Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.38 KB, 43 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại và Tài chính của Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong những tổ chức Tài
chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt
động và dịch vụ của NHTM càng đi vào tận cùng ngõ ngách của nền
kinh tế và đời sống của con người.
Tuy vậy, cho đến nay, các nhà nghiên cứu, các nhà kinh doanh vẫn chưa nhất
trí với nhau về định nghĩa NHTM. Có tình trạng đó là do hoạt động của NHTM rất
đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ phức tạp và các vấn đề này lại luôn biến
động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác, do tập quán luật pháp của
mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ khác nhau đã tạo nên quan niệm về NHTM không
đồng nhất giữa các khu vực trên thế giới.
Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ NHTM là những xí nghiệp
hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký
thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, Tín dụng hay Tài chính ”.
Luật Ngân hàng của Ấn Độ 1950, được bổ sung 1959 đã nêu: “ Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký
thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư ”.
Luật Ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 lại định nghĩa: “ Những nhà băng
thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện Tín dụng và hối phiếu, thực hiện
các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm … ”.
Luật các tổ chức Tín dụng của Việt Nam: “ Ngân hàng là loại
hình tổ chức Tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan ”, mà tổ chức Tín dụng là
doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật để hoạt động kinh doanh
tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp Tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Tuy nhiên, có thể khái niệm một cách chung nhất rằng Ngân hàng là một đơn


vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với ba hoạt động chính là nhận tiền gửi,
cho vay và làm trung gian thanh toán.
Ngân hàng có quan hệ sâu rộng trong đời sống kinh tế và ảnh hưởng sâu sắc
đến quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Điều này được thể hiện cụ thể
qua các chức năng vốn có của NHTM. Đó là:
 Chức năng làm trung gian tín dụng: NHTM hoạt động như
một chiếc cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu tiền tệ trong xã
hội. Là trung gian Tín dụng, NHTM đóng vai trò là người môi giới giữa một
bên là những người có tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu
chi tiêu cần phải đi vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện
pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng
hiện đại, tiên tiến NHTM có khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền tệ
tiết kiệm, dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng lúc, đúng nơi, phù hợp
với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Làm như vậy có nghĩa là NHTM
biến những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi thành tiền hoạt động, biến những
đồng tiền nằm phân tán thành vốn tiền tệ tập trung phục vụ nhu cầu sản xuất
kinh doanh và qua đó mà phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
 Chức năng làm trung gian thanh toán: Khi NHTM ra đời và
phát triển, trong quá trình thực hiện làm trung gian Tín dụng họ đã thu hút
hầu hết các nhà kinh doanh có quan hệ buôn bán với nhau mở tài khoản tiền
gửi thanh toán tại Ngân hàng tạo cơ sở kinh tế cho Ngân hàng đứng ra làm
trung gian thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản, xuất từ tài khoản của
người mua để nhập vào tài khoản cuả người bán theo lệnh của họ; cho người
này vay để nhập vào tài khoản của người khác; chuyển tiền từ nơi này đến
nơi khác … phục vụ cho quá trình thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ. NHTM
là người thủ quỹ và là bộ máy kế toán đáng tin cậy của các nhà kinh doanh
trong việc làm trung gian nhận và trả tiền theo yêu cầu của họ. Không dừng
lại ở đó, sự phát triển của NHTM gắn liền với sự tiến bộ của khoa học- kỹ
thuật, dịch vụ thanh toán được mở rộng, thu hút các cơ quan, các tổ chức xã
hội và bộ phận đáng kể trong dân chúng mở tài khoản tiền gửi và thanh toán

qua Ngân hàng tạo thành một hệ thống thanh toán rộng khắp, thu hút phần
lớn chu chuyển tiền tệ qua Ngân hàng dưới hình thức tiền ghi sổ. Do đó, qua
quá trình thực hiện chức năng này, hệ thống NHTM đã góp phần quan trọng
làm giảm bớt khối lượng lưu thông tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông
thuần tuý, giúp cho việc trả và nhận tiền trong quá trình kinh doanh, mua
bán của các doanh nghiệp, các tổ chức cũng như các tầng lớp dân cư được
thuận lợi, nhanh chóng, an toàn. Đối với Ngân hàng, thực hiện chức năng
làm trung gian thanh toán tạo cho Ngân hàng có thể duy trì và nâng cao khả
năng thanh toán để mở rộng kinh doanh Tín dụng.
 Chức năng tạo tiền: Quá trình tạo tiền của NHTM bắt nguồn
từ quá trình phát triển hoạt động Tín dụng gắn liền với tổ chức mở rộng
thanh toán qua Ngân hàng. Bằng cách dùng tiền gửi của người này để cho
người khác vay, và cho vay người này lại tạo tiền gửi của những người khác
nằm trong hệ thống Ngân hàng, quá trình đó NHTM đã tự tạo được khối
lượng tiền gửi tăng thêm nhiều lần từ số tiền gửi đầu tiên (tiền gửi sử dụng
séc). Khối lượng tiền đó sẵn sàng cung ứng cho nhu cầu thanh toán, bởi vì
người ta có thể viết séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi của họ, séc được sử
dụng làm phương tiện thanh toán thay thế cho tiền trong việc mua bán hàng
hoá và trả các dịch vụ thanh toán khác. Có nghĩa là hệ thống NHTM có khả
năng tạo ra tiền dưới hình thức ghi sổ. Tuy nhiên không có nghĩa là NHTM
có thể tạo ra khối lượng tiền vô hạn, bởi vì cơ chế tạo tiền chỉ có thể được
khi hoạt động Tín dụng và thanh toán của hệ thống Ngân hàng phát triển ổn
định.
1.1.2. Tài chính Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Khái niệm Tài chính Ngân hàng thương mại.
Tài chính là một phạm trù giá trị tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá, là
khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ kinh tế trong việc phân phối sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Nhưng không phải mọi quan hệ kinh tế
trong nền kinh tế - xã hội đều thuộc phạm vi của Tài chính. Tài chính chỉ bao
gồm những quan hệ kinh tế, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các

quỹ tiền tệ, được sử dụng cho tái sử dụng đầu tư phát triển kinh tế và giải
quyết các nhu cầu thực hiện chứcnăng của Nhà nước. Tài chính NHTM là
một bộ phận cơ bản trong hệ thống Tài chính của Nhà nước ta hiện nay,là các
quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với tổ chức huy động phân phối, sử dụng và
quản lý trong quá trình kinh doanh.
Với tư cách là những tổ chức kinh doanh tiền tệ trên thị trường Tài
chính, các Ngân hàng tiến hành huy động vốn từ các chủ nợ và chủ sở hữu,
rồi sử dụng vào việc cho vay, đầu tư tìm kiếm lợi nhuận. Các hoạt động trên
hình thành các quan hệ Tài chính Ngân hàng. Như vậy, Tài chính Ngân hàng
là hệ thống dòng tiền tệ phản ánh sự vận động và chuyển hoá các nguồn Tài
chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn của Ngân
hàng, nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật. Tài
chính Ngân hàng phản ánh các quan hệ kinh tế đa dạng gắn liền với quá trình
tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2.2. Đặc điểm Tài chính Ngân hàng thương mại.
Do đặc điểm kinh doanh Ngân hàng nên Tài chính NHTM có những đặc điểm
khác biệt so với Tài chính của các loại hình doanh nghiệp khác. Tài chính Ngân
hàng có những đặc điểm như sau:
Một là, Tài chính Ngân hàng chứa đựng rủi ro tiềm ẩn cao, chi phí đầu ra
không phải lúc nào cũng lớn hơn chi phí đầu vao, Ngân hàng luôn đứng trước thử
thách về huy động vốn và cho vay, sự tích luỹ thiệt hại do không đáp ứng được
nhứng yêu cầu chi tiêu bất ngờ, hoặc do không kiểm soát được rủi ro ở mức thích
hợp làm xói mòn vốn của Ngân hàng, thậm chí dẫn tới hậu quả phá sản Ngân hàng.
Những thiệt hại này là khó tránh khỏi, khó có thể loại trừ tuyệt đối.
Hai là, Tài chính NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với Tài chính của khách
hàng. Bởi Tài chính NHTM gắn liền với quá trình vận động vốn của khách hàng.
Quy mô, chất lượng, số lượng vốn cũng như nguồn vốn ở Ngân hàng bị ảnh hưởng
rất nhiều bởi Tài chính của khách hàng. Do vậy Tài chính NHTM hết sức nhạy
cảm và phụ thuộc phần lớn vào tình hình Tài chính của khách hàng.
Ba là, Tài chính NHTM rất đa dạng và phức tạp, Tài chính NHTM gồm nhiều

khoản, nhiều thành phần, kết cấu của từng khoản mục này cũng khác nhau, vì vậy
Ngân hàng rất khó kiểm soát được đầy đủ.
1.1.2.3. Vai trò của Tài chính Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh Ngân
hàng.
Trong điều kiện môi trường kinh doanh hiện nay, Tài chính Ngân hàng có đầy
đủ các điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò của mình trên những mặt sau:
- Tài chính Ngân hàng có vai trò trong việc phân phối và phân phối lại các
nguồn Tài chính. Như vậy Tài chính Ngân hàng là một môi trường kinh tế để cho
các nguồn Tài chính vận động, từ đó mà huy động và sử dụng vốn và nguồn vốn
một cách hiệ quả nhất. Tài chính Ngân hàng đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể
được phân phối qua đó duy trì được các hoạt động của họ.
- Tài chính là công cụ giúp Ngân hàng khai thác triệt để các nguồn lực nhằm
đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng một cách thường
xuyên đều đặn. Trong nền kinh tế thị trưường, sự hoạt động của quy luật cung cầu
rất mạnh mẽ, ở lĩnh vực nào có nhu cầu, thì ở đó có nguồn cung cấp. Đây là môi
trường hết sức thuận lợi cho các Ngân hàng chủ động khai thác, thu hút các nguồn
vốn trong xã hội nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của mình. Vấn đề ở
chỗ người quản lý phải xác định chính xác nhu cầu về vốn, cân nhắc lựa chọn các
hình thức, phương pháp thích hợp để khai thác thu hút vốn, lựa chọn phương án
kinh doanh có hiệu quả, linh hoạt sử dụng các nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh
toán chi tiêu.
- Tài chính Ngân hàng có chức năng giám sát hoạt động của Ngân hàng, từ đó
góp một phần vào kiểm tra hoạt động của Ngân hàng, thông qua chức năng giám
đốc chúng ta có được thông tin, thông tin này vừa được dùng để phân tích thực
chất hoạt động của Ngân hàng đồng thời còn so sánh đánh giá giữa hoạt động của
Ngân hàng này với Ngân hàng khác, từ đó có thể đặt ra được những kế hoạch, định
hướng cho Ngân hàng mình.
Tình hình Tài chính Ngân hàng là tấm gương phản ánh trung thực mọi hoạt
động - kinh doanh của Ngân hàng, thông qua các số liệu kế toán, các chỉ tiêu Tài
chính … Người quản lý có thể dễ dàng nhận biết được thực trạng tốt xấu trong quá

trình hoạt động của Ngân hàng. Với khả năng đó, người quản lý có thể kịp thời
phát hiện những lệch lạc trong sử dụng Tài chính và các nguyên nhân của nó để
điều chỉnh quá trình hoạt động kinh doanh nhằm các mục tiêu đã được dự định.
1.2. Quản trị Tài chính Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1. Khái niệm về Quản trị Tài chính Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng ra đời gắn liền với sự vận động của vốn trong quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, chính sản xuất và lưu thông hàng
hoá ra đời và mở rrộng đã kéo theo sự vận động của vốn và là nền tảng
tạo nên những tổ chức kinh doanh tiền tệ đầu tiên mang những đặc
trưng của một Ngân hàng. Đến nay hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở
Việt Nam đã đa phương, đa lĩnh vực và vươn ra ngoài quốc tế, góp
phần khơi dậy, phân phối có hiệu quả các nguồn vốn để phục vụ cho
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quản trị Ngân hàng
đó là việc thiết lập các chương trình hoạt động kinh doanh để đạt các
mục đích, mục tiêu kinh doanh dài hạn và ngắn hạn của Ngân hàng, là
việc xác định và điều hoà các nguồn tài nguyên để thực hiện chương
trình, các mục tiêu kinh doanh, đó là việc tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra
nhân viên của Ngân hàng thực hiện chương trình, các mục tiêu đã đề ra.
Những hoạt động này được xuất phát từ nhu cầu mục tiêu chung và
hướng vào việc điều hoà các nguồn lực Tài chính để đạt được mục
đích, mục tiêu của Ngân hàng.
Theo tinh thần đó có thể định nghĩa: Quản trị Tài chính Ngân hàng thực chất
là quá trình tiến hành hoạch định, tổ chức thực hiện và kiểm tra, kiểm soát việc tạo
vốn, sử dụng vốn cũng như huy động vốn sao cho thích hợp với điều kiện môi
trường kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Quản trị Tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng lợi nhuận Ngân hàng
trong mọi thời kỳ hoạt động, những quyết định liên quan tới việc đo lường, đánh
giá, xây dựng và kiểm soát việc thực hiện kế hoạch lợi nhuận của Ngân hàng.
1.3.2. Nội dung Quản trị Tài chính Ngân hàng thương mại.
Quản trị Tài chính NHTM hết sức phức tạp bao gồm nhiều nội dung nhưng

các nhà Quản trị Ngân hàng thường tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
- Quản trị Tài sản Có.
- Quản trị Tài sản Nợ.
- Quản trị kết quả Tài chính.
1.3.2.1. Quản trị Tài sản Có.
1.3.2.1.1. Khái niệm Tài sản Có và Quản trị Tài sản Có.
Mỗi Ngân hàng là một pháp nhân đựoc Nhà nước cho phép thành lập, chúng
có mục đích hoạt động nhất định, có bộ máy tổ chức chặt chẽ và xuất hiện trên thị
trường với tư cách là một chủ sở hữu tài sản.
Tài sản của Ngân hàng là toàn bộ những thứ có giá trị mà Ngân hàng hiện có
quyền sở hữu hoặc hiện có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một cách hợp
pháp. Chúng là kết quả của các hoạt động trong một thời kỳ trước đó và có khả
năng mang lại lợi tức cho Ngân hàng.
Về hình thức, tài sản của Ngân hàng có thể tồn tại dưới dạng những tài sản
thực (vật có thực), tiền, các tài sản Tài chính khác, tài sản vô hình …
Về nguồn gốc, tài sản của Ngân hàng được hình thành từ 3 nguồn chính: Tiền
gửi của khách hàng và tiền cho vay của Ngân hàng Trung ương và những người
cho vay khác của Ngân hàng, vốn góp của chủ sở hữu Ngân hàng và vốn tích luỹ
lợi nhuận sau các thời kỳ kinh doanh.
Tài sản của một Ngân hàng thay đổi cả về mặt quy mô, kết cấu, hình thức và
tính chất … gắn liền với quá trình hoạt động của Ngân hàng. Việc theo dõi, phản
ánh, ghi chép những biến đổi đó được thực hiện bởi bộ máy kế toán của Ngân
hàng, phản ánh trên các tài khoản, trong sổ sách kế toán.
Tài sản Có là một khái niệm kinh tế - kế toán. Các nhà nghiên cứu và quản lý
định nghĩa: Tài sản Có của Ngân hàng là giá trị tiền tệ của các tài sản mà Ngân
hàng hiện có, hiện đang sử dụng vào các mục đích khác nhau, tính đến một thời
điểm nhất định.
Do vậy, Quản trị Tài sản Có của Ngân hàng thực chất là quá trình tiến hành
hoạch định, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc sử dụng vốn của Ngân hàng sao cho
thích hợp với điều kiện môi trường kinh doanh, nhằm đạt các mục tiêu cơ bản của

Ngân hàng.
Nội dung chính trong đó là đưa ra các quyết định, tổ chức thực hiện và kiểm
tra việc thực hiện các quyết định liên quan đến việc xác định quy mô, loại hình, cơ
cấu … của Tài sản Có nhằm đạt các mục tiêu cơ bản của Ngân hàng sao cho thích
hợp với điều kiện môi trường kinh doanh.
1.3.2.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và mô hình Quản trị.
a. Mục tiêu và nhiệm vụ Quản trị.
Xuất phát từ đặc thù của lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng, trong mọi trường
hợp, những nhà Quản trị Ngân hàng đều phải đồng thời quan tâm tới cả các mục
tiêu vĩ mô và vi mô.
Trên phương diện vĩ mô, mỗi Ngân hàng là một yếu tố cấu thành của hệ thống
Tài chính - Ngân hàng của nền kinh tế. Mặc dù không phải là các mục tiêu tự thân,
nhưng bằng cách này hoặc cách khác thì những nhà Quản trị ở các Ngân hàng luôn
phải quan tâm tới các mục tiêu chung của cả hệ thống mà những mục tiêu này
thường được đảm trách trước hết bởi các cơ quan điều hành hệ thống Tài chính -
Ngân hàng. Đó là các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ, ổn định giá
cả và tạo công ăn việc làm.
Trên phương diện vi mô, những nhà Quản trị Ngân hàng luôn phải quan tâm
tới ba mục tiêu cơ bản:
- Một là, tối đa hoá lợi nhuận Ngân hàng.
- Hai là, giảm thiểu các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh.
- Ba là, đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng cả trong ngắn hạn và dài
hạn.
Những mục tiêu này trực tiếp chi phối hầu hết mọi quá trình ra quyết định của
những nhà Quản trị tại mỗi Ngân hàng. Vì việc đạt được đồng thời cả ba mục tiêu
này chung quy lại chính là duy trì và tăng tài sản ròng của Ngân hàng. Do đó cũng
có thể nói mục tiêu cơ bản tổng quát của những nhà Quản trị Ngân hàng trong
trường hợp này chính là duy trì và làm tăng tài sản ròng của Ngân hàng.
Tuy nhiên, lợi nhuận, rủi ro và khả năng thanh toán của Ngân hàng không chỉ
là kết quả của công việc Quản trị Tài sản Có mà còn là kết quả của Quản trị Tài

sản Nợ và những hoạt động khác. Trong điều kiện này các mục tiêu trọng yếu, trực
tiếp của Quản trị Tài sản Có chính là tối đa các thu nhập, giảm thiểu các rủi ro(kể
cả rủi ro thanh toán) gắn với việc nắm giữ các Tài sản Có.
Hướng tới các mục tiêu cơ bản đó, những nhiệm vụ cơ bản của những nhà
Quản trị Ngân hàng bao gồm:
- Thứ nhất là hoạch định các danh mục tài sản sao cho tối ưu hoá các mục tiêu
của Ngân hàng về lợi nhuận, về rủi ro và khả năng thanh toán.
- Thứ hai là thực hiện kế hoạch đề ra, sao cho thích hợp với điều kiện môi
trường kinh doanh.
- Thứ ba là kiểm tra, đánh giá việc thực hiện dựa trên đường lối và các tiêu
chuẩn mục tiêu.
Nội dung cơ bản trong các nhiệm vụ của những nhà Quản trị
Ngân hàng ở đây chính là phân tích, lựa chọn và ra các quyết định về
tài sản Ngân hàng.
b. Mô hình Quản trị.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, nhà Quản trị Ngân hàng phải quyết định
những cách thức trong việc phân bổ quỹ vốn mà các Ngân hàng thu hút được vào
việc nắm giữ các tài sản nhằm đáp ứng các mục tiêu cơ bản của nó. Vì vậy mô
hình Quản trị Tài sản Có là sự cụ thể hoá mô hình kinh doanh chung của Ngân
hàng, chủ yếu đề cập tới những khác nhau về trật tự ưu tiên trong phân bổ quỹ vốn.
Dưới đây, ta xem xét một vài dạng mô hình Quản trị Tài sản Có đã và đang
được áp dụng trên thực tế.
 Quản trị quỹ tập trung: Tư tưởng cơ bản là tập trung mọi
nguồn vốn của Ngân hàng lại, không kể nguồn gốc, sau đó vốn này sẽ được
dùng mua bất cứ Tài sản Có nào được xem là thích hợp với mục tiêu của
Ngân hàng.
Theo cách này, các mục tiêu ưu tiên của Ngân hàng sẽ được đáp ứng một
cách tập trung và nhanh chóng. Ngân hàng giải quyết việcưu tiên giữ tài sản dưới
hình thức thanh khoản cao, hoặc cho vay, hoặc mau chứng khoán nhiều hay ít là lệ
thuộc phần nhiều vào quân điểm và sự đánh giá thực tế về khả năng đáp ứng mục

tiêu lợi nhuận hoặc rủi ro của bộ máy Quản trị của chính các tài sản.
Trên thực tế tỷ lệ phân chia quỹ vốn thường mang tính ước lệ. Sự
lệ thuộc chặt chẽ vào kinh nghiệm, quan điểm và động cơ của những
nhà Quản trị các cấp có ảnh hưởng hạn chế khá lớn mục tiêu tối đa lợi
nhuận của chủ sở hữu vì xét trên quan điểm lợi ích cá nhân nhiều cán
bộ Quản trị thực hành hay có xu hướng né tránh rủi ro. Hơn nữa không
có gì đảm bảo rằng mọi sự phán đoán hay mọi kinh nghiệm cá nhân
đều đúng và do đó rất có thể dẫn dến các tình trạng kiểu như quá thừa
hay quá thiếu thanh khoản, hoặc sự gia tăng rủi ro Tín dụng tới mức
không kiểm soát được hoặc dưới dạng không có vốn đầu tư vào các Tài
sản Có tương ứng để đạt các chỉ tiêu kế hoạch về lợi nhuận. Kiểu mô
hình Quản trị này thường chỉ thích hợp với Ngân hàng nhỏ, hoạt động
tập trung trong những khu vực thị trường địa phương nhất định, trong
các môi trường kinh doanh tương đối ổn định, ít rủi ro.
 Quản trị quỹ phân tán: Tư tưởng cơ bản trong mô hình Quản
trị kiểu này là người ta phân loại Tài sản Có thành các nhóm lớn theo các
đặc tính cơ bản của chúng, các quyết định về tỷ lệ phân bổ quỹ vốn thu hút
được đuă ra trên cơ sở xem xét về sự đáp ứng của chúng đối với các tiêu
chuẩn mục tiêu và các tiêu chuẩn về tính thích hợp về các đặc tính của mỗi
nhóm Tài sản Có. Đồng thời trong đó người ta cũng xem xét tới sự thích ứng
tương đối về đặc điểm các nhóm Tài sản Có với tư cách các công cụ thu hút
vốn, tài trợ cho việc nắm giữ các Tài sản Có được thiết lập xuất phát từ các
mục tiêu ưu tiên.
Việc áp dụng phương thức này dẫn đến hình thành trong Ngân hàng nhiều
trung tâm sử dụng quỹ vốn, gồm các trung tâm “thanh khoản” và “sinh lời”, và
giữa chúng dường như có độc lập tương đối với nhau. Các nguồn tiền gửi không
kỳ hạn và tiền vay ngắn hạn, thường có tốc độ quay vòng nhanh, ít ổn định, do đó
chúng phải tập trung áp dụng cho các nhu cầu về dự trữ tiền mặt, đầu tư chứng
khoán ngắn hạn hoặc cho vay ngắn hạn. Nhu cầu cho vay và đầu tư trung, dài hạn
phải được tài trợ từ các nguồn tiết kiệm, tiền gửi và tiền vay có kỳ hạn hoặc từ vốn

của Ngân hàng. Việc mua sắm Tài sản cố định phải được giới hạn trong số vốn tự
có của Ngân hàng …
Nhìn chung phương thức Quản trị này ưu thế hơn so với phương
thức thứ nhất, trong giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu thanh toán và
nhu cầu lợi nhuận. Người ta luôn có những tỷ lệ phân phối quỹ vốn có
được vào các tài sản mang tính tiêu chuẩn và tương đối ổn định. Tuy
nhiên kiểu Quản trị này thường chưa khai thác được khả năng tạo lợi
nhuận tối đa cho đồng vốn thu hút được do chưa tính tới đặc điểm về
tính đến biến động khác nhau giữa từng loại nguồn vốn và tổng nguồn
vốn, hoặc chưa tính tới đặc điểm về tính đến biến động khác nhau giữa
từng loại nguồn vốn cùng nhóm, loại nhưng có chủ sở hữu khác nhau,
hoặc chưa tính tới đặc điểm về phát sinh các loại nguồn vốn có thể dẫn
đến phát sinh các tài sản kèm theo. Hơn nữa trên thực tế thường dẫn
đến xu hướng quá nhấn mạnh nhu cầu thanh khoản và do đó làm hạn
chế khả năng thu lời của Ngân hàng.
 Quản trị quỹ linh hoạt: Trong trường hợp này, người ta hoạch
định trước các danh mục Tài sản Có theo các điều kiện giá cả thị trường dự
kiến và thích hợp với mục tiêu của Ngân hàng. Đồng thời dự kiến trước các
khoản bù đắp thích hợp giữa các Tài sản Có và Tài sản Nợ theo các đặc tính
khác nhau về thu nhập rủi ro, khả năng thanh khoản, thời hạn và các đặc tính
khác. Mặt khác trong quá trình thực hiện các kế hoạch đầu tư vốn, người ta
sẽ tiến hành hàng loạt các nghiệp vụ mua bán, hoán đổi tài sản, hoán đổi lãi
suất và các nghiệp cụ khác, nhằm khoá chặt giá trị danh mục Tài sản Có,
tương thích với các mục tiêu cơ bản của Ngân hàng đã được hoạch định.
Điểm đặc trưng của phương thức Quản trị này là người ta không chỉ đặt trọng
tâm Quản trị vào Tài sản Có mà đã gắn với các vấn đề về Quản trị Tài sản Nợ, gắn
kế hoạch sử dụng vốn một cách linh hoạt hơn tới kế hoạch về nguồn vốn của Ngân
hàng, tập trung quan tâm nhiều đến lợi tức cơ bản ròng của Ngân hàng, đến các đặc
điểm về lãi suất và thời gian đáo hạn của tài sản và đặc biệt nhấn mạnh việc quản
lý giá trị thị trường của tài sản bằng việc dự tính trước.

Tuy nhiên việc dự tính này không phải khi nào cũng chính xác, do đó có thể
gây ra những rủi ro. Mặt khác rõ ràng sẽ có nhiều kỹ thuật phức tạp mà không phải
Ngân hàng nào cũng có đủ năng lực, điều kiện, hoàn cảnh để triển khai. Hơn nữa
nó cũng chưa cho phép giải quyết triệt để được các mâu thuẫn nằm trong căn
nguyên của các rủi ro nhất là rủi ro Tín dụng.
1.3.2.1.3. Quản trị dự trữ tiền mặt và thanh khoản.
Thực chất của việc Quản trị ở đay là chủ động kiểm soát khả năng tiền mặt,
khả năng chi trả ngắn hạn của Ngân hàng nhằm đảm bảo chi thấp nhất có thể và
luôn đủ sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu chi trả trong thời kỳ hoạt động tiếp theo.
Để đạt được mục tiêu đề ra, nhà Quản trị cần thực hiện nhiều khâu công việc,
những khâu cơ bản trong đó gồm:
a. Đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc.
Việc các Ngân hàng phải thực hiện Quy chế dự trữ bắt buộc do các cơ quan
kiểm soát tiền tệ đặt ra, đã trở thành thông lệ chung đối với hầu khắp các hệ thống
Tài chính quốc gia trên thế giới.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các Ngân hàng bắt buộc phải duy trì dưới những
hình thức tài sản dự trữ như tiền mặt tại quỹ của Ngân hàng, tiền gửi của Ngân
hàng tại Ngân hàng Trung Ương (NHTW). Tuy vậy trong nhiều trường hợp chẳng
hạn ở Việt Nam hiện nay thì dự trữ bắt buộc chỉ gồm tiền gửi của Ngân hàng tại
NHTW.
Tiền dự trữ bắt buộc được tính trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân
trong kỳ tại Ngân hàng nhân với tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của NHTW.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị các tài sản dự
trữ bắt buộc so với tổng số dư những loại tiền gửi phải duy trì dự trữ bắt buộc. Tỷ
lệ này cho biết trên mỗi trăm đồng tiền gửi phải duy trì dự trữ bắt buộc mà Ngân
hàng thu nhận được, có bao nhiêu đồng được lưu giữ dưới dạng các tài sản dự trữ
bắt buộc và bao nhiêu đồng đã được đem cho vay, đầu tư hay sử dụng vào các mục
đích khác. Quy định về tỷ lệ này sẽ thay đổi tuỳ thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của
chính sách tiền tệ ở từng thời kỳ. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được quy định riêng
cho từng loại tiền gửi phải duy trì dự trữ bắt buộc.

Những loại tiền gửi phải duy trì dự trữ bắt buộc thường bao gồm: tiền gửi
không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn với một mức kỳ hạn nhất định, bao gồm cả tiền
gửi bằng đồng nội tệ và ngoại tệ (được quy đổi thành một đồng tiền nào đó, với
một tỷ giá nào đó theo quy định).
Vì tài sản dự trữ bắt buộc không mang lại lợi tức hoặc có thì rất nhỏ trong khi
đó Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền, nên nó như là yếu tố gây lên chi
phí và nếu dự trữ ở mức cao sẽ làm tăng chi phí và do đó làm giảm lợi nhuận Ngân
hàng. Chính vì thế các Ngân hàng thường có xu hướng duy trì chúng ở mức tối
thiểu, bằng với mức được quy định.
Nhiệm vụ của nhà Quản trị Ngân hàng ở đây là phải kiểm tra, đánh giá
thường xuyên và định kỳ về tình hình đáp ứng yêu cầu dự trữ bắt buộc của Ngân
hàng trên thực tế và chỉ ra những điều chỉnh cần thực hiện nhằm đảm bảo rằng: Số
dư tài khoản tài sản dự trữ trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc (số dư hay số tiền dự trữ
thực tế) không thấp hơn số tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ (số tiền bắt buộc phải có).
Nghĩa là Ngân hàng cần đảm bảo rằng tương quan giữa hai đại lượng này phải
khớp nhau. nếu dự trữ thực tế trừ đi số dự trữ phải có mà cho kết quả dương thì
Ngân hàng thừa dự trữ, ngược lại nếu cho kết quả âm thì Ngân hàng thiếu dự trữ.
Trường hợp dư thừa dự trữ (Số dư tài khoản tài sản dự trữ bắt buộc – Số tiền
dự trữ bắt buộc trong kỳ dự trữ bắt buộc > 0), Ngân hàng có thể được hưởng một
mức lãi suất (thường rất nhỏ) tính theo số vượt mức trên số dư tài khoản dự trữ bắt
buộc.
Trường hợp thiếu hụt dự trữ (Số dư tài khoản tài sản dự trữ bắt buộc – Số tiền
dự trữ bắt buộc trong kỳ dự trữ bắt buộc < 0), Ngân hàng thường phải chịu phạt với
một mức lãi suất phạt (thường khá cao) tính theo số thiếu hụt trên số dư tài khoản
dự trữ bắt buộc. Số tiền phạt tính bằng tỷ lệ phạt nhân với số thiếu hụt.
b. Kiểm soát trạng thái tiền mặt.
Phép đo trạng thái tiền mặt của Ngân hàng bao gồm 04 loại thuộc Tài sản Có
cơ bản như sau:
 Tiền mặt tại quỹ: Là số tiền mặt mà Ngân hàng giữu để đáp
ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày của mình. Nếu tại quỹ Ngân hàng có nhiều

tiền mặt hơn so với nhu cầu thì Ngân hàng sẽ đem gửi số tiền đó vào NHTW
hoặc Ngân hàng đại lý. Trường hợp ngược lại, Ngân hàng sẽ phải rút tiền
mặt về từ NHTW hay Ngân hàng đại lý.
 Tiền gửi của Ngân hàng tại Ngân hàng Trung Ương: Đây
chính là số dư tiền gửi của Ngân hàng tại NHTW. Tài khoản này là tài khoản
dự trữ cơ bản của các Ngân hàng và các Ngân hàng bắt buộc phải duy trì tài
khoản này. sau khi thanh toán bù trừ séc và chuyển tiền điện tử, mọi khoản
phải thu hoặc phải tra còn lại sẽ được ghi có hay ghi nợ vào tài khoản này.
số dư tài khoản tăng lên nếu Ngân hàng mua số dự trữ dư thừa của các Ngân
hàng khác thể hiện trên số dư tài khoản tiền gửi tại NHTW, vay NHTW, gửi
thêm tiền mặt hoặc nhận tiền thanh toán tín phiếu và trái phiếu Kho Bạc đến
hạn. Khi muốn giảm số dư tài khoản này, Ngân hàng có thể cho các Ngân
hàng khác vay số dự trữ nhàn rỗi của mình, trả nợ NHTW, rút tiền mặt và
trực tiếp mua các chứng khoán Kho Bạc.
 Tiền gửi của Ngân hàng tại các NHTM khác: Bao gồm toàn
bộ số dư tiền gửi của Ngân hàng tại các NHTM khác. Các Ngân hàng không
phải thường duy trì một số dư tiền gửi nhát định tại các NHTM khác, nhưng
số tiền này không được tính vào tổng số tiền dự trữ bắt buộc của Ngân hàng.
Để bù lại, Ngân hàng nhận gửi sẽ cung cấp cho các Ngân hàng gửi tiền
nhiều loại hình thức dịch vụ khác nhau như hợp vốn cho vay, giao dịch quốc
tế và tư vấn đầu tư.
 Tiền mặt đang trong quá trình nhờ thu: Là giá trị các séc mà
Ngân hàng đã nộp vào NHTW hoặc tại Ngân hàng chủ trì trong hệ thống
thanh toán bù trừ nhưng chưa được thanh toán (Chưa được ghi Có). Khoản
mục này nhiều hay ít là phụ thuộc vào giá trị các tờ séc và thời gian cần thiết
để thanh toán các séc đó.
Nhiệm vụ về kiểm soát trạng thái tiền mặt của Ngân hàng thường được đảm
nhiệm bởi những nhà Quản trị phụ trách các hoạt động kho quỹ và các giao dịch
trên thị trường tiền tệ. Họ cần tìm cách cân đối giữa yêu cầu dự trữ với trạng thái
dự trữ thực tế. Họ phải tiến hành tính toán dự trữ dự kiến cho kế hoạch. số tiền dự

trữ dự kién kỳ kế hoạch được điều chỉnh theo số tồn dư kỳ trước sẽ cho biết trạng
thái của Ngân hàng khi bắt đầu của kỳ kế hoạch. Dựa trên những dự báo đó, Ngân
hàng có thể quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để duy trì trạng thái này với
một số dư hợp lý này theo tình hình thực tế.
c. Quản trị thanh khoản.
Quản trị thanh khoản là một nội dung quan trọng của Quản trị Tài chính đối
với tất cả các định chế Tài chính. Các định chế Tài chính đều tham gia vào quá
trình trung gian hoá, đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn. Do vậy họ nhất thiết phải
ứng phó với tình trạng thiếu thanh khoản tiềm tàng. Tình trạng thiếu thanh khoản
cần phải được xem xét với mức dự kiến thanh khoản cần thiết. Và do vậy cần xây
dựng một chiến lược nhằm đáp ứng yêu cầu thanh khoản này.
 Đánh giá nhu cầu thanh khoản.
Nhu cầu thanh khoản của Ngân hàng bao gồm việc đáp ứng nhu cầu nghiệp
vụ tức thời dưới dạng rút tiền gửi hoặc yêu cầu xin vay hợp lệ của khách hàng.
Điều này lệ thuộc quan trọng vào lòng tin và việc ra quyết định gửi tiền và cho vay
của ngươì gửi tiền và các chủ nợ Ngân hàng. Vì vậy rất khó có thể xác định nhu
cầu thanh khoản và khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản Ngân hàng vì chúng ta
không rõ những người gửi tiền và người cho vay tin tưởng vào Ngân hàng đến mức
nào.
 Xác định nhu cầu thanh khoản tĩnh.
Theo phương pháp truyền thống, người ta thường xác định mức độ thanh
khoản bằng cách sử dụng các tỷ lệ dựa trên số liệu tĩnh của bảng tổng kết tài sản.
trong đó, Tài sản Có của Ngân hàng thường được phân chia thành 2 nhóm: Nhóm
có tính thanh khoản cao, tức là dễ dàng chuyển thành tiền mặt mà không làm tăng
chi phí và nhóm có tính thanh khoản có đặc điểm ngược lại.
Nhiệm vụ của Quản trị là phải xác định nhu cầu thanh khoản trong trạng thái
động, lợi nhuận trong tương lai sẽ bị ảnh hưởng nếu Ngân hàng giữ quá nhiều
nguồn thanh khoản và khả năng sinh lời thấp so với nhu cầu thực sự của mình. Mặt
khác nếu duy trì mức thanh khoản quá thấp thì lại có khả năng sinh ra vấn đề Tài
chính nghiêm trọng, thậm chí là đổ vỡ Ngân hàng.

 Xác định nhu cầu thanh khoản động.
Nhiệm vụ của các nhà Quản trị đòi hỏi phải ước tính một cách
khá chính xác nhu cầu thanh khoản ngắn hạn, nhu cầu thanh khoản theo
chu kỳ, và nhu cầu thanh khoản mang tính chất xu hướng. để làm được
như vậy Ngân hàng phải dựa trên kinh nghiệm thực tế trong quá khứ và
hiểu biết của mình về những sự kiện có thể tác động đến nhu cầu thanh
khoản, áp dụng phương pháp thích hợp để xác định nhu cầu thanh
khoản này tại trạng thái động và tiếp đến phải xem xét các nguồn vốn
có thể sử dụng thích hợp cho việc thoả mãn nhu cầu thanh khoản này.
 Đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Đáp ứng như cầu thanh khoản của Ngân hàng thường cũng phức tạp không
kém so với việc xác định nhu cầu đó. Ở đây chung sta sẽ cùng nhau điểm qua
những nguòn có thể để thoả mãn nhu cầu thanh khoản của Ngân hàng và những
biện pháp để cân đối giữa nhu cầu thanh khoản với những nguồn này:
 Các nguồn thanh khoản.
Các nguồn thanh khoản được chia thành 3 loại cơ bản:
- Loại thứ nhất bao gồm các tài sản được hình thành từ số tiền đầu tư với sự
đảm bảo rằng khi cần thanh khoản này sẽ đương nhiên đến hạn và được thanh toán,

×