Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số cây thuốc có độc cần cảnh giác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.47 KB, 8 trang )

Một số cây thuốc có độc cần cảnh giác








Nước ta thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, các loài thảo mộc
vô cùng phong phú, nhất là các loại cây ăn quả, cây làm
thuốc. Nhiều sách báo chỉ nói về tác dụng tốt, còn mặt
độc hại của cây thì ít được đề cập tới. Chúng tôi xin giới
thiệu với bạn đọc về một số cây thảo dược có chứa độc
chất và cách xử trí nếu không may bị ngộ độc.
Cây mã tiền
Mã tiền còn gọi là hoàng nàn, có tên khoa học là Strychnos
nux vonica L. Là một cây nhỡ lá mọc đối, phiến lá bầu dục.
Hoa nhỏ màu hồng. Cây mọc hoang ở nhiều tỉnh miền núi.
Thành phần hóa học chủ yếu là chất strycnin chiếm 43 -
45%. Mã tiền dùng cả trong Đông và Tây y làm thuốc kích
thích thần kinh trung ương. Cây còn được dùng để chữa
ghẻ và các bệnh ngoài da. Người ta ngâm hạt mã tiền với
rượu để xoa bóp chỗ đau. Mã tiền rất độc. Có nhiều trường
hợp uống nhầm rượu mã tiền gây ngộ độc.
Khi bị ngộ độc thì ngáp, rối loạn tiêu hóa, nôn. Trường hợp
nặng thì tứ chi co cứng, người bị uốn cong như lên cơn uốn
ván, sợ ánh sáng. Mạch nhanh, yếu, chết vì ngạt thở.
Xử trí: Rửa dạ dày sớm, uống than hoạt, chống ngạt thở,
truyền dịch, uống thuốc an thần. Nếu nặng cần khẩn trương
đưa lên tuyến trên.


Cây trúc đào
Còn gọi là đào lê. Tên khoa học là Nerium oleander
L.thuộc họ trúc đào Apocynaceae. Trúc đào hoa đẹp, màu
đỏ tươi, hồng, trắng, nên người ta hay trồng làm cây cảnh.
Cây cao 3 - 4m. Lá đơn, mọc vòng, hình mũi mác. Thành
phần hóa học trong lá cây là neriolin. Người ta dùng
neriolin để chữa bệnh về tim. Toàn thân cây trúc đào đều
độc. Có người dùng cành cây trúc đào xiên thịt nướng ăn,
bị ngộ độc chết. Người uống nước đựng trong chai có nút
bằng cây trúc đào cũng bị ngộ độc. Trường hợp bò, ngựa ăn
phải lá trúc đào tươi cũng bị ngộ độc, người ta dùng lá để
làm bả chuột.
Triệu chứng bị ngộ độc: Sau 5 - 10 phút chất độc vào cơ
thể, người mệt lả, mắt hoa, đầu choáng váng, mặt tái, nôn
mửa dữ dội, bụng đau quằn quại. Nặng thì hôn mê, mạch
nhỏ, chậm, huyết áp tụt, thiếu ôxy não, tử vong nhanh. Khi
bị ngộ độc thì tìm cách cho nôn ra, sau cho uống lòng trắng
trứng 5 quả hòa trong 200ml nước. Tiêm atropin, theo dõi
nhịp tim. Chuyển bệnh nhân đi cấp cứu ở bệnh viện. Ta
không nên trồng trúc đào gần nguồn nước ăn, vì lá rụng
xuống làm nhiễm độc nguồn nước.
Cây xoan
Xoan có tên khoa học là Melia azedarach. Cây cao vài chục
mét, cuống lá chét ngắn, mép khía răng cưa nông. Hạt xoan
khi chín có màu vàng. Xoan mọc hoang ở nhiều nơi. Lá,
thân và quả xoan đều độc. Người ta dùng lá xoan lót vào
chum, vại để trừ sâu mọt hại thóc, đậu, lạc. Bị ngộ độc
thường do dùng lá xoan để tẩy giun, chữa ghẻ hay trẻ em ăn
quả xoan chín. Dấu hiệu ngộ độc là đau đầu, đau bụng quằn
quại, chóng mặt, nôn mửa, tiêu chảy nhiều lần, mệt lả, khó

thở, tim đập nhanh, huyết áp tụt, nhiễm độc thần kinh, co
giật, hôn mê và dẫn đến tử vong.
Xử trí:Khi bị ngộ độc thì tìm mọi cách gây nôn, rồi cho
uống lòng đỏ trứng, than hoạt, nước đường, truyền dịch và
đưa đi bệnh viện cấp cứu. Không nên tẩy giun, chữa ghẻ
bằng lá xoan.
Cây xương rồng
Còn có tên là bá vương tiên. Tên khoa học là Euphorbia
antiqorum L. Cây mọc hoang ở nhiều nơi, người ta trồng
làm hàng rào, làm cảnh. Xương rồng có tác dụng sát khuẩn,
chữa viêm răng lợi, chữa các mụn bọc, xơ gan cổ trướng.
Mủ nhựa cây xương rồng rất độc. Chỉ cần một ít nhựa bắn
vào mắt đã gây mù. Nhựa xương rồng dây vào da, niêm
mạc sẽ làm phồng da, rát bỏng. Uống phải nhựa xương
rồng sẽ bị ngộ độc, đau bụng dữ dội từng cơn, vã mồ hôi,
nôn thốc tháo và đi ngoài liên tục. Lúc này phải nhanh
chóng móc họng gây nôn, uống lòng trắng trứng, ủ ấm và
truyền dịch. Nếu bị phồng rộp da thì dùng nước muối 0,9%
rửa sạch, dùng panthenol xịt kín mặt da.
Cà độc dược
Có tên là mạn đà la. Tên khoa học là Datura metal L. Cà
độc dược có chứa chất hyoxin hay scopolamin và atropin.
Cây mọc hoang ở khắp nơi. Cà độc dược có vị cay, tính ôn,
đi vào kinh phế, chữa hen. Lấy lá phơi khô, thái nhỏ cuốn
như điếu thuốc để hút, chữa hen suyễn, ho kéo dài. Nước
sắc cà độc dược để ngâm, rửa chỗ đau do phong hàn, cước
khí. Cà độc dược còn chữa bệnh đau dạ dày, say xe, say
sóng, nôn oẹ. Dùng đắp ngoài chữa ung nhọt, sưng tấy.
Toàn bộ cây đều độc, nhất là lá và hạt. Chất độc là hyoxin
và atropin. Khi uống quá liều thì bị ngộ độc, triệu chứng

xuất hiện rất rầm rộ. Chất độc ức chế thần kinh trung ương
làm bệnh nhân choáng váng, vật vã, sốt, môi khô, miệng
khát, tim đập nhanh, thở yếu, đồng tử giãn, liệt tứ chi, hôn
mê rồi dẫn đến tử vong.

×