Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ CHI PHÍ TẠI TỔNG CÔNG TY THÉP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.6 KB, 37 trang )

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ CHI PHÍ TẠI TỔNG
CÔNG TY THÉP VIỆT NAM
3.1. Mục tiêu phát triển và sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí tại Tổng
Công ty Thép Việt Nam
3.1.1. Mục tiêu phát triển của Tổng Công ty Thép Việt Nam
Ngành sản xuất thép ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước quan tâm xây
dựng từ rất sớm. Tổng Công ty thép Việt Nam được thành lập theo Quyết định số
255/TTg ngày 29 tháng 4 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ. Từ khi ra đời cho
đến nay, Tổng Công ty Thép Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và
thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.
Trong 5 năm 1995 - 1999, công tác đầu tư phát triển của Tổng công ty chủ
yếu tập trung cải tạo, nâng cao công suất các nhà máy hiện có, đẩy mạnh liên
doanh, liên kết với nước ngoài để tranh thủ vốn và công nghệ hiện đại. Đồng thời
chuẩn bị cho bước phát triển tiếp theo, Tổng công ty đã phối hợp với Tổ chức JICA
- Nhật Bản lập Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thép Việt Nam đến năm 2010;
lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Nhà máy Thép liên hợp 4,5 triệu tấn/năm tại
Hà Tĩnh bằng vốn ODA của Nhật Bản và lập các báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả
thi một số dự án khác.
Giai đoạn 2000 đến 2004, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số
134/2001/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thép Việt Nam
đến năm 2010. Nội dung chính là “phát triển ngành thép trở thành một trong những
ngành công nghiệp trọng điểm của nền kinh tế; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu
tiêu dùng trong nước, tiến tới xuất khẩu; đẩy mạnh sản xuất, tạo nhiều việc làm,
góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Mục tiêu của ngành Thép đến năm 2010, sản xuất phôi thép tăng bình quân
15%/năm; sản xuất thép cán tăng bình quân 10%/năm.
Trong 10 năm (1995 - 2004), Tổng công ty đã có nhiều đóng góp cho nền
kinh tế đất nước. Tổng công ty và các đơn vị thành viên triển khai thực hiện 157 dự
án đầu tư cải tạo và đầu tư mới với tổng vốn là 6.600,5 tỷ đồng


Cùng với việc triển khai các dự án, Tổng công ty đã nghiên cứu triển khai
lập báo cáo nghiên cứu khả thi (F/S) và báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (Pre F/S)
một số dự án chuẩn bị cho đầu tư phát triển trong giai đoạn 2006-2010 và chuẩn bị
cho tương lai.
Năng lực sản xuất thép cán năm 2005 của Tổng công ty đạt 1,8 triệu
tấn/năm (thép dài 1,6 triệu tấn/năm và thép dẹt 205.000 tấn/năm), tăng gấp 4,5 lần
so với năm 1995. Năng lực sản xuất phôi thép năm 2005 đạt 1,1 triệu tấn/năm, tăng
gấp 3,7 lần so với năm 1995.
Cơ cấu chủng loại sản phẩm đã và đang được đa dạng hoá, bên cạnh phôi
thép và thép cán (thép thanh, thép dây), đến năm 2005 Tổng công ty có thêm các
sản phẩm mới như thép hình, thép lá, ống thép, vật liệu luyện kim và vật liệu xây
dựng v.v... Trình độ công nghệ sản xuất, so với thời kỳ năm 1995 đến nay một số
nhà máy mới đạt mức tiên tiến trong khu vực và thế giới với thiết bị hiện đại, công
nghệ tiên tiến.
Tham gia đảm bảo cung cấp đủ thép xây dựng cho nền kinh tế và từng bước
xuất khẩu sang một số nước trong khu vực (trước năm 1995 nền kinh tế Việt Nam
chủ yếu nhập khẩu thép xây dựng do Tổng công ty Kim khí làm đầu mối); các
thương hiệu TISCO (Công ty Gang thép Thái Nguyên), Thép chữ V (Công ty Thép
Miền Nam), Thép “MT”, Thép “DN” đạt tiêu chuẩn chất lượng theo ISO
9001:2000, được người tiêu dùng tín nhiệm và được tặng Huy chương Vàng, các
giải Vàng tại các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao.
Để tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết
Trung ương 9, Khoá IX và quy hoạch phát triển Tổng công ty theo Quyết định số
134/2001/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu
của Tổng công ty giai đoạn 5 năm 2006 - 2010, cụ thể:
1. Hoàn thành việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2005-
2006 theo Quyết định số 08/2005/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ và sự chỉ đạo của Bộ Công nghiệp về cổ phần hoá 5 doanh
nghiệp thành viên.
2. Xây dựng Đề án chuyển Tổng công ty sang hoạt động theo mô hình công

ty mẹ - công ty con, từng bước xác lập và hình thành Tập đoàn Thép Việt Nam,
kinh doanh đa ngành trên cơ sở sản xuất và kinh doanh thép làm nền tảng; có các
loại hình công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh và công ty TNHH.
3. Trong giai đoạn 5 năm 2006-2010, phấn đấu sản lượng thép cán tăng
trưởng bình quân 10-15%/năm (thép cán đạt 50% thị phần thép cả nước); phôi thép
cơ bản đáp ứng nhu cầu cho sản xuất của Tổng công ty và đáp ứng một phần nhu
cầu về thép chất lượng cao, thép dự ứng lực cho nền kinh tế. Đầu tư đổi mới công
nghệ, đưa trình độ công nghệ của Tổng công ty đạt mức tiên tiến chung của khu
vực, đảm bảo khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thép tại thị trường trong nước
và quốc tế.
4. Tiếp tục đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ
các cơ sở hiện có; đầu tư mở rộng Công ty Gang thép Thái Nguyên giai đoạn II để
đạt công suất 75 vạn tấn phôi thép/năm; tiếp tục đầu tư Nhà máy cán Thép Đà
Nẵng 25 vạn tấn/năm; đầu tư liên doanh khai thác mỏ quặng sắt Quý Xa và liên
hợp luyện kim Lào Cai; đầu tư Nhà máy Thép Phú Mỹ II, công suất 50 vạn tấn
phôi thép/năm; đầu tư dự án Nhà máy phôi thép phía Bắc, công suất 50 vạn tấn
phôi thép/năm; đầu tư mở rộng Công ty Thép Tấm lá Phú Mỹ nâng công suất lên
60 đến 65 vạn tấn/năm; đầu tư dự án Nhà máy thép tấm cán nóng 1,5 -2 triệu
tấn/năm. Tích cực chuẩn bị để triển khai đầu tư khai thác Mỏ quặng sắt Thạch Khê
và Nhà máy thép liên hợp 4,5 triệu tấn/năm vào cuối kế hoạch 5 năm 2006-2010.
3.1.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí tại Tổng Công ty Thép Việt
Nam
Ngành công nghiệp sản xuất thép là một trong những ngành công nghiệp
mũi nhọn của nền kinh tế. Đứng trước những khó khăn và thuận lợi của việc hội
nhập kinh tế quốc tế, để giữ vững vai trò là ngành công nghiệp chủ lực góp phần
vào công cuộc phát triển chung của đất nước, giải quyết công ăn việc làm, tạo động
lực phát triển cho các ngành khác, các doanh nghiệp sản xuất thép rất cần phải
hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc
tăng cường quản trị chi phí. Điều này xuất phát từ những lý do sau:

Một là, sức ép cạnh tranh của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và các Công ty trực thuộc Tổng Công ty Thép Việt
Nam nói riêng phải tự hoàn thiện mình về mọi mặt, trong đó có sự hoàn thiện về
công tác kế toán nói chung và công tác kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản
phẩm nói riêng. Trong đó, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm phải kết hợp với việc tăng cường quản trị chi phí.
Hai là, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng
cường quản trị chi phí giúp cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm, giúp các nhà quản lý đánh giá được tình hình thực
hiện các định mức dự toán chi phí, tính hiệu quả hay không hiệu quả của từng bộ
phận sản xuất, từ đó ra các quyết định kịp thời giúp giảm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm, nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
Ba là, xuất phát từ những tồn tại trong công tác kế toán chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí sản xuất của các doanh
nghiệp thuộc Tổng Công ty Thép Việt Nam. Hiện nay, công tác kế toán quản trị chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn nhiều hạn chế, đặc biệt là công tác tổ chức
xây dựng hệ thống định mức để quản lý chi phí sản xuất, công tác tổ chức phân
tích và dự báo v.v…
Bốn là, hiện nay, các Công ty thuộc Tổng Công ty Thép Việt Nam nhìn
chung chỉ giải quyết những nội dung của kế toán tài chính, việc cung cấp thông tin
kế toán, đặc biệt là kế toán chi phí và giá thành phục vụ công tác quản trị doanh
nghiệp chưa được chú trọng đúng mức.
Chính vì vậy, các Công ty thuộc Tổng Công ty Thép Việt Nam xác định yêu
cầu hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí nhằm đáp ứng đầy đủ, chính xác, kịp
thời yêu cầu của kế toán tài chính đồng thời cũng cấp những thông tin hữu ích cho
nhà quản lý trong việc quản trị doanh nghiệp hiện nay là rất cần thiết.
3.2. Yêu cầu cơ bản và phương hướng của việc hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí tại Tổng
Công ty Thép Việt Nam

3.2.1. Yêu cầu cơ bản
Việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc
tăng cường quản trị chi phí tại các Công ty thuộc Tổng Công ty Thép Việt Nam
phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, nội dung hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí phải phù hợp với những chuẩn mực kế
toán trong nước và quốc tế, phải đảm bảo tuân thủ chế độ chính sách về tài chính,
kế toán hiện hành.
Thứ hai, nội dung hoàn thiện phải phù hợp với điều kiện và nhu cầu quản lý
thực tế tại các Công ty về trình độ, năng lực cán bộ quản lý, nhân viên kế toán,
định hướng phát triển của Tổng Công ty Thép nói cbung và của các doanh nghiệp
nói riêng.
Thứ ba, nội dung hoàn thiện phải đảm bảo mang lại những thông tin hiệu
quả, nhanh chóng, chính xác phục vụ công tác kế toán tài chính và công tác kế toán
quản trị để các nhà quản lý kịp thời ra các quyết định kinh doanh.
Thứ tư, nội dung hoàn thiện phải phù hợp với yêu cầu của các nhà quản trị
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, không làm ảnh hưởng quá nhiều đến hoạt
động sản xuất kinh doanh và cơ cấu tổ chức bộ máy doanh nghiệp.
Thứ năm, nội dung hoàn thiện phải đơn giản, thuận tiện cho người thực hiện
cũng như người sử dụng thông tin, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nội dung
đã có, xây dựng những nội dung mới cho phù hợp.
Cuối cùng, nội dung hoàn thiện phải đảm bảo tiếp thu có chọn lọc những
kinh nghiệm về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng
cường quản trị chi phí ở các nước trên thế giới và có thể vận dụng được vào điều
kiện thực tiễn của Việt Nam.
3.2.2. Phương hướng hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí tại Tổng Công ty Thép Việt Nam
Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng
cường quản trị chi phí tại Tổng Công ty Thép Việt Nam cần được thực hiện theo
hướng sau:

- Dưới góc độ kế toán tài chính: Hoàn thiện những nội dung kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn chưa phù hợp theo chế độ kế toán hiện
hành, đảm bảo các thông tin chi phí do kế toán cung cấp cho các đối tượng quan
tâm thật chính xác.
- Dưới góc độ kế toán quản trị: Xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí –
giá thành trong các doanh nghiệp nhằm phục vụ cung cấp thông tin cho công tác
quản trị doanh nghiệp.
3.3. Nội dung và giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm theo quy định của kế toán tài chính
Dưới góc độ kế toán tài chính, nội dung hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm được trình bảy ở những vấn đề sau:
Hoàn thiện hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng
Hoàn thiện hạch toán thiệt hại ngừng sản xuất
Hoàn thiện hạch toán trích trước tiền lương công nhân nghỉ phép
3.3.1. Hoàn thiện hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng
Trong quá trình sản xuất, việc mắc phải các lỗi kỹ thuật dẫn đến sản phẩm
hỏng là một điều không thể tránh được đối với các doanh nghiệp sản xuất. Sản
phẩm hỏng là sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kỹ
thuật của sản xuất về mầu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp… Tuỳ theo
mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng được chia làm 2 loại là sản phẩm hỏng có thể
sửa chữa được (là những sản phẩm hỏng mà về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được
và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế) và sản phẩm hỏng không thể sửa chữa
được (là những sản phẩm mà về mặt kỹ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể
sửa chữa được nhưng không có lợi về mặt kinh tế). Trong quan hệ với công tác kế
hoạch, cả hai loại sản phẩm hỏng nói trên lại được chi tiết thành sản phẩm hỏng
trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức. Những sản phẩm hỏng mà
doanh nghiệp dự kiến sẽ xảy ra trong quá trình sản xuất được coi là hỏng trong
định mức. Khác với sản phẩm hỏng trong định mức, sản phẩm hỏng ngoài định
mức là những sản phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của nhà sản xuất do các nguyên
nhân chủ quan (do lơ là, thiếu trách nhiệm của công nhân) hoặc khách quan (máy

hỏng, hoả hoạn bất chợt…).
Thiệt hại của những sản phẩm này không được chấp nhận nên chi phí của
chúng không được cộng vào chi phí sản xuất chính phẩm mà thường được xem là
khoản phí tổn thời kỳ, phải trừ vào thu nhập (sau khi trừ các khoản thu hồi, bồi
thường của người phạm lỗi - nếu có). Vì thế, cần thiết phải hạch toán riêng giá trị
thiệt hại của những sản phẩm ngoài định mức và xem xét từng nguyên nhân gây ra
sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lý. Toàn bộ giá trị thiệt hại có thể theo dõi riêng
trên tài khoản 1381 (chi tiết sản phẩm hỏng ngoài định mức), sau khi trừ đi số phế
liệu thu hồi và bồi thường (nếu có), thiệt hại thực về sản phẩm hỏng sẽ được tính
vào giá vốn hàng bán hay chi phí khác hoặc trừ vào quỹ dự phòng tài chính…
Cách xác định chi phí thiệt hại về sản phẩm hỏng:
Để đơn giản và thuận lợi trong việc xác định chi phí thiệt hại về sản phẩm
hỏng, các doanh nghiệp có thể sử dụng chi phí định mức. Trước khi tiến hành sản
xuất, doanh nghiệp phải xác định được chi phí định mức cho mỗi loại sản phẩm,
đơn hàng theo từng công đoạn sản xuất. Như vậy, khi phát sinh sản phẩm hỏng, kế
toán sẽ tính được thiệt hại về sản phẩm hỏng bằng cách lấy số sản phẩm hỏng nhân
với chi phí định mức sản xuất sản phẩm hỏng ở từng công đoạn. Cuối kỳ, kế toán
tập hợp toàn bộ chi phí sản phẩm hỏng ở tất cả các công đoạn để tiến hành hạch
toán.
Phương pháp kế toán thiệt hại về sản phẩm hỏng:
• Thiệt hại về sản phẩm hỏng trong định mức: bao gồm giá trị sản phẩm hỏng không
sửa chữa được và phần chi phí sửa chữa sản phẩm tái chế trừ đi giá trị phế liệu thu
hồi (nếu có). Toàn bộ thiệt hại này tính vào chi phí sản xuất sản phẩm và được
hạch toán như đối với chính phẩm.
• Đối với giá trị thiệt hại của những sản phẩm ngoài định mức: kế toán phải theo dõi
riêng, đồng thời xem xét từng nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp
xử lý phù hợp.
- Khi phát sinh chi phí sản phẩm hỏng ngoài định mức, kế toán ghi:
Nợ TK 1381
Có TK 152, 153, 334, 338, 241

- Căn cứ vào kết quả xử lý, kế toán ghi:
Nợ TK 152 - Giá trị phế liệu thu hồi
Nợ TK 1388 - Giá trị phải bồi thường
Nợ TK 811 - Tổn thất thiệt hại sản phẩm hỏng
Có TK 1381 - Chi phí thiệt hại sản phẩm hỏng
3.3.2. Hoàn thiện hạch toán thiệt hại ngừng sản xuất
Trong các doanh nghiệp sản xuất, có những thời gian phải ngừng sản xuất vì
nhiều nguyên nhân chủ quan như ngừng sản xuất để sửa chữa, bảo dưỡng máy móc
định kỳ, chờ nguyên vật liệu… hoặc khách quan như thiên tai, hoả hoạn… mà các
doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công
lao động, khấu hao tài sản cố định, lãi vay ngân hàng… Những khoản chi phí chi
ra trong thời gian này được coi là thiệt hại về ngừng sản xuất.
Các trường hợp thiệt hại do ngừng sản xuất hầu hết là nằm trong kế hoạch
của doanh nghiệp. Với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự
kiến, kế toán theo dõi ở tài khoản 335 – Chi phí phải trả theo các bút toán sau:
- Khi trích trước chi phí ngừng sản xuất, kế toán ghi:
Nợ TK 627 - Chi phí sản xuất chung (Chi tiết theo đối tượng)
Có TK 335 - Chi phí phải trả
- Khi phát sinh chi phí trong thời gian ngừng sản xuất, kế toán ghi:
Nợ TK 335 - Chi phí phải trả
Có TK 111, 112, 334
Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, các chi phí bỏ ra trong thời gian này
do không được chấp nhận nên phải theo dõi riêng trên tài khoản 142 – Chi phí thiệt
hại ngừng sản xuất. Cuối kỳ, sau khi trừ phần thu hồi (nếu có, do bồi thường), giá
trị thiệt hại thực tế sẽ trừ vào thu nhập như khoản chi phí thời kỳ.
+ Chi phí thực tế phát sinh do ngừng sản xuất bất thường, kế toán ghi:
Nợ TK 142 - Chi phí thiệt hại ngừng sản xuất
Có TK 334, 338, 152, 214
+ Khi có kết quả xử lý, kế toán ghi:
Nợ TK 1381 - Giá trị bồi thường

Nợ TK 811 - Tổn thất ngừng sản xuất
Có TK 142 - Chi phí thiệt hại ngừng sản xuất
3.3.3. Hoàn thiện hạch toán trích trước tiền lương công nhân nghỉ phép
Trong các doanh nghiệp sản xuất thép, số lượng công nhân làm việc rất lớn
nên thường xảy ra tình trạng số lượng công nhân nghỉ phép tập trung nhiều vào
một thời điểm nào đó. Nếu không hạch toán trích trước khoản tiền lương này sẽ
làm ảnh hưởng tới chi phí phát sinh trong tháng. Vì vậy, các doanh nghiệp nên tiến
hành trích trước tiền lương công nhân nghỉ phép và hàng tháng đưa vào giá thành
sản phẩm coi như một khoản chi phí phải trả, cụ thể:
Mức trích trước tiền lương nghỉ
phép của CNSX theo kế hoạch =
Tiền lương chính thực tế phải trả
CN trực tiếp SX trong tháng x
Tỷ lệ
trích trước
Tỷ lệ trích trước được xác định dựa vào kinh nghiệm quản lý lao động nhiều
năm ở mỗi Công ty.
Khi tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân, kế toán ghi
bút toán:
Nợ TK 622 – Chi tiết theo đối tượng
Có TK 335
Số tiền lương nghỉ phép thực tế phải trả được hạch toán như sau:
Nợ TK 335
Có TK 334, 338
Kinh nghiệm quản lý cho thấy, tùy theo tình hình và điều kiện mỗi công ty
mà tỷ lệ trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân có thể nằm trong khoảng
1% - 9% tổng quỹ lương toàn công ty.
3.4. Nội dung và giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí tại Tổng Công ty
Thép Việt Nam

Dưới góc độ kế toán quản trị, việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí được thể hiện ở những nội
dung sau:
- Tổ chức bộ máy kế toán
- Mối liên hệ thông tin cung cấp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
- Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán
- Phân loại chi phí phục vụ quản trị doanh nghiệp
- Xây dựng các định mức chi phí sản xuất
- Sử dụng thông tin do kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cung
cấp phục vụ cho việc ra quyết định
- Mối liên hệ thông tin cung cấp giữa bộ phận kế toán với các phòng ban và tổ
chức sử dụng thông tin cho mục đích kiểm soát quản lý ở các doanh nghiệp
- Xây dựng các biểu mẫu, sổ kế toán phục vụ quản trị doanh nghiệp
3.4.1. Tổ chức bộ máy kế toán
Kế toán quản trị ra đời cách đây khá lâu, có thể những nhà kế toán quản trị
đầu tiên là những người sao chép thuê mà công việc là ghi chép số thu và chi tiền
mặt và cung cấp số của cải hiện có. Trong thời gian từ năm 1400 đến 1600, những
nguyên lý sơ đẳng của thông lệ kế toán quản trị hiện đại đã xuất hiện. Trong xu thế
toàn cầu hoá, quốc tế hoá hiện nay, các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế
phát triển rất coi trọng kế toán quản trị, đặc biệt là kế toán quản trị chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất. Ở khu vực Đông Nam Á,
Việt Nam được đánh giá là một nước có nền kinh tế nhiều tiềm năng phát triển, nền
kinh tế mở, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Cùng với quá trình
mở cửa và hội nhập nền kinh tế ở Việt Nam, kế toán quản trị mới được xây dựng
và phát triển. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đều chưa tổ chức thực hiện kế
toán quản trị một cách chuyên sâu. Trên thực tế, kế toán tài chính và kế toán quản
trị có mối quan hệ mật thiết với nhau về nguồn thông tin, nguồn số liệu, tài liệu, hệ
thống báo cáo, vì vậy nên tổ chức trong một bộ máy sẽ tận dụng được mối quan hệ
về thu thập và cung cấp thông tin. Do vậy, mô hình tổ chức bộ máy kế toán phù
hợp nhất hiện nay là mô hình kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

trong cùng một bộ máy kế toán doanh nghiệp. Việc ghi chép, phản ánh, xử lý và
truyền đạt thông tin được tính đến cả mục đích của kế toán tài chính và kế toán
quản trị nhằm thoả mãn nhu cầu thông tin kế toán cho cả đối tượng bên ngoài và
bên trong doanh nghiệp.
Mô hình tổ chức bộ máy kế toán doanh nghiệp kết hợp giữa kế toán tài chính
và kế toán quản trị được mô tả theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 3.01: Mô hình tổ chức bộ máy kế toán doanh nghiệp
Chức năng của từng bộ phận trong bộ máy kế toán trong mô hình:
- Bộ phận kế toán vốn bằng tiền và thanh toán: thực hiện hạch toán chi tiết và
tổng hợp các nghiệp vụ về vốn bằng tiền và công nợ phải thu, phải trả, lập dự toán
thu – chi tiền.
- Bộ phận kế toán vật tư, hàng hoá, tài sản cố định: có nhiệm vụ hạch toán
chi tiết, tổng hợp sự biến động của vật tư, hàng hoá, tài sản cố định; lập dự toán
mua hàng, thực hiện thu thập thông tin chi tiết về vật tư, hàng hoá, tài sản cố định;
theo dõi các nghiệp vụ khấu hao và sửa chữa tài sản cố định; lập các báo cáo kế
toán quản trị về vật tư, hàng hoá, tài sản cố định; phân tích tình hình thu mua, bảo
quản, dự trữ, sử dụng vật tư, hàng hoá, tình hình tăng - giảm tài sản cố định.
- Bộ phận kế toán tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công
đoàn: thực hiện nhiệm vụ hạch toán chi tiết, tổng hợp tiền lương, theo dõi thanh
toán tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn với người lao
động; tham gia lập dự toán nhân công trực tiếp; cung cấp tài liệu để lập dự toán chi
Kế toán trưởng
Bộ phận kế
toán thuế
Bộ phận kế
toán, vật tư,
hàng hoá,
TSCĐ
Bộ phận kế
toán tiền

lương,
BHXH,
BHYT,
KPCĐ
Bộ phận kế
toán, bán
hàng, xác
định kết
quả
Bộ phận kế
toán vốn
bằng tiền và
thanh toán
Bộ phận tổng hợp, kiểm tra
và tư vấn
Nhóm tổng hợp, phân tích
và tư vấn (phần việc của
kế toán quản trị)
Nhóm kế toán tổng hợp
(phần việc tổng hợp của
kế toán tài chính)
phí sản xuất chung, dự toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp; thu
thập các thông tin về lao động, tiền lương để lậop báo cáo thực hiện về lao động,
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn; phân tích tình hình
quản lý, sử dụng lao động.
- Bộ phận kế toán bán hàng, xác định kết quả: thực hiện ghi sổ kế toán chi
tiết bán hàng, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp; sổ kế toán chi tiết
kết quả; lập dự toán doanh thu, dự toán chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp; lập báo cáo thu nhập thực hiện; cung cấp thông tin cho quản trị doanh thu,
kết quả.

- Bộ phận kế toán thuế: thực hiện kê khai các loại thuế và phân tích các ảnh
hưởng của các quyết định liên quan đến các luật thuế.
- Bộ phận tổng hợp, kiểm tra và tư vấn:
Gồm hai nhóm sau:
+ Nhóm kế toán tổng hợp (phần việc tổng hợp của kế toán tài chính): thực
hiên nhiệm vụ tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm; lập báo cáo chi
phí sản xuất, báo cáo giá thành sản phẩm thực hiện; thực hiện kiểm tra, đối chiếu
số liệu liên quan đến kế toán tài chính của các bộ phận kế toán khác; tổng hợp hoàn
chỉnh số liệu và lập báo cáo tài chính.
+ Nhóm tổng hợp, phân tích và tư vấn (phần việc của kế toán quản trị): thực
hiện nhiệm vụ lập dự toán sản xuất, dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, dự
toán chi phí nhân công trực tiếp, dự toán chi phí sản xuất chung; tổ chức phân tích
sự biến động chi phí sản xuất như phân tích chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung; lập hệ thống dự toán ngân sách của
doanh nghiệp; phân tích tình hình thực hiện dự toán qua đó đánh giá kết quả hoạt
động của các bộ phận trong doanh nghiệp; phân tích và tìm hiểu nguyên nhân gây
chênh lệch giữa các kết quả thực tế với số liệu dự toán về các chỉ tiêu chi phí,
doanh thu, lợi nhuận, trên cơ sở đó lập báo cáo phân tích về tình hình thực hiện dự
toán cho từng bộ phận; phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận
nhằm cung cấp thông tin thích hợp, kịp thời cho các nhà quản trị doanh nghiệp ra
quyết định trong quản lý doanh nghiệp cũng như đề ra các chiến lược kinh doanh
trong ngắn hạn.
3.4.2. Mối liên hệ thông tin cung cấp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
Giữa các bộ phận kế toán trong bộ máy kế toán cần xây dựng mối quan hệ
chặt chẽ trong việc thu nhận và cung cấp thông tin lẫn nhau kể cả thông tin kế toán
tài chính và kế toán quản trị nhằm hoàn chỉnh hệ thống thông tin kế toán. Mối quan
hệ này được thể hiện:
Nhóm tổng hợp, phân tích và tư vấn (phần việc của kế toán quản trị) được
nhóm kế toán tổng hợp của kế toán tài chính cung cấp các báo cáo thực hiện, cũng
như các thông tin khác làm cơ sở xây dựng các bảng dự toán cho hoạt động sản

xuất kinh doanh tiếp theo, đồng thời có căn cứ phân tích, đánh giá kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của đơn vị, từ đó xây dựng các chuẩn mực chi phí, các
tiêu thức phân bổ chi phí hợp lý,…
Trong từng bộ phận kế toán vừa đảm nhận công việc của kế toán quản trị,
vừa đảm nhận công việc của kế toán tài chính thuộc từng phần hành kế toán cần bố
trí hợp lý cho các nhân viên kế toán trong từng bộ phân sao cho các thông tin kế
toán chi tiết được hệ thống hoá trên sổ sách kế toán do từng nhân viên ghi chép
nhanh chóng trở thành thông tin hữu ích cho từng tình huống quyết định quản trị.
Đồng thời những thông tin này là căn cứ để tổng hợp lập các chỉ tiêu liên quan
trong các báo cáo tài chính.
3.4.3. Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán
Để hệ thống hoá và cung cấp thông tin kế toán cho việc lập các báo cáo kế
toán quản trị chi phí theo yêu cầu quản lý, các doanh nghiệp cần lựa chọn, thiết kế
hệ thống tài khoản chi tiết cấp 2, cấp 3 hoặc cấp 4 … cho phù hợp. Việc xây dựng
hệ thống tài khoản chi tiết phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp cần phải dựa
vào yêu cầu quản lý của doanh nghiệp như quản lý theo từng khoản mục chi phí,
khoản mục giá thành một cách chi tiết theo từng loại sản phẩm,…
Các chi phí đơn nhất có thể dùng tài khoản cấp 1 để tập hợp như chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Các chi phí tổng hợp như chi
phí sản xuất chung ngoài việc mở các tài khoản cấp 1, doanh nghiệp cần phải mở
tài khoản cấp 2 theo các yếu tố đã quy định. Bên cạnh đó, trong từng yếu tố cần
thiết phải mở các tài khoản chi tiết hơn để phản ánh.
Ví dụ như yếu tố chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cần chia thành các khoản
mục cụ thể là chi phí nguyên vật liệu chính, chi phí vật liệu phụ, chi phí nhiên liệu,
chi phí động lực…
3.4.4. Phân loại chi phí phục vụ quản trị doanh nghiệp
Chi phí là một trong những yếu tố trung tâm của công tác quản lý hoạt động
sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận, tài sản, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhận thức, tiên liệu một
cách đúng đắn, khoa học về chi phí là tiền đề để nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra

các quyết định hợp lý.
Để có được các thông tin có giá trị làm cơ sở cho việc tổng hợp, lập báo cáo
sử dụng cho hoạt động quản trị, việc đầu tiên đòi hỏi các doanh nghiệp phân biệt rõ
ràng và nhận diện được các cách phân loại chi phí. Trên mỗi góc độ nhà quản trị
cần những thông tin khác nhau về chi phí sản xuất. Việc đa dạng hoá phân loại chi
phí sản xuất trong các doanh nghiệp liên doanh sản xuất xe máy là cần thiết nhằm
đáp ứng yêu cầu của kế toán chi phí phục vụ nhà quản trị doanh nghiệp. Vì mỗi
phương pháp phân loại chi phí đều có ý nghĩa và tác dụng đến hoạt động quản trị.
Phân loại chi phí theo yếu tố sản xuất: Muốn phân tích, đánh giá tình hình
thực hiện các dự toán chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố nhà quản trị cần phải
xác định được từng yếu tố chi phí sản xuất, do đó phải tiến hành phân loại chi phí
theo yếu tố. Theo cách này các chi phí cần theo dõi riêng cho từng sản phẩm, giai
đoạn của sản phẩm.
Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí: Nhằm mục đích cung cấp
thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và chủ động điều tiết chi phí cho
phù hợp, chi phí thường được phân loại theo thành biến phí, định phí và chi phí
hỗn hợp; nghĩa là căn cứ vào các thông tin do kế toán quản trị cung cấp, các nhà
quản trị sẽ thấy được sự biến động của chi phí có phù hợp hay không với sự biến
động của mức độ hoạt động và từ đó có các biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý các
chi phí.
Theo cách ứng xử của chi phí, chi phí phát sinh trong các Công ty thuộc
Tổng Công ty Thép Việt Nam được phân loại như sau:

×