Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Phân tích và đánh giá những trường hợp chung sống như vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.35 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
NỘI DUNG ............................................................................................................ 2
I. Khái quát chung về chung sống như vợ chồng ............................................ 2
1. Khái niệm về chung sống như vợ chồng ...................................................... 2
2. Đặc điểm của chung sống như vợ chồng ..................................................... 3
II. Phân tích, đánh giá các trường hợp chung sống như vợ chồng. ................. 4
1. Trường hợp chung sống như vợ chồng không trái pháp luật ....................... 4
2. Trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật .................................. 6
3. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng theo Luật
Hơn nhân và Gia đình 2014 .............................................................................. 9
III. Thực trạng chung sống như vợ chồng và một số giải pháp .................... 12
1. Thực trạng chung sống như vợ chồng tại Việt Nam hiện nay .................... 12
2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh việc chung sống với nhau
như vợ chồng................................................................................................... 13
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 16
PHỤ LỤC............................................................................................................. 17

0


LỜI MỞ ĐẦU
Trải dài trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữa nước, gia đình đã hình thành
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam ta và cho thấy vai trị cũng như sức sống mãnh
liệt. Lời nói đầu, Luật Hơn nhân và gia đình nước Cộng hịa XHCN Việt Nam năm
2000 cũng đề cập đến tầm quan trọng của gia đình: “ Gia đình là tế bào của xã hội,
là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục
nhân cách.” Từ đó có thể thấy gia đình là hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên của
con người, trong đó con người gắn bó với nhau bởi những quan hệ hơn nhân và quan
hệ huyết thống.


Như mọi quan hệ xã hội khác, quan hệ hơn nhân và gia đình cũng chịu sự tác động,
điều chỉnh của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật mà trước tiên phải kể
đến là vấn đề kết hôn và đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hôn là không chỉ là một sự
kiện quan trọng trong đời người mà còn là một sự kiện pháp lý, đánh dấu sự ra đời
của một tế bào mới cho xã hội, đồng thời thể hiện sự giám sát của Nhà nước đối với
việc tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật hơn nhân gia đình nói riêng.
Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều trường hợp nam nữ mong muốn xác lập quan hệ vợ
chồng đã chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn, hoặc
nhiều trường hợp nam nữ chỉ mong muốn chung sống như vợ chồng với suy nghĩ
“sống thử”. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: do phong tục, tập quán;
do xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hóa đã góp phần mang văn hóa nước
ngồi du nhập vào Việt Nam. Trong xu thế phát triển kinh tế, văn hóa của nước ta
hiện nay, việc chung sống như vợ chồng vẫn sẽ tồn tại, thậm chí có thể có chiều
hướng gia tăng nhanh chóng. Điều này sẽ gây ra những tác động lớn đến việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ chung sống như vợ chồng và
những người có liên quan.
Vì vậy, em mong rằng việc thực hiện nghiên cứu đề bài số 2 “Phân tích và đánh giá
những trường hợp chung sống như vợ chồng” có thể góp phần đưa ra cái nhìn
tổng quan hơn về vấn đề này, đồng thời đề xuất những giải pháp giúp đảm bảo quyền
và lợi ích của các bên chủ thể có liên quan một cách tồn diện hơn.

1


NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về chung sống như vợ chồng
1.


Khái niệm về chung sống như vợ chồng

Pháp luật nước ta quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, tuy nhiên trên thực tế, bên cạnh những quan hệ hôn nhân hợp pháp vẫn
cịn có nhiều trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “chung là cùng, công cộng, không của riêng ai, chung
chăn chung gối ở với nhau như vợ chồng”. “Vợ chồng” là danh từ chỉ người nữ và
người nam sau khi kết hơn. Từ đó, gộp nghĩa của cả hai từ ta có thể hiểu đơn giản,
“chung sống như vợ chồng” là trường hợp nam, nữ cùng sống với nhau, coi nhau
như vợ chồng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia
đình và với xã hội nhưng khơng tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp
luật.
Trên thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chung sống như vợ chồng:
- Dưới góc nhìn của những nhà xã hội, văn hóa, chung sống như vợ chồng là
việc sống thử - chung sống phi hơn nhân, theo đó các cặp nam nữ về chung
sống như vợ chồng, nhưng khơng tổ chức hơn lễ cũng như đăng kí kết hôn.[8]
- Trên phương diện pháp luật, theo ý kiến của Đồn luật sư Thành phố Hà Nội
thì chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ công khai quan hệ, chung sống
với nhau như vợ chồng và không đăng ký kết hơn hoặc khơng đủ điều kiện kết
hơn.
Tuy nhiên, có thể thấy các quan điểm trên chưa bao quát được hết các trường hợp
chung sống như vợ chồng cũng như chưa chứa đựng được đầy đủ các đặc điểm của
nó.
Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đã trở thành một hiện tượng
phổ biến trong xã hội mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp. Luật Hơn nhân và Gia
đình (HN&GĐ) trực tiếp điều chỉnh quan hệ về hơn nhân, gia đình, trong đó bao gồm
cả việc chung sống như vợ chồng. Tuy vậy, thời kì trước năm 1945, chưa có văn bản
pháp luật nào đề cập tới vấn đề này; trong luật HN&GĐ những năm 1959, 1986 và
2000 cũng chưa đưa ra được một khái niệm chính thức mà chỉ đưa ra các dấu hiệu

nhận biết trong các thông tư, nghị định dưới luật khác nhau. Hiện nay, trong Luật
2


HN&GĐ 2014, lần đầu tiên, chung sống như vợ chồng được chính thức quy định tại
Khoản 7 Điều 3: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung
và coi nhau là vợ chồng.”
Kể từ ngày 01/01/2015 khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thì đây là khái niệm
pháp lý chính thức dành cho người dân; người thực thi, áp dụng pháp luật.
2. Đặc điểm của chung sống như vợ chồng
 Đặc điểm thứ nhất: Hai bên chủ thể không bị ràng buộc về mặt pháp luật
nhưng việc chung sống như vợ chồng của hai bên vi phạm điều kiện về mặt
hình thức do pháp luật quy định.
Có thể coi đây là đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của việc chung sống như vợ
chồng.
Về mặt nội dung, hai bên chủ thể tham gia chung sống như vợ chồng, mang bản chất
của quan hệ vợ chồng nên sẽ bị ràng buộc bởi các yếu tố như tình cảm, tiền bạc, con
cái,..
Về mặt hình thức, pháp luật quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo những trình tự và thủ tục chung theo luật định. Vì vậy,
trường hợp này đã vi phạm về mặt hình thức, đây là trường hợp quan hệ chung sống
không được Nhà nước thừa nhận do khơng có Giấy chứng nhận kết hơn được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp. Vf vậy, mà theo quy định của
pháp luật thì họ khơng được thừa nhận là vợ chồng, quan hệ hơn nhân của họ khơng
có giá trị pháp lý, các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho vợ, chồng trong
hơn nhân hợp pháp thì chủ thể trong chung sống như vợ chồng cũng không được
hưởng.
 Đặc điểm thứ hai: Chủ thể tham gia chung sống như vợ chồng nhằm nhiều
mục đích khác nhau.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp chung sống như vợ chồng và việc kết hôn của họ

được tổ chức theo phong tục, tập quán mà không tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, có thể thấy ở một chừng mực
nào đó, hai bên chủ thể mong muốn và có chung mục đích là xây dựng gia đình giống
như các cặp đơi có đăng ký kết hơn hợp pháp.
Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp chỉ lựa chọn chung sống như vợ chồng thay vì
kết hơn thì nghĩa là mục đích của họ không đồng nhất, không cùng hướng tới mục
3


đích chung là xây dựng gia đình. Họ đến với nhau khơng vì tình cảm mà chỉ vì những
xa hoa, phù phiếm mà đối phương có thể đem lại hoặc vì những mục đích như để
tiến thân trong cơng việc, để làm hài lòng cha mẹ,...
 Đặc điểm thứ ba: Chủ thể của quan hệ chung sống như vợ chồng rất đa dạng.
Khác với quan hệ hôn nhân hợp pháp khi chủ thể của quan hệ này bị giới hạn bởi
nhiều yếu tố như độ tuổi, giới tính,...thì chủ thể của quan hệ chung sống như vợ
chồng vô cùng đa dạng:
Về giới tính, mặc dù chưa được pháp luật quy định nhưng trong thực tế, khơng khó
bắt gặp các trường hợp nam – nam, nữ - nữ,.. tổ chức sống chung như vợ chồng. Việc
chung sống giữa các chủ thể như vậy không làm thay đổi bản chất của quan hệ vợ
chồng. Dù mang giới tính gì thì họ vẫn có thể chung sống, có tài sản chung, yêu
thương, chăm sóc và tơn trọng lẫn nhau.
Về độ tuổi, đối chiếu với quan hệ hôn nhân hợp pháp yêu cầu nữ phải từ đủ 18 tuổi,
nam từ đủ 20 tuổi,.. thì có thể thấy chủ thể của quan hệ chung sống như vợ chồng có
độ tuổi đa dạng hơn nhiều. Đó có thể là những người trẻ, chưa đủ 18 tuổi; là sinh
viên, người đi làm;...Các chủ thể này có thể vi phạm hoặc không vi phạm điều kiện
kết hôn, các điều cấm của pháp luật. Đây cũng chính là yếu tố có thể chia chung sống
như vợ chồng thành hai nhóm là: khơng trái pháp luật và trái pháp luật.
II.

Phân tích, đánh giá các trường hợp chung sống như vợ chồng.


Dựa trên tinh thần của Luật Hôn nhân & Gia đình 2014 đối chiếu với những quy định
pháp luật có liên quan, cũng như việc phân tích đặc điểm về chủ thể của quan hệ này,
có thể thấy hành vi chung sống như vợ chồng có thể chia làm hai dạng: chung sống
như vợ chồng không trái pháp luật và chung sống như vợ chồng trái pháp luật.
1. Trường hợp chung sống như vợ chồng không trái pháp luật
Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng không bị coi là trái pháp luật là việc
chung sống mặc dù có đủ điều kiện kết hơn về độ tuổi, ý chí tự nguyện và không
thuộc các trường hợp cấm kết hôn do pháp luật quy định nhưng không đăng ký kết
hôn.
Các trường hợp chung sống như vợ chồng không vi phạm pháp luật bao gồm:
1.1.

Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mặc dù có đủ điều kiện đăng
ký kết hôn nhưng lại không đăng ký kết hôn
4


Thực tế có rất nhiều lý do và nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc nam nữ có đủ điều
kiện kết hơn nhưng khơng đăng ký kết hơn, có thể kể tới một số như:
- Do trình độ hiểu biết pháp luật cịn thấp, do ý thức tơn trọng pháp luật chưa
cao nên hai bên nam nữ chỉ tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn.
- Do bị cha mẹ ngăn cản nên hai bên nam nữ đã chung sống với nhau mà không
đăng ký kết hôn.
- Do ảnh hưởng của phong tục, tập quán trong xã hội phong kiến.
- Do ảnh hưởng của tôn giáo, nhiều trường hợp nam nữ tổ chức hôn lễ tại nhà
thờ trước cha xứ mà không đăng ký kết hôn.
- Do cơ quan đăng ký kết hôn không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về
đăng ký kết hôn, nhưng hai bên nam nữ vẫn chung sống trong quan hệ vợ

chồng
 Đánh giá: Trường hợp này không thuộc các hành vi bị cấm nhưng pháp luật
hiện hành cũng không công nhận quan hệ này.
1.2.

Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ khi một bên hoặc cả hai bên mất
năng lực hành vi dân sự (NLHVDS)

Theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về điều kiện kết
hơn, trong đó các chủ thể phải khơng thuộc các trường hợp mất NLHVDS. Tuy nhiên,
đối với chung sống như vợ chồng, các văn bản điều chỉnh hoặc có liên quan đều
không đề cập tới trường hợp này.
Theo Điều 2 Bộ Luật Dân sự 2015 thì một người chỉ bị coi là mất năng lực hành vi
dân sự khi có quyết định của Tịa án tun bố người đó mất năng lực hành vi dân sự.
Nhưng trên thực tế, bản thân người bị mất năng lực hành vi dân sự không đủ năng
lực để tham gia các thủ tục tố tụng và chỉ khi có việc liên quan đến người mất
NLHVDS cần xử lý như định đoạt tài sản, ly hơn,..thì người thân hay người có quyền,
lợi ích liên quan mới u cầu Tịa án tun bố người đó mất NLHVDS. Như vậy,
việc người bị mất năng lực hành vi dân sự chung sống với nhau hoặc với người khác
trên thực tế rất khó xác định và các trường hợp này khơng bị coi là trái pháp luật nếu
chưa có quyết định của Tịa án về việc người đó bị mất năng lực hành vi dân sự.
 Đánh giá: Khi chưa có quyết định của Tịa án thì người đó vẫn được xác định
là có NLHVDS và việc chung sống khơng bị coi là trái pháp luật. Có thể thấy,
5


trong một số trường hợp, về phương diện sinh học, họ vẫn là một con người
phát triển và có các nhu cầu sinh lý bình thường. Do đó, khơng coi những
trường hợp này là chung sống như vợ chồng trái pháp luật sẽ đảm bảo được
quyền lợi của những người mất NLHVDS.

1.3.

Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính

Về ngun tắc, pháp luật hiện hành khơng thừa nhận hôn nhân giữa những người
cùng giới. Tuy nhiên, đây cũng khơng phải là điều luật cấm. Vì vậy, trên thực tế, ta
thấy nhiều cặp đơi đồng tính vẫn chung sống với nhau, thậm chí là tổ chức đám cưới
một cách cơng khai. Có thể thấy,việc chung sống như vợ chồng giữa những người
cùng giới tính là khơng trái pháp luật.
 Đánh giá: Việc luật hiện hành có sự nới lỏng hơn quan hệ của người đồng tính
so với Luật HN&GĐ 2000 là một bước tiến lớn, phù hợp với khác quan cuộc
sống. Hôn nhân đồng giới là một vấn đề nhạy cảm. Việc công nhận hay không
công nhận hôn nhân giữa họ cần được xem xét kĩ lưỡng để có những quy định
phù hợp. Do đó, giải pháp tối ưu tại thời điểm hiện tại cho vấn đề này là Nhà
nước ta, một mặt không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới
nhưng mặt khác cũng không cấm họ được chung sống với nhau như vợ chồng.
2. Trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật
Chung sống như vợ chồng trái pháp luật là việc nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng không tiến hành đăng ký kết hôn, đồng thời việc chung sống này vi
phạm các quy định cấm của pháp luật. Điều 5 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 khơng
quy định về chung sống như vợ chồng trái pháp luật, tuy nhiên dựa trên điều luật này
cùng các văn bản hướng dẫn khác có liên quan, có thể chia chung sống như vợ chồng
trái pháp luật thành các trường hợp cụ thể sau:
2.1.

Chung sống như vợ chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết
hôn theo luật định

Độ tuổi là một trong những điều kiện đầu tiên trong việc kết hôn được quy định tại
Khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18

tuổi trở lên”.
Theo điểm b Khoản 2 Điều 5 Luật Hơn nhân và Gia đình cũng có quy định cấm hành
vi “tảo hôn”. Và căn cứ vào khoản 8 Điều 3 thì: “Tảo hơn là việc lấy vợ, lấy chồng
khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1
6


Điều 8 của Luật này.” Có thể thấy, tảo hơn không chỉ là việc nam, nữ kết hôn trước
tuổi luật định mà còn bao gồm cả trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng
trước tuổi luật định. Do đó, có thể khẳng định, chung sống như vợ chồng khi một
bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo luật định là chung sống như vợ chồng
trái pháp luật.
Ngun nhân của tình trạng này có thể là do phong tục tập quán của địa phương, do
nguyện vọng của hai bên gia đình mong muốn các con được thành lập gia đình sớm,
hoặc do tình u đơi lứa của hai bên nam nữ mà họ muốn chung sống với nhau dù
chưa đến tuổi được kết hôn. Trong trường hợp nam, nữ lấy nhau chỉ tổ chức nghi lễ
cưới theo phong tục tập quán mà không tiến hành đăng ký kết hơn dẫn tới việc khơng
biết mình phạm luật hoặc có trường hợp biết mà vẫn cố tình tổ chức đám cưới rồi
cùng nhau chung sống.
 Đánh giá: Hành vi trên có thể là bị ép buộc cũng có thể là tự nguyện, nhưng
dù với trường hợp nào nó cũng sẽ gây ra những hậu quả không chỉ đối với bản
thân chủ thể, gia đình họ mà cịn gây hậu quả đối với xã hội. Chung sống như
vợ chồng trong trường hợp này không những vi phạm pháp luật mà cịn vi
phạm đạo đức, gây những ảnh hưởng khơng tốt tới tâm lý cũng như sức khỏe
của cả hai bên nam nữ. Ngoài ra, đối với xã hội, chung sống như vợ chồng
trong trường hợp này sẽ làm giảm chất lượng dân số, khiến tình trạng đói
nghèo gia tăng và kéo theo hàng loạt những hệ lụy khác.
2.2.

Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ mà một bên hoặc cả hai bên

đang có vợ có chồng

Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình đó là hơn nhân
một vợ một chồng. Những người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng
với nhau hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với
người đang có vợ, có chồng thì đều thuộc trường hợp cấm theo quy định tại điểm c,
khoản 2, điều 5 của Luật HN&GĐ năm 2014.
Vậy hiểu như thế nào là một người đang có vợ, có chồng? Trước hết phải khẳng định
khi một người đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp thì được coi là đang có
vợ, có chồng. Bên cạnh đó, việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký
kết hôn mà trước đây theo hướng dẫn của Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Thơng tư
liên tích số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì cũng được coi là đang có
vợ, có chồng khi đáp ứng được những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, hiện nay Nghị
quyết số 35/2000/QH10 đã hết hiệu lực; đồng thời Nghị định số 126/2014/NĐ-CP
7


ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hơn nhân
và Gia đình khơng đề cập tới vấn đề hay.
Cần lưu ý đối với trường hợp sau năm 1954, một số cán bộ, bộ đội ở miền Nam tập
kết ra miền Bắc, thời gian tập kết, dù đã có vợ, chồng ở trong miền Nam nhưng họ
là lấy vợ, chồng ở miền Bắc do hậu quả của chiến tranh mà trường hợp chung sống
này không bị coi là trái pháp luật. Trường hợp này được giải quyết theo Thông tư số
60/TATC ngày 22/02/1978 của TANDTC hướng dẫn giải quyết việc tranh chấp về
hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong Nam, tập kết ra Bắc
lấy vợ, lấy chồng khác.
 Đánh giá: Trên thực tế, khơng ít người đang có vợ, có chồng mà lại chung
sống như vợ chồng với người khác. Có nhiều trường hợp dù biết người kia
đang có vợ hoặc có chồng mà vẫn tiến hành việc chung sống như vợ chồng
với người đó; nhiều người thì do hồn cảnh mà sống xa vợ con, đã tiến hành

hành chung sống với người khác như vợ chồng. Ngồi ra, việc khơng đăng ký
kết hơn dẫn tới bản thân một bên nam, nữ không biết người kia đang có vợ, có
chồng mà chung sống với người đó. Lối sống coi thường pháp luật này dẫn
đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
2.3.

Thứ ba, chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi
với con nuôi; giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng
với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với
con riêng của chồng

Nam, nữ chung sống như vợ chồng trong trường hợp này bị pháp luật cấm theo quy
định tại điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014.
Thứ nhất, đối với những người cùng dòng máu về về trực hệ, giữa những người có
họ trong phạm vi ba đời. Xét về mặt sinh học, khi những người có cùng dịng máu
về trực hệ kết hơn và xây dựng gia đình, con sinh ra sẽ có nguy cơ suy giảm sức
khỏe. Thực tế y học đã chứng minh hôn nhân cận huyết thống là cơ sở cho những
gen lặn, bệnh lý tương đồng ở những ông bố, bà mẹ kết hợp với nhau và kết quả là
dù khoẻ mạnh, họ vẫn có thể sinh ra con dị dạng hoặc bệnh di truyền như mù màu
(không phân biệt được màu đỏ và màu xanh), bạch tạng, da vảy cá, đặc biệt là bệnh
tan máu bẩm sinh (Thalassemia) mở đầu cho cuộc sống tàn phế suốt đời...[7].
Xét về mặt xã hội, việc kết hôn cận huyết từ lâu đã là điều cấm kị trong xã hội Việt
Nam bởi nó đi ngược lại truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc. Điều này cũng
8


tương ứng khi nói tới trường hợp giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng
là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng
với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Mặc dù xét về mặt thực tế,

những người này khơng hề có quan hệ huyết thống với nhau, nhưng giữa họ lại tồn
tại quan hệ cha mẹ - con và có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng,.. sự liên kết của họ
tạo nên mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và thể hiện giá trị văn hóa
của gia đình, do vậy mà hành vi chung sống giữa những người này cũng bị coi là trái
pháp luật.
 Đánh giá: Trường hợp chung sống như vợ chồng này làm đi giá trị tốt đẹp của
gia đình Việt Nam. Pháp luật và truyền thống văn hóa có sự tác động qua lại
với nhau, pháp luật dựa vào những truyền thống tốt đẹp để nâng lên thành các
quy phạm pháp luật. Khi truyền thống được đề cao sẽ góp phần giúp người
dân tuân thủ pháp luật, ngược lại nếu truyền thống bị xem nhẹ thì sẽ ảnh hưởng
tới hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, ở đây pháp luật quy định cấm là
hồn tồn hợp lý, đảm bảo sự phát triển bình thường của thế hệ sau, đồng thời
đó cũng là sự phù hợp với đạo đức, truyền thống lễ nghĩa của người Việt Nam.
3. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng theo Luật
Hôn nhân và Gia đình 2014
3.1.

Quyền yêu cầu

Theo nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự thì Tịa án chỉ thụ lý khi có đơn yêu cầu của
cá nhân, tổ chức hoặc quyết định khởi tố của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Quyền yêu cầu được hiểu là người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết và xử lý các
trường hợp chung sống như vợ chồng. Luật HN&GĐ hiện hành chỉ quy định về việc
thụ lý đơn yêu cầu ly hôn (Điều 53 Luật HN&GĐ năm 2014) và hậu quả pháp lý đối
với trường hợp không đăng ký kết hôn (Điều 14, 15, 16 Luật HN&GĐ năm 2014)
chứ chưa có quy định chủ thể nào có quyền yêu cầu giải quyết trong trường hợp này.
Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng khơng trái pháp luật
thì nên quy định người có quyền yêu cầu giải quyết là chủ thể tham gia quan hệ chung
sống đó. Bởi lẽ, việc chung sống này là quyền tự do cá nhân, khơng làm ảnh hưởng
tới quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước hay bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.

Còn đối với trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng trái pháp luật đa phần có
ảnh hưởng xấu tới đời sống HN&GĐ, xâm phạm tới quyền lợi của nhiều chủ thể
khác trong xã hội, vì vậy mà quyền yêu cầu nên được mở rộng hơn. Chung sống trái
9


pháp luật và kết hơn trái pháp luật có những đặc điểm giống nhau, nên có thể quy
định chủ thể có quyền yêu cầu giải quyết trong trường hợp chung sống trái pháp luật
cũng giống như với chủ thể có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật được quy
định tại Điều 10 của Luật HN&GĐ năm 2014 bao gồm: vợ, chồng của người đang
có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; cha, me, con, người
giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người chung sống như vợ
chồng; Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em;
Hội liên hiệp phụ nữ.
3.2.

Hậu quả pháp lý

Khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: “Trong trường hợp
khơng đăng ký kết hơn mà có u cầu ly hơn thì Tịa án thụ lý và tuyên bố không công
nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu
cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật
này.” Như vậy, ta xem xét hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng trên
ba khía cạnh:
 Quan hệ nhân thân:
Khoản 1 Điều 14 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết
hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hơn thì khơng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”.
Theo đó, nam, nữ có đủ các điều kiện quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014
mà thực hiện việc chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì

khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trước pháp luật. Quy định
này đảm bảo tính pháp chế trong việc thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ hơn nhân,
tạo tính thống nhất trong các văn bản pháp luật, giúp việc giải quyết tranh chấp liên
quan đến quan hệ hôn nhân được thuận lợi.
Như vậy các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng được quy định từ Điều
17 đến Điều 23 Luật HN&GĐ năm 2014 không được pháp luật bảo vệ trong trường
hợp này.. Hơn nữa, trong quan hệ chung sống thì đại diện giữa vợ và chồng theo
pháp luật không được đặt ra, cũng như giữa họ không phát sinh vấn đề thừa kế di sản
thừa kế của nhau, hay nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng...
Do đó, khi phát sinh tranh chấp giữa các bên trong quan hệ chung sống và họ yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hơn thì Tịa án sẽ tun bố không công nhận họ là vợ chồng
chứ không công nhận ly hôn giữa hai bên. Đối với trường hợp chung sống như vợ
10


chồng trái pháp luật thì Tịa án tun bố buộc chấm dứt hành vi chung sống trái pháp
luật đó.
Có thể thấy, do tinh thần của Luật hiện hành, không chỉ quan hệ nhân thân mà cả tài
sản, con cái đều chỉ áp dụng cho chung sống như vợ chồng giữa nam – nữ khi họ có
đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng không đăng ký. Đối với trường hợp chung sống
giữa những người cùng giới, chuyển giới thì khơng có bất kỳ quy phạm pháp luật
nào điều chỉnh.
 Quan hệ cha mẹ - con
Chủ trương của các nhà làm luật từ trước tới nay đều là quan hệ cha mẹ con không
bị ảnh hưởng bới việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ giữa cha và mẹ cũng
như khơng phụ thuộc vào tính chất quan hệ giữa cha và mẹ. Nghĩa là dù cha mẹ có
kết hơn hay khơng thì vẫn tồn tại quyền cà nghĩa vụ giữa cha mẹ con. Quan hệ giữa
cha mẹ con phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ và nuôi dưỡng, vì vậy dù đứa con được
sinh ra từ quan hệ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn vẫn được
đối xử bình đẳng như con của các quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quy định tại Điều 15

Luật HN&GĐ năm 2014 như sau: “Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền,
nghĩa vụ của cha mẹ và con”. Như vậy, những người chung sống như vợ chồng nếu
có con với nhau thì các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho cha mẹ và con
cái được áp dụng theo đúng quy định tại chương V Luật Hôn nhân và Gia đình.
Nếu các bên có tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
thì Tịa án sẽ căn cứ vào các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về quyền, nghĩa
vụ của cha mẹ và con để giải quyết.
 Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng
Tranh chấp về tài sản trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn là vấn đề phức tạp và cũng dễ mắc sai lầm nhất. Trước
đây, vấn đề về tài sản đối với trường hợp hôn nhân không hợp pháp chỉ được quy
định ở văn bản dưới luật là Nghị quyết 35/2000/QH. Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời,
đã dành một điều luật để quy định về việc giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp
đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn tại
Điều 16 của Luật quy định:
“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong
11


trường hợp khơng có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ
và con.”
Như vậy, trước hết cần khẳng định, việc nhà làm luật ưu tiên giải quyết quan hệ tài
sản, nghĩa vụ và hợp đồng của các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
theo thỏa thuận giữa các bên là hợp lý. Bởi đây được nhận định là quan hệ dân sự
nên cần tôn trọng sự thỏa thuận này. Tuy nhiên, quy định của Điều luật khơng đặt ra
tình huống nếu thỏa thuận giữa các bên vơ hiệu thì giải quyết như thế nào?

Trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được với nhau thì đối chiếu với các quy
định tại BLDS, tài sản do người nào tạo ra sẽ thuộc quyền sở hữu của người đó; tài
sản được hai người tạo ra thuộc sở hữu chung theo phần giữa họ, Tòa án khi phân
chia phải căn cứ vào sự đóng góp của mỗi bên.
Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 16 Luật HN&GĐ năm 2014 thì việc giải quyết quan hệ
tài sản phải đảm bảo quyền và lợi ích của phụ nữ và con cũng như coi trọng việc nội
trợ và việc làm để duy trì đời sống chung được coi là lao động có thu nhập, đây là
một quy định mới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và
trẻ em – những người yếu thế trong quan hệ.
Quy định này của pháp luật đã đồng thời đảm bảo được sự tôn trọng thỏa thuận giữa
các bên và lồng ghép bình đẳng giới.
III.

Thực trạng chung sống như vợ chồng và một số giải pháp

1. Thực trạng chung sống như vợ chồng tại Việt Nam hiện nay
1.1.

Các dạng thức chung sống như vợ chồng trên thực tế

Nhìn trên thực tế cuộc sống, chưa xét tới trái pháp luật hay khơng thì ta cũng có thể
thấy rất nhiều dạng thức chung sống như vợ chồng khác nhau. Một số dạng thức
chung sống như vợ chồng phổ biến tại Việt Nam hiện nay như:
- Hiện tượng sống thử của giới trẻ
- Việc chung sống như vợ chồng giữa những người đồng tính
- Việc chung sống như vợ chồng giữa những người chuyển giới

12



- Nam nữ có tổ chức lễ cưới, chung sống với nhau và coi nhau như vợ chồng,
được họ hàng hoặc mọi người xung quanh thừa nhận là vợ chồng
1.2.

Thực tiễn giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc nam, nữ chung sống
như vợ chồng

- Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng
Việc xác lập thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân (cũng là thời điểm phát sinh khối
tài sản chung của vợ chồng) theo nguyên tắc chung phải dựa trên cơ sở giá trị pháp
lý của Giấy chứng nhận kết hơn. Nó có ý nghĩa quan trọng trong thực tế giải quyết
các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng và còn liên quan đến các tranh chấp về cấp
dưỡng, thừa kế giữa vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn
xét xử của một số Tịa, vẫn tồn tại tình trạng xác định không đúng thời điểm xác lập
quan hệ vợ chồng.
- Thực tiễn xét xử trong việc phân chia tài sản chung
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp Hội đồng xét xử không đủ chứng cứ để
phân định được cơng sức đóng góp của các bên đối với khối tài sàn chung nên đã xác
định tỷ lệ đóng góp không đúng phần tài sản của mỗi bên, làm ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền lợi của đương sự.
2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh việc chung sống với nhau
như vợ chồng
2.1.

Giải pháp lập pháp

Thứ nhất, bổ sung quyền yêu cầu giải quyết việc chung sống như vợ chồng. Ta nên
áp dụng tương tự điều 10 Luật HN&GĐ 2014 để giải quyết trường hợp chung sống
như vợ chồng trái pháp luật.
Thứ hai, pháp luật cần đặt ra chế tài cụ thể, nghiêm khắc hơn nữa nhằm nâng cao ý

thức pháp luật của cá nhân. Hiện nay, xử phạt vi phạm hành chính đối với trường
hợp vi phạm trong việc kết hơn có mức xử phạt cịn nhẹ, chưa đạt hiệu quả cao,..Xử
lý hình sự đối với các quan hệ hơn nhân và gia đình trên thực tế cịn nhiều hạn chế,
các chế tài hình sự gần như không sử dụng trong các vi phạm về hôn nhân và gia
đình.
Thứ ba, đối với quan hệ tài sản được quy định tại Điều 16 Luật HN&GĐ 2014 cần
quy định cụ thể hơn về việc thỏa thuận giữa hai bên. Thiết nghĩ, trường hợp hai bên
khơng có thỏa thuận và hai bên có thỏa thuận nhưng thỏa thuận vơ hiệu là hoàn toàn
13


khác nhau[4]. Đặc biệt, khi thỏa thuận vơ hiệu thì hậu quả pháp lý của nó cũng khơng
giống như đối với trường hợp khơng có thỏa thuận nên cần có quy định cụ thể hơn.
Thứ tư, vẫn nằm trong vấn đề quan hệ tài sản, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của người phụ nữ và con, tại khoản 2 Điều 16 Luật HN&GĐ năm 2014 quy
định “công việc nội trợ và cơng việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung
được coi như lao động có thu nhập”, quy định này là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên,
cần phải có hướng dẫn cụ thể “được coi như lao động có thu nhập” là như thế nào?
Ước lượng tính ra sao?...Có ý kiến cho rằng đối với cơng việc nội trợ và cơng việc
khác có liên quan để duy trì đời sống chung thì lấy mức lương tối thiểu theo quy định
của Nhà nước tại từng thời điểm để xác định phần thu nhập đối với công việc đó.
2.2.

Các giải pháp khác

Thứ nhất, cần tăng cường và nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Việc tuyên truyền Luật HN&GĐ là một nhiệm vụ trọng tâm của các cấp chính quyền,
đồn thể xã hội; chú trọng phổ biến pháp Luật HN&GĐ trong nhân dân, đặc biệt là
các quy định về đăng ký kết hôn, giúp người dân hiểu ý nghĩa của việc đăng ký kết
hôn và những ảnh hưởng của việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết

hôn. Đồng thời giáo dục công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với Nhà
nước và xã hội, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, đấu tranh với những hành
vi vi phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật.
Thứ hai, cần thực hiện cải cách hành chính hợp lý, cũng như có sự phối hợp của các
bộ, ban liên quan nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các trường
hợp chung sống như vợ chồng. Cán bộ hộ tịch, cơng an phương hay cơ quan có thẩm
quyền ở từng địa phương cần sát sao kiểm tra, làm tốt cơng tác đăng kí tạm trú, tạm
vắng; từ đó sẽ dễ dàng và nhanh chống phát hiện các trường hợp chung sống như vợ
chồng để có hướng khuyên bảo, giải quyết. Đồng thời, còn cần tới sự phối hợp của
UBND, nơi tổ chức thực hiện đăng ký kết hôn. Nơi này cần tạo điều kiện thuận lợi
tối đa cho những người tới đăng ký, đặc biệt tại các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu
vùng xa, miền núi, hải đảo.
Thứ ba, cần thành lập các Tòa chuyên trách giải quyết trong lĩnh vực HN&GĐ để
nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử các vụ việc về HN&GĐ. Thường xuyên mở
các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của các Thẩm phán, tuyển dụng đầy
đủ những cán bộ trong ngành Tịa án để tránh tình trạng thiếu nguồn nhân lực trong
công tác xử lý các vụ việc trong lĩnh vực HN&GĐ, tránh tình trạng tồn đọng án.
14


KẾT LUẬN
Chung sống như vợ chồng là hành vi liên kết của hai bên chủ thể; họ chung sống và
coi nhau là vợ chồng mà không tiến hành đăng ký kết hôn. Chung sống như vợ chồng
đã và đang tồn tại từ trước tới nay như một hiện tượng tất yếu của xã hội, bởi vậy
chắc chắn tình trạng này sẽ tồn tại lâu dài, khó có thể ngăn chặn.
Tình trạng chung sống như vợ chồng, xét dưới góc độ xã hội đã gây ra ảnh hưởng
nghiêm trọng, đặc biệt là tới tầng lớp thanh niên – những người trẻ tuổi, hình thành
lối sống bng thả, “hơn nhân thử nghiệm”, các quan niệm về tình u lứa đơi trong
sáng dần bị mờ nhạt bởi sự tự do liên kết giữa hai giới xuất phát từ nhiều động cơ
khác nhau, không phải từ mong muốn xây dựng một gia đình hạnh phúc.

Dưới góc độ pháp luật HN&GĐ, tình trạng chung sống như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn đã gây ra khơng ít những ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng với nhau, gây thiệt hại về cả mặt
vật chất và tinh thần cho các bên, quyền lợi chính đáng mà lẽ ra họ phải được hưởng
đã khơng được pháp luật bảo vệ chỉ vì họ khơng tuân thủ quy định về đăng ký kết
hôn do pháp luật quy định.
Bài làm đã đánh giá các trường hợp chung sống như vợ chồng cũng như phân tích
các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 trong việc giải quyết hậu quả
của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng đồng thời đưa ra những giải
pháp nhằm sớm hoàn thiện các quy định của pháp luật. Từ đó, có thể thấy Nhà nước
cần có quan điểm, phương hướng giải quyết rõ ràng cụ thể đối với từng dạng sống
chung khi có tranh chấp xảy ra, sao cho vừa đảm bảo được quyền lợi chính đáng của
các bên đương sự, vừa bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, không để bất cứ
hiện tượng nào không phù hợp các chuẩn mực xã hội mà không được pháp luật điều
chỉnh. Điều đó địi hỏi phải xây dựng, sửa đổi, ban hành các văn bản pháp luật điều
chỉnh vấn đề này một cách thống nhất và kịp thời.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện, bài viết cịn nhiều thiếu sót và hạn
chế, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cá thầy, cơ để em có thể hiểu tồn
diện và sâu sắc hơn vấn đề, đồng thời có thêm những kinh nghiệm cho bài tập sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Hôn nhân và Gia đình (Số: 52/2014/QH13) ngày 19/6/2014
2. Luật Hơn nhân và Gia đình (Số: 22/2000/QH10) ngày 09/6/2000
3. Thơng tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày

06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia
đình
4. Cao Vũ Minh, Trương Tư Phước (2014), “Hoàn thiện các quy định về chung
sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn theo tinh thần của Luật Hơn nhân
gia đình năm 2014”, Tạp chí Luật học, (6), tr.40-47.
5. Nguyễn Thị Phương Thảo (2015), Luận văn Thạc sĩ luật học “Chung sống
như vợ chồng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội.
6. Nông Thị Hồng Yến (2015), Luận văn Thạc sĩ luật học “Hậu quả pháp lý
của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng theo pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam hiện hành”, Hà Nội.
7. Hà Giang (2010), Hôn nhân cận huyết thống: Nguyên nhân làm suy giảm sức
khỏe, Sức khỏe & Đời sống, />Truy cập ngày: 12/9/2020
8. Như Trang (2005), Sống thử dưới góc nhìn của các nhà xã hội, văn hóa,
VNExpress, />Truy cập ngày: 15/9/2020

16


PHỤ LỤC
Xây dựng hoàn chỉnh khái niệm chung sống như vợ chồng
Hiện nay, tại Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, lần đầu tiên, chung
sống như vợ chồng được chính thức quy định như sau: “Chung sống như vợ chồng là
việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”
Kể từ ngày 01/01/2015 khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thì đây là khái niệm
pháp lý chính thức dành cho người dân, người thực thi pháp luật và áp dụng pháp
luật. Tuy nhiên, khái niệm trên vẫn bộc lộ thiếu sót và chưa thật hoàn chỉnh.
Thứ nhất, chung sống như vợ chồng mà pháp luật thừa nhận chỉ tồn tại giữa nam và
nữ. Nhưng trong thực tế, ta không thấy hiếm gặp các trường hợp chung sống như vợ
chồng giữa nam – nam, nữ - nữ, người chuyển giới,.. và việc xác định giới tính lại
căn cứ vào các giấy tờ tùy thân như giấy khai sinh, căn cước công dân, hộ khẩu,...

chứ khơng căn cứ vào ngoại hình hay bản chất con người. Điều này vơ tình làm thiếu
đi một nhóm các chủ thể khác. Đồng thời cũng là sự bất bình đẳng đối với những
người đồng giới, chuyển giới.
Thứ hai, về hành vi, ở đây luật có đưa ra cụm từ “tổ chức cuộc sống chung”. Có thể
hiểu “tổ chức cuộc sống chung” là cùng chung sống dưới một mái nhà một cách công
khai hoặc không công khai, thường xun, có quan hệ tình dục với nhau hoặc khơng;
quan hệ được gia đình, họ hàng biết và coi hai người họ là vợ chồng mà không dựa
vào việc họ có đăng ký kết hơn hay khơng.
Thứ ba, với cụm từ “coi nhau là vợ chồng” dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.
Có thể tạm hiểu đây là cách thức hai bên chung sống, đối xử với nhau, giữa họ có sự
thực hiện các quyền và nghĩa vụ (giống như quyền và nghĩa vụ của các cặp vợ chồng
đã kết hôn theo quy định của pháp luật) nhằm tạo nên một gia đình với các chức
năng sinh đẻ, giáo dục, kinh tế,…
Do đó, thiết nghĩ, Luật hơn nhân và Gia đình nên có sự sửa đổi để hồn thiện hơn về
mặt chủ thể của quan hệ; có thể tiếp tục sử dụng các cụm từ “tổ chức cuộc sống
chung” và “coi nhau là vợ chồng” nhưng nên có thêm các văn bản dưới Luật giải
thích cụ thể hơn hai cụm từ này.
Căn cứ vào các phân tích trên thì việc chung sống với nhau như vợ chồng nên được
hiểu như sau: Chung sống như vợ chồng là việc hai cá nhân thỏa thuận công khai
hoặc không công khai tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.

17


18



×