng ban hoạt động vẫn
chưa thật hiệu quả và tích cực. Ngoài ra, Phòng kế hoạch thị trường của
Công ty chưa có chiến lược Marketing cụ thể để chủ động tìm kiếm nguồn
khách hàng mới mà chỉ dựa vào những khách hàng truyền thống hay
khách hàng do Tổng công ty giới thiệu tới. Do đó, kế hoạch sản xuất kinh
doanh của Công ty dễ rơi vào bị động, phụ thuộc vào nhu cầu của khách
hàng. Quá trình sản xuất của Công ty hầu hết đã được trang bị máy móc
thiết bị hiện đại nhưng vẫn còn một số công đoạn thủ công. Điều này dẫn
đến sự chưa đồng bộ trong lắp đặt và thi công đóng mới tàu. Chính sự

thiếu đồng bộ này có thể dẫn tới khả năng cạnh tranh trên thị trường của
Công ty bị giảm đi so với các Công ty đóng tàu khác đặc biệt là những
công ty đóng tàu có quy mô tương tự như Công ty đóng tàu Thuỷ sản,
Công ty cơ khí 82, Công ty đóng tàu Trung Hải...
2.1.2. Về tổ chức bộ máy kế toán
Bên cạnh những ưu điểm trong việc tổ chức quản lý kinh doanh thì
công tác tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty Cổ phần CNTT An Đồng cũng
có nhiều mặt tích cực. Công ty đã tổ chức mô hình bộ máy kế toán theo
hình thức tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra chỉ đạo và
đảm bảo sự lãnh đạo của kế toán trưởng cũng như sự chỉ đạo kịp thời của
lãnh đạo Công ty với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Với hình
thức tập trung như trên, bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức gọn
nhẹ, công việc và trách nhiệm được phân công rõ ràng theo cách chuyên
môn hoá cho từng phần hành kế toán. Điều này giúp mọi người hiểu rõ
được nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của mình, góp phần nâng cao tính tự
giác, thúc đẩy mọi người hoàn thành tốt, kịp thời và đầy đủ mọi nhiệm vụ
được giao. Hơn nữa, đội ngũ kế toán của Công ty là những kế toán viên có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm và làm việc với tinh thần
trách nhiệm cao. Công ty luôn quan tâm đến việc nâng cao trình độ của
cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty nói chung và trong phòng kế
toán nói riêng bằng cách gửi đi học các lớp đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, mở rộng tầm hiểu biết, đáp ứng kịp thời những
thay đổi của Chế độ kế toán và các quy định khác của Nhà nước.
Tuy nhiên, công tác tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty Cổ phần
CNTT An Đồng vẫn còn một số điểm hạn chế nhất định. Đầu tiên, em
thấy rằng đội ngũ kế toán viên trong Công ty còn hơi mỏng, thiếu một cán
bộ đảm nhiệm công việc thủ quỹ. Chính vì thế nên kế toán tiền mặt tại
Công ty phải kiêm nhiệm cả công việc thủ quỹ. Điều này đã làm cho công
tác kế toán trong Công ty bị vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm. Ngoài
ra, trình độ kế toán viên trong Công ty còn chưa đồng đều nên việc phân

công công tác trong phòng cũng gặp phải một số khó khăn.
2.1.3. Về tổ chức công tác kế toán
Hoạt động kế toán của Công ty luôn tuân thủ Chế độ và được thiết
kế phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của chính bản thân Công ty
đồng thời bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả. Từ công việc hạch toán ban đầu
đến việc kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ của các chứng từ được tiến hành một
cách cẩn thận, đảm bảo số liệu hạch toán có căn cứ pháp lý. Thêm vào đó,
Công ty đã trang bị hệ thống máy vi tính nối mạng cho các phòng ban
trong Công ty và cài đặt phần mềm kế toán cho phòng kế toán để giảm bớt
khối lượng công việc cho kế toán viên và đáp ứng yêu cầu quản lý thống
nhất của Tổng công ty và Công ty mẹ.
Về hệ thống chứng từ kế toán: Công ty vận dụng hệ thống chứng từ
kế toán theo đúng Chế độ kế toán do Bộ Tài chính ban hành. Chứng từ được
lập đúng mẫu, có đầy đủ chữ ký của người có thẩm quyền, được luân chuyển
đúng quy định và thường xuyên được kiểm tra đối chiếu. Tuy nhiên thời
gian luân chuyển các chứng từ trong Công ty còn chưa kịp thời. Các chứng
từ luân chuyển chậm sẽ ảnh hưởng đến tính cập nhật của thông tin giữa các
phòng, các bộ phận, các phân xưởng vì thế có thể ảnh hưởng đến tiến độ lao
động của bộ phận trực tiếp sản xuất. Đây là một hạn chế trong công tác tổ
chức kế toán mà Công ty nên có biện pháp khắc phục kịp thời.
Về hệ thống tài khoản kế toán: Hệ thống tài khoản do Bộ Tài
chính ban hành được các cán bộ kế toán trong Công ty áp dụng tương đối
đầy đủ và mở các tài khoản chi tiết phù hợp thực tế để theo dõi các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh hàng ngày. Cán bộ kế toán trong phòng đã sáng tạo
áp dụng tài khoản 136 thay thế cho tài khoản 336 trong thanh toán nội bộ
với Công ty mẹ. Đây là việc áp dụng chế độ kế toán rất linh hoạt để tiện
lợi hơn và đơn giản hơn trong việc theo dõi nghiệp vụ thanh toán nội bộ
của Công ty.
Về hệ thống sổ sách kế toán: Công ty áp dụng hình thức Chứng từ-
Ghi sổ để ghi chép sổ sách kế toán trong Công ty. Đây là hình thức ghi sổ

phù hợp với nhu cầu chuyên môn hoá trong phân công công việc cho các
kế toán viên trong phòng. Đồng thời, Công ty đã áp dụng kế toán máy cho
nên hệ thống sổ sách gọn gàng và được quản lý chặt chẽ cả trên máy và
trên giấy tờ. Tuy nhiên, cũng do lý do trình độ kế toán viên trong phòng
chưa đồng đều nên việc phân công nhiệm vụ gặp khó khăn và việc ghi
chép sổ sách chưa thật mạch lạc và thống nhất.
Về hệ thống báo cáo kế toán: Hệ thống các báo cáo trong Công ty
được lập và gửi đúng quy định của Bộ Tài chính và tương đối đầy đủ. Tuy
nhiên các báo cáo kế toán quản trị thì không được chú trọng. Đây có thể
nói là một nhược điểm vì kế toán quản trị có vai trò rất quan trọng trong
quản lý nói chung và đặc biệt quan trọng hơn với công tác quản lý chi phí
và giá thành sản phẩm.
2.1.4. Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Những ưu điểm của công tác tổ chức quản lý kinh doanh và tổ chức
công tác kế toán tốt như trên chính là tiền đề để công tác kế toán tập hợp chi
phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty được thực hiện tốt. Sau một thời
gian thực tập tại Công ty Cổ phần CNTT An Đồng, dựa vào những hiểu biết,
nhận thức của bản thân và những tìm hiểu về Công ty em nhận thấy công tác
kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm ở Công ty đã có nhiều
điểm tích cực nhằm đáp ứng yêu cầu công tác quản lý sản xuất kinh doanh
trong điều kiện hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, công tác hạch toán kế toán nói chung và
công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng
ở Công ty đã được quan tâm chú trọng ở mức độ cao. Công tác kế toán tập
hợp chi phí và tính giá thành là công tác kế toán quan trọng trong Công ty nên
được giao cho kế toán viên có trình độ cao và có kinh nghiệm nhất trong
phòng kế toán. Các cán bộ kế toán cùng phòng kỹ thuật và các phòng ban
khác trong Công ty luôn kết hợp chặt chẽ, cố gắng tìm giải pháp nâng cao
chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian thi công. Từ đó, Công ty đã đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng và có được uy tín trên thị trường đóng và sửa

chữa tàu thuỷ. Công ty ngày càng ký kết được nhiều hợp đồng kinh tế với các
bạn hàng gần xa. Điều đó chứng tỏ sự nhạy bén trong quản lý và sự cố gắng
của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty đã trở thành đòn bẩy tích
cực đi lên của Công ty.
Về đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm: Trong công tác tập hợp chi phí sản xuất, việc xác định
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng của Công ty là hợp lý
và khoa học. Việc này giúp cho quá trình tập hợp chi phí sản xuất, theo dõi
tình hình chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất
chung được cụ thể, chi tiết cho từng đối tượng và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc quản lý. Việc tập hợp chi phí sản xuất theo đối tượng hạch toán đã xác
định được thực hiện bằng cả hai phương pháp là tập hợp trực tiếp và tập hợp
gián tiếp đã tạo điều kiện cho Công ty thực hiện tập hợp chi phí sản xuất
nhanh chóng, linh hoạt. Phương pháp tập hợp trực tiếp áp dụng chủ yếu với
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Với hai loại
chi phí này thì chi phí phát sinh cho đơn hàng nào hay con tàu nào thì tập hợp
riêng cho đơn hàng đó, con tàu đó. Phương pháp tập hợp gián tiếp áp dụng
đối với chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung tập hợp chung rồi phân
bổ cho các đơn hàng theo tiêu thức phân bổ là tiền lương công nhân sản xuất
thực tế của từng đơn hàng trong tháng.
Ngoài ra, việc tập hợp chi phí sản xuất phải theo các đơn đặt hàng làm
đơn giản hoá các bảng biểu, xác định đối tượng tính giá thành là từng đơn
hàng hoàn thành giúp cho việc tính giá thành đơn giản. Mặt khác, kế toán đã
căn cứ vào đặc điểm đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và quy trình công
nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty mà xác định phương pháp tính giá thành
cho nên đã chọn phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. Đây là một sự
vận dụng hợp lý lý thuyết và chế độ vào thực tiễn của đội ngũ kế toán trong
doanh nghiệp mình.
Về kỳ tính giá thành: Kỳ tính giá thành sản phẩm của Công ty là cuối
tháng cho từng đơn hàng hoàn thành là chưa hợp lý. Công ty tổ chức sản xuất

theo từng Hợp đồng kinh tế với khách hàng tức là từng đơn hàng cho nên sản
phẩm có thời hạn hoàn thành quy định trước. Hơn nữa, mỗi đơn hàng thường
là một con tàu đã được hạch toán và tập hợp chi phí riêng nên chúng ta có thể
tính giá thành sản phẩm bất cứ khi nào đơn hàng hoàn thành chứ không nhất
thiết phải đợi đến cuối tháng. Như vậy, việc tính giá thành sẽ được cập nhật
hơn phù hợp với yêu cầu quản lý chi phí giá thành trong sản xuất.
Về khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp trong Công ty được tập hợp đầy đủ, chi tiết cho các loại nguyên
vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng ....Các chứng từ mua nguyên vật
liệu, nhận nguyên vật liệu từ chủ đầu tư, nhập kho, xuất kho nguyên vật liệu
đều được luân chuyển đúng quy định và được tập hợp ở phòng kế toán phục
vụ cho công tác hạch toán của kế toán vật tư. Công ty chỉ sử dụng một kho
duy nhất để bảo quản nguyên vật liệu nên chi phí bảo quản được tiết kiệm và
viêc quản lý vật tư trong kho dễ dàng hơn. Kho bãi trong Công ty được thủ
kho quản lý chặt chẽ, ngăn nắp tiện lợi cho việc bốc xếp hay nhập xuất vật tư
ra vào kho. Điều này cũng giúp kế toán vật tư thuận tiện hơn trong việc kiểm
kê và đối chiếu số liệu với thủ kho về vật tư theo định kỳ hàng tháng.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu về Công ty em thấy khi các bộ phận
sản xuất bàn giao phế liệu thu hồi (các đầu ống, tôn, sắt, thép quá nhỏ không
tận dụng được cho sản xuất) vào kho thì bộ phận kế toán cũng như bộ phận
kho không có chứng từ gì, chỉ đến khi số phế liệu được bán thì bộ phận kho
thông báo lên phòng kế toán. Kế toán vật tư lúc này mới ghi nhận số tiền do
bán phế liệu làm tăng thu nhập khác.
Nợ TK 111
Có TK 711
Việc thiếu chứng từ này là biểu hiện của quản lý không chặt chẽ. Điều này có
thể dẫn tới việc thủ kho gian lận trong việc bán phế liệu thu hồi làm thu nhập
riêng cho mình. Ngoài ra, phế liệu thu hồi không được ghi nhận sẽ làm tăng

×