Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG HỒNG HÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.52 KB, 19 trang )

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG HỒNG HÀ
Qua 3 tháng thực tập tại công ty CPĐT & XD Hồng Hà em xin trình bày
một số ý kiến nhận xét và đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty.
3.1. Đánh giá
3.1.1. Đánh giá chung
* Về tổ chức quản lý và công tác kế toán
Nhìn vào sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty có thể nhận thấy bộ máy quản
lý của Công ty được bố trí gọn nhẹ với 4 phòng ban chức năng độc lập, mỗi
phòng ban chịu một trách nhiệm về những lĩnh vực khác nhau nhưng thường
xuyên hỗ trợ nhau về mặt nghiệp vụ và tham mưu cho lãnh đạo Công ty trong
công tác quản lý chung. Việc tổ chức các phòng ban độc lập cũng làm cho hiệu
lực quản lý của Công ty được nâng cao, việc quyết định trách nhiệm cho từng
bộ phận trở nên dễ dàng thuận lợi hơn. Mặt khác việc tổ chức cơ cấu gọn nhẹ
giúp Công ty tiết kiệm được các khoản chi phí, tránh lãng phí trong sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện cho bộ máy quản lý của Công ty hoạt động linh hoạt
hiệu quả và thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Công ty đã áp dụng Quyết định 15/2006/QĐ/BTC vào trong công tác kế
toán. Hệ thống chứng từ ban đầu, hệ thống sổ sách, báo cáo được tổ chức hợp
pháp, hiệu quả kinh tế cao cung cấp thông tin kịp thời hữu ích cho các nhà quản
lý và những người cần thông tin. Việc tập hợp luân chuyển chứng từ tương đối
chặt chẽ, tránh đến mức tối đa sự thất thoát về tài sản, tiền vốn của Công ty
cũng như của xã hội.
Tổ chức kế toán của Công ty phù hợp với yêu cầu của cơ chế quản lý trong
nền kinh tế thị trường. Bộ máy kế toán gọn nhẹ cùng đội ngũ nhân viên kế toán
đều tôt nghiệp đại học chính quy chuyên ngành kế toán nên luôn hoạt động có
hiệu quả. Đội ngũ kế toán của Công ty không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn, trình độ quản lý để nắm bắt kịp thời với sự thay đổi của chế độ kế toán
nhằm phục vụ lợi ích kinh tế của Công ty.


Ngoài ra, công tác kế toán của Công ty được sự giúp đỡ của phần mêm
Fast Accouting. Nhờ có phần mềm kế toán này khối lượng công việc ghi chép
hàng ngày, cuối tháng giảm đáng kể trong khi vẫn đảm bảo tính đầy đủ, chính
xác của số liệu kế toán.
Tuy nhiên, phòng kế toán không chỉ phụ trách công tác kế toán tài chính mà còn
kiêm cả kế toán quản trị. Chứng tỏ sự không chyên nghiệp trong việc tổ chức kế
toán tại công ty. Đây cũng là tình trạng chung của hệ thống kế toán tại các công
ty ở nước ta. Điều này làm cho công tác kế toán quản trị thiếu tính chính xác, linh
hoạt, không thể đưa ra các phương án kinh doanh đúng đắn.
Do Công ty là doanh nghiệp xây lắp nên địa điểm thi công thường ở các địa
điểm khác nhau và cách xa nhau do đó việc đi lại gặp nhiều khó khăn, tốn kém
tiền của, việc cập nhật chứng từ kế toán chậm. Thông thường, cuối tháng kế toán
công trình mới tập hợp chứng từ gửi về phòng Tài chính- kế toán của Công ty
làm cho công tác kế toán gặp nhiều khó khăn, gây sức ép kế toán vì công việc
cuối tháng thường nhiều.
Chứng từ kế toán là cơ sở để ghi sổ kế toán, các chứng từ kế toán cần phải
lập ngay khi nghiệp kinh tế phát sinh. Nhưng trong công ty có rất nhiều nghiệp
vụ không được lập chứng từ ngay mà sau khi nghiệp vụ kinh tế, tài chính đã xảy
ra rồi, căn cứ vào một số giấy tờ có liên quan rồi mới lập hoá đơn đỏ, chứng từ.
Việc này có thể làm mất tính chính xác của các nghiệp vụ kinh tế và độ tin cậy
của các số liệu, tính kịp thời của thông tin.
Chứng từ tại Công ty được lưu trữ theo tài khoản, ví dụ: chứng từ về công nợ
được lưu trữ theo TK 331, chứng từ về vật tư được lưu trữ theo TK 152, chứng từ
thanh toán tạm ứng được lưu trữ theo TK 141, ... Hình thức lưu trữ này giúp công ty
dễ kiểm tra chứng từ bởi chúng có liên quan đến nhau. Tuy nhiên nếu xảy ra tình
trạng mất hoặc bỏ xót chứng từ sẽ rất khó phát
Theo luật quy định thì chỉ những hoá đơn kê khai trong vòng 3 tháng kể từ khi
phát sinh mới được khấu trừ VAT còn trường hợp quá sẽ phải ghi vào chi phí hoặc
quy trách nhiệm bồi thường. Và thực tế công ty vẫn thường xảy ra tình trạng này do
việc luân chuyển chứng từ chậm chạp từ các kế toán Công trình của các công trình ở

xa. Điều này làm tăng chi phí của Công ty và mất thời gian xử lý.
* Về việc sử dụng hệ thống TK
Hệ thống TK sử dụng trong quá trình hạch toán tại công ty rất đầy đủ và áp
dụng theo đúng nội dung phản ánh của từng tài khoản theo quy định chính của
Bộ Tài Chính. Điều này giúp việc hạch toán các nghiệp vụ kinh tế, tài chính
phát sinh tại công ty được chính xác, giúp xác định đúng chi phí và kết quả kinh
doanh của công ty.
Ngoài ra, các TK khoản sử dụng trong quá trình hạch toán cũng được chi
tiết theo yêu cầu quản lý, hạch toán cụ thể tới từng đối tượng, giúp việc theo dõi
chi phí, kết quả của công ty được cụ thể. Từ đó xác định được những khoản
mục đầu tư nào mang lại lợi nhuận cao cho công ty để có phương án kinh doanh
hiệu quả cho các kỳ tiếp theo.
Tuy vậy, trong thời gian qua mặc dù công ty đã thực hiện theo chế độ kế toán
mới ban hành của Bộ Tài Chính nhưng do các công trình thi công trong thời
gian dài nhiều số liệu kinh tế liên quan đến nhau. Nên việc sử dụng TK và hạch
toán trong công ty vẫn chưa hoàn toàn theo chế độ mới.
Ví dụ: Công ty vẫn hạch toán thuế thu nhập doanh nghiệp trên TK 3334
mà chưa sử dụng và hạch toán trên các TK 821: Thuế thu nhập doanh nghiệp
hoãn lại, TK 243: Tài sản thuế thu nhập hoãn lại, TK 347: Thuế thu nhập hoãn
lại phải trả, doanh nghiệp vẫn giữ, hạch toán vào TK 009: Ngồn vốn khấu hao
cơ bản hiện còn. Như vậy doanh nghiệp chưa thực hiện việc hạch toán theo hế
thống TK mới theo QĐ số 15 của Bộ Tài Chính.
* Về hệ thống sổ sách kế toán
Công ty đã áp dụng Quyết định 15/2006/QĐ/BTC vào trong công tác kế
toán. Hệ thống chứng từ ban đầu, hệ thống sổ sách, báo cáo được tổ chức hợp
pháp, hiệu quả kinh tế cao cung cấp thông tin kịp thời hữu ích cho các nhà quản
lý và những người cần thông tin. Việc tập hợp luân chuyển chứng từ tương đối
chặt chẽ, tránh đến mức tối đa sự thất thoát về tài sản, tiền vốn của Công ty
cũng như của xã hội.
Công ty đã mở được hệ thống sổ kế toán phù hợp và chi tiết tới từng công

trình, hạng mục công trình, dễ dàng cho việc quản lý và tính giá thành.
Tuy vậy, Do quá trình luân chuyển chứng quá chậm và kế toán ghi sổ ghi
sổ chậm nên các nghiệp vụ kinh tế, tài chính không được cập nhật thường xuyên
vào hệ thống kế toán.
* Về hệ thống báo cáo kế toán của Công ty
Việc kiểm toán báo cáo tài chính giúp khẳng định tính chính xác của các
thông tin tài chính. Tuy nhiên việc kiểm toán báo cáo tài chính của Công ty từ
trước đến nay vẫn do một công ty kiểm toán đảm nhận. Vì thế chất lượng cuộc
kiểm toán không cao.
Mặt khác, kỳ kế toán thực hiện lập các báo cáo của Công ty là năm (trừ
trường hợp bắt buộc) nên việc cung cấp thông tin cho quản trị không kịp thời.
Hạn chế chủ yếu trong hệ thống báo cáo quản trị của Công ty. Các báo cáo
này do Phòng kế toán lập, các số liệu chủ yếu lấy từ hệ thống sổ sách của báo
cáo tài chính. Do vậy các số liệu lấy để phân tích không thực phản ánh đúng bản
chất của các hoạt động kinh doanh trong Công ty. Các báo cáo quản trị vì thế
mà chất lượng của nó không cao, không thể dựa vào đó để đưa ra các quyết định
kinh doanh đúng đắn, khó có thể tìm ra được các phương án kinh doanh có hiệu
quả mang tính chất đột phá cho công ty. Như vậy mặc dù có báo cáo quản tri
nhưng lại không thể dựa vào đó để đưa ra quyết định kinh doanh. Việc này gây
lãng phí cả về tiền bạc và thời gian của doanh nghiệp
3.1.2. Đánh giá về công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây
lắp
 Về đối tượng, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp là các công trình, hạng mục công trình có
kết cấu phức tạp, thời gian xây dựng và sử dụng kéo dài, sản phẩm mang tính
đơn chiếc…Nên Công ty xác định khối lượng tính giá thành là từng công trình,
hạng mục công trình là chính xác và phù hợp với đặc điểm sản phẩm của hoạt
động xây lắp.
Ngoài ra, phương pháp tính giá thành được Công ty lựa chọn là phương pháp giản

đơn rất phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành
sản xuất và phương thức bàn giao thanh toán mà Công ty đã áp dụng.
Những ưu điểm trong công tác quản lý, kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm nêu trên có tác dụng tích cực đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất
và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Tuy nhiên công tác hạch toán chi phí và tính giá thành trong XDCB là một công
việc rất phức tạp vì vậy trong việc thực hiện công tác này ở Công ty vẫn còn tồn
tại một số hạn chế, khó khăn nhất định.
Về công tác tập hợp và luân chuyển chứng từ: Do các địa điểm ở cách xa nhau
nên việc tập hợp và luân chuyển chứng từ chậm chạp gây khó khăn cho việc
tính giá thành công trình.
 Công tác hạch toán các khoản mục chi phí
* Về kế toán tập hợp CPNVLTT
Về việc hạch toán CPNVLTT, Công ty thực hiện khá đầy đủ các thủ tục về tập hợp
CPNVLTT theo quy định của Bộ Tài Chính. Các chứng từ phát sinh ở các đội đều
được kế toán Công trình tập hợp đầy đủ, cuối tháng gửi về phòng Tài chính- kế
toán Công ty. Sau đó kế toán Công ty kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ của các chứng từ
rồi mới tiến hành nhập vào máy tính và lên các sổ.
Đối với NVL xuất kho hoặc mua về chuyển thẳng đến chân công trình cuối kỳ
các kế toán công trình mới gửi hoá đơn chứng từ thanh toán về phòng kế toán.
Kế toán căn cứ vào hoá đơn chứng từ để tiến hành định khoản và ghi nhận
CPNVLTT phát sinh trong kỳ. Mặc dù khi tiến hành sử dụng vật tư có biên bản
sử dụng vật tư do cán bộ kỹ thuật và phòng vật tư ký nhận nhưng số vật liệu còn
lại chưa sử dụng hết cũng chiếm một lượng không nhỏ lại không làm đủ các thủ
tục nhập kho, không được phản ánh đầy đủ trên giấy tờ sổ sách. Việc không
hạch toán phế liệu thu hồi sẽ làm CPNVLTT tăng lên so với thực tế, do vậy việc
tính giá thành không chính xác.
Việc cung cấp vật tư của Công ty chưa thực sự hiệu quả, lúc thì vật tư quá nhiều
trong kho, lúc thì thiếu làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công.
* Về chi phí nhân công

Kế toán chi phí nhân công trực tiếp tại các đội, các công trình còn thiếu chặt
chẽ. Vì đội trưởng công trình là người theo dõi quá trình chấm công và chia
lương cho công nhân, là người được Công ty uỷ quyền ký các Hợp đồng thuê
lao động nên có thể xảy ra tình trạng thiếu trung thực trong công tác hạch toán
và chi trả tiền thuê nhân công.
Mặt khác, Công ty chưa tiến hành trích lương phép cho công nhân trực tiếp sản
xuất của Công ty. Việc này sẽ làm cho giá thành công trình tăng trong trường
hợp công nhân sản xuất trực tiếp nghỉ phép nhiều, do đó giá thành công trình
mất phần nào đi tính chính xác của nó.
* Về kế toán chi phí sử dụng máy thi công
Nói chung các chứng từ hạch toán chi phí sử dụng máy thi công đều được theo
mẫu của BTC và được kế toán công trinh tập hợp đầy đủ, phục vụ tốt cho yêu
cầu tính giá thành.
Tuy nhiên, đây là khoản mục chi phí đặc thù của các doanh nghiệp xây lắp theo
hình thức hỗn hợp vừa thủ công vừa bằng máy nên kế toán rất hay nhầm lẫn.
Đôi khi kế toán hạch toán nhầm lẫn chi phí sữa chữa xe, máy phục vụ cho quản
lý sang tài khoản này và ngược lại.
Công ty hạch toán chi phí nhân công điều khiển máy vào TK 622, điều này là
không hợp lý và sai so với chế độ quy định.
Công ty tiến hành tính khấu hao máy thi công theo phương pháp khấu hao đều
và được tính trực tiếp cho từng công trình sử dụng máy thi công. Cách tính này
tương đối chính xác, tuy nhiên cách phân bổ này phức tạp vì Máy thi công được
điều động linh hoạt giữa các công trình.
Công ty tiến hành phân bổ chi phí công cụ, dụng cụ phục vụ máy thi công theo
phương pháp trên thực chất chưa được chính xác vì nó phụ thuộc vào việc xác
định tuổi thọ của công cụ, dụng cụ.
Công ty chưa trích trước chi phí sữa chữa lớn TSCĐ của các máy thi công cũng
như các TSCĐ dùng cho quản lý.
* Về chi phí sản xuất chung
Do việc phát sinh các chi phí NVL sử dụng cho hoạt động quản lý chung toàn

công trường và các tổ, đội ít nên Công ty hạch toán vào TK 6278- Chi phí bằng
tiền khác. Điều này tuy tạo sự thuận lợi cho công tác kế toán do không phải mở
thêm TK 6272- “Chi phí vật liệu” để theo dõi nhưng không đúng với quy định
của chế độ kế toán hiện hành và cũng không cho người cần thông tin biết cơ cấu
chính xác của các loại chi phí trong chi phí sản xuất chung.
Mặt khác, Công ty tính khấu hao của TSCĐ dùng cho hoạt động quản lý như
tính khấu hao đối với các dịch vụ hàng hoá cùng với việc không mở TK
627202: Chi phí vật liệụ phục vụ cho hoạt động quản lý đã gây không ít khó
khăn cho các nhà quản trị trong việc quản lý chi tiết từng loại chi phí và cơ cấu
của từng loại trong chi phí sản xuất chung.
Các chi phí sản xuất chung phát sinh như chi phí điện, nước, điện thoại… do
giữa tháng sau mới nhận được giất báo thanh toán của nhà cung cấp và cuối
tháng đó chứng từ mới về đến phòng kế toán nên thường được đồn và tính cho
chi phí tháng sau. Điều này không đảm bảo nguyên tắc cơ sở dồn tích của kế
toán: ghi nhận chi phí vào thời điểm phát sinh chi phí.
3.2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công ty CPĐT & XD Hồng Hà
 Ý kiến thứ nhất: Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán và luân chuyển chứng từ
Để giảm bớt khối lượng công việc vào cuối tháng và đảm bảo cung cấp thông
tin kịp thời cho công tác quản trị, Công ty có thể yêu cầu các tổ đội trực thuộc các
công trình tại địa bàn Hà Nội 5 ngày tập hợp chứng từ 1 lần về phòng kế toán tài
chính của Công ty. Đối với các công trình ở xa 1 tháng tập hợp chứng từ 1-2 lần
(Chậm nhất 1 tháng 1 lần vào đầu tháng, không quá mồng 07 hàng tháng để đảm
bảo tính kịp thời). Đồng thời, Công ty nên có biện pháp xử phạt rõ ràng với những
vi phạm trong quy định luân chuyển chứng từ.
Công ty nên tổ chức các khoá học ngắn ngày để bồi dưỡng trình độ cho các
nhân viên kế toán tránh tình trạng yếu kém, thiếu đồng bộ trong các nhân viên
kế toán. Đối với các Kế toán ở các chi nhánh xa Công ty nên cử cán bộ có trình
độ chuyên môn đến hướng dẫn.
 Ý kiến thứ hai: Hoàn thiện việc hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

×