Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.15 KB, 41 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT
QUẢ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1: Sự cần thiết của kế toán tiêu thụ và xác định kết quả thụ hàng hoá
trong doanh nghiệp thương mại.
1.1.1: Khái niệm hàng hoá và hoạt động kinh doanh thương mại.
1.1.1.1: Hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại.
Hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại là các vật tư, sản phẩm có hình
thái hoặc không có hình thái vật chất mà doanh nghiệp mua về (hoặc hình thành từ
các nguồn khác) với mục đích để bán. Hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại
được hình thành chủ yếu do mua ngoài, hoặc do doanh nghiệp nhận vốn góp hay
thu hồi nợ từ các doanh nghiệp khác… Như vậy, việc mua vào rồi bán hàng hoá là
chức năng của doanh nghiệp thương mại.
Hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại cũng được phân loại theo các tiêu
thức như trong doanh nghiệp nói chung. Theo ngành hàng gồm: ngành công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp,…Còn theo nguồn hình thành thì có hàng hoá
trong nước và hàng nhập khẩu. Theo bộ phận kinh doanh thì tuỳ theo trình độ quản
lý mà mỗi doanh nghiệp lựa chọn tiêu thức phân loại hàng hoá phù hợp. Đây được
coi là điểm thuận lợi cho công tác quản lý nói chung cũng như công tác kế toán nói
riêng trong việc xác định kết quả kinh doanh của từng bộ phận cũng như toàn
doanh ngiệp.
1.1.1.2: Hoạt động kinh doanh thương mại.
Thương mại là khâu trung gian nối liền sản xuất với tiêu dùng. Hoạt động
thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương
nhân với các bên liên quan bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận, hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội. Thương nhân có thể là cá nhân hoặc
tập thể có đủ năng lực hành vi dân sự hay các hộ gia đình, tổ hợp tác xã hay các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật.
1.1.2: Đặc điểm hoạt động kinh doanh thương mại ảnh hưởng đến kế
toán tiêu thụ và xác định KQTT hàng hoá của doanh nghiệp thương mại.


Hoạt động kinh tế cơ bản cuả kinh doanh thương mại là lưu chuyển hàng
hoá. Lưu chuyển chính là sự tổng hợp các hoạt động mua bán, trao đổi, và dự trữ
hàng hoá. Hàng hoá trong kinh doanh thương mại gồm các vật tư, sản phẩm có
hình thái vật chất hoặc phi vật chất mà doanh nghiệp mua vào rồi bán ra thị trường.
Về phương thức lưu chuyển: Lưu chuyển hàng hoá trong kinh doanh thương
mại có thể theo hình thức bán buôn hoặc bán lẻ.
Về tổ chức kinh doanh: Tổ chức kinh doanh trong thương mại có thể theo
nhiều mô hình khác nhau tổ chức các công ty bán buôn, bán lẻ, công ty hợp danh,
công ty môi giới, công ty xúc tiến thương mại…
Về sự vận động của hàng hoá: Sự vận động của hàng hoá trong kinh doanh
thương mại cũng không giống nhau, tuỳ thuộc vào mặt hàng và ngành hàng. Do đó
chi phí thu mua và thời gian lưu chuyển hàng hoá cũng khác nhau giữa các loại.
Từ những đặc điểm của khâu tiêu thụ trên mà ta nhận thấy rằng kế toán tiêu
thụ và xác định KQTT hàng hoá là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp thương
mại vì đó là quá trình chuyển hoá vốn từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ.
Tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là việc chuyển quyền
sở hữu về sản phẩm hàng hoá gắn liền với việc chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi
ích cho người mua. Với mỗi doanh nghiệp mục tiêu của họ là tố đa hoá lợi nhuận,
và doanh nghiệp thương mại cũng thế. Doanh nghiệp thương mại tìm kiếm lợi
nhuận dựa trên sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Vì vậy chỉ có tiêu thụ hàng
hoá mới giúp doanh nghiệp thương mại thu hồi vốn để trang trải chi phí và thực
hiện các lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước, giữa doanh nghiệp với các
nhà đầu tư, với người lao động,… Tuy nhiên không phải cứ tổ chức bán hàng, tiêu
thụ sản phẩm tốt là mang lại lợi nhuận cao mà kết quả đó còn phụ thuộc vào quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp. Kinh doanh thương mại có ảnh hưởng rất lớn
tới kế toán tiêu thụ và xác định KQTT hàng hoá bởi vì nếu tổ chức kinh doanh tốt
sẽ làm cho kết quả tiêu thụ đều đặn và ngày càng hiệu quả hơn, từ đó thúc đẩy các
hoạt động khác của doanh nghiệp đi lên. Thông qua kế toán tiêu thụ và xác định
KQTT hàng hoá, nhà quản trị nắm bắt được các con số cụ thể của lượng hàng hoá
tiêu thụ, của các chi phí phát sinh, của con số lợi nhuận đạt được. Do đó kế toán

tiêu thụ là cơ sở để Ban giám đốc hoạch định các chiến lược kinh doanh.
1.1.3: Ý nghĩa và nhiệm vụ của kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu
thụ hàng hoá.
1.1.3.1: Ý nghĩa của kế toán tiêu thụ và xác định KQTT hàng hoá trong doanh
nghiệp thương mại.
Xuất phát từ nguyên nhân tất cả các sản phẩm muốn đưa vào tiêu dùng đều
phải thông qua tiêu thụ mà đến được với khách hàng. Do vậy quá trình tiêu thụ rất
quan trọng đối với các doanh nghiệp, người tiêu dùng, và toàn bộ nền kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp, quá trình tiêu thụ sẽ giúp cho doanh nghiệp thu
hồi được vốn, bù đắp các chi phí sản xuất kinh doanh, bổ xung nguồn vốn, mở
rộng và hiện đại hoá dây chuyền…..
Đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sẽ làm tốc độ quay vòng vốn nhanh hơn, tiết
kiệm vốn, thu hồi nhanh vốn đầu tư ban đầu. Hơn thế nữa, nếu hàng hoá tiêu thụ
nhanh thì sẽ làm cho doanh thu lớn hơn, là điều kiện tăng thu nhập cho doanh
nghiệp, nâng cao đời sống cho nhân viên, điều này sẽ ảnh hưởng tới uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường.
Tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ có ý nghĩa sống còn đối với
các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng, nó trực tiếp thu
hồi vốn và là căn cứ, cơ sở đánh giá hiệu quả cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm và xác
định KQTT hàng hoá có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thông qua kế toán tiêu thụ và
xác định KQTT hàng hoá, nhà quản trị nắm bắt được các con số cụ thể của lượng
hàng hoá tiêu thụ, của các chi phí phát sinh, của con số lợi nhuận đạt được,... Kế
toán tiêu thụ cung cấp thông tin một cách chính xác cho Ban lãnh đạo để ra quyết
định kịp, làm cơ sở để hoạch định các chiến lược kinh doanh.
1.1.3.2: Nhiệm vụ của kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng
hoá.
Để đảm bảo yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho Ban lãn đạo
công ty thì bộ phận kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ phải làm những
nhiệm vụ sau:

- Ghi chép đầy đủ, kịp thời khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ bán ra
và tiêu thụ nội bộ, xác định đúng giá vốn của hàng hoá nhập kho, xuất kho, hàng
đã tiêu thụ, các khoản giảm trừ, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Kiểm tra giám sát tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ như thu đúng, thu
đủ tiền hàng, giám sát thực hiện kế hoạch lợi nhuận và phân phối nó, cũng như
việc đôn đốc kiểm tra quá trình thanh toán và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Cung cấp thông tin cần thiết một cách chính xác, đầy đủ, trung thực, về quá
trình tiêu thụ và xác định kết quả
- Tiến hành lập báo cáo và gửi báo cáo kết quả kinh doanh theo đúng chế độ
tài chính định kỳ, tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động tiêu thụ và xác định
kết quả.
1.2: Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong doanh
nghiệp thương mại.
1.2.1: Các phương thức bán hàng.
Phương thức bán hàng trong doanh nghiệp thương mại thường sử dụng hai
phương pháp chính là bán buôn và bán lẻ. Ngoài ra còn có các hình thức khác như
bán qua đại lý, ký gửi, bán hàng trả góp trả chậm…
1.2.1.1: Hình thức bán buôn hàng hoá.
* Bán buôn hàng hoá qua kho.
Bán buôn hàng hoá qua kho là phương pháp tiêu thụ mà hàng hoá doanh
nghiệp mua vào, được nhập kho sau đó mới bán ra, bao gồm hai hình thức:
- Bán buôn theo hình thức giao hàng trực tiếp: Theo hình thức này thì bên
mua cử người đến kho của bên bán để nhận hàng. Bên bán suất hàng trực tiếp cho
đại diện bên mua. Chứng từ mua bán trong trường hợp này là các hoá đơn bán
hàng (hoá đơn GTGT) hay hoá đơn kiêm phiếu xuất kho của bên bán. Khi hoàn tất
các thủ tục giao hàng, bên mua thanh toán tiền hàng hoặc bên mua chấp nhận nợ
thì hàng hoá được coi là đã tiêu thụ, bên bán được ghi doanh tiêu thụ.
- Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng: Theo hình thức này, căn cứ
theo hợp đồng kinh tế đã ký kết hoặc theo đơn đặt hàng, bên bán có trách nhiệm
giao hàng tận nơi cho bên mua, chi phí vận chuyển do hai bên tự thoả thuận. Khi

bên mua nhận được hàng, chấp nhận thanh toán thì hàng hoá được coi là tiêu thụ.
* Bán buôn vận chuyển thẳng.
Phương thức này là hàng hoá của doanh nghiệp mua vào nhưng không nhập
kho mà chuyển thẳng cho khách hàng, bao gồm hai hình thức:
- Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán: Theo hình thức
này thực chất doanh nghiệp đóng vai trò làm trung gian môi giới giữa bên mua và
bên bán để nhận hoa hồng (hoa hồng có thể do bên mua hoặc bên bán trả cho
doanh nghiệp ). Bên mua chịu trách nhiệm nhận hàng và thanh toán cho ben bán.
- Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: theo hình thức này thì
doanh nghiệp mua hàng hoá của nhà cung cấp rồi bán cho khách hàng. Hàng hoá
được coi là tiêu thụ khi doanh nghiệp chấp nhận thanh toán.
1.2.1.2 Bán lẻ hàng hoá.
Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp tới tay người tiêu dùng
với số lượng ít. Đây là giai đoạn cuối cùng trong quá trình vận động của hàng hoá.
Các hình thức bán lẻ bao gồm:
- Bán lẻ thu tiền tập trung: Theo hình thức này mỗi quầy có một nhân viên
thu ngân trực tiếp thu tiền của khách hàng, sau đó viết hoá đơn để khách hàng đến
quầy nhận hàng. Cuối ca (giờ,ngày) nhân viên bán hàng căn cứ vào hoá đơn (tích
kê) giao hàng cho khách để đối chiếu kiểm kê hàng hoá tồn kho thực tế, sau đó xác
định số hàng đã bán, lập báo cáo bán hàng. Nhân viên bán hàng phải nộp tiền cho
thủ quỹ. Chứng từ là các báo cáo bán hàng và giấy nộp tiền bán hàng.
- Bán lẻ thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này nhân viên bán hàng trực tiếp
thu tiền của khách hàng và giao hàng cho khách. Cuối ca hay cuối ngày, nhân viên
bán hàng nộp tiền cho thủ quỹ, và làm giấy nộp tiền bán hàng . Sau đó kiểm tra
hàng hoá tồn quầy để xác định số hàng hoá đã bán và lập báo cáo bán hàng.
- Bán lẻ tự phục vụ: Theo hình thức này thì khách hàng tự chọn lấy hàng hoá
mà mình cần rồi mang đến bộ phận thu tiền để thanh toán tiền hàng. Nhân viên bán
hàng thu tiền và lập hoá đơn thanh toán của khách. Đây là hình thức mà các siêu
thị bán lẻ trên thị trường nước ta đang áp dụng.
1.2.1.3: Hình thức bán hàng trả góp, trả chậm.

Bán hàng trả góp, trả chậm là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần.
Theo phương thức này thì chỉ cần lượng hàng được chuyển giao là được coi là tiêu
thụ. Người mua sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua. Số còn lại người
mua thanh toán các lần tiếp theo và phải chịu một mức lãi suất nhất định. Số tiền
thanh toán các lần sau thường bằng nhau và bao gồm một phần doanh thu gốc và
lãi do trả chậm.
1.2.1.4: Bán hàng theo đaị lý hoặc ký gửi.
Đây là phương thức mà bên chủ hàng xuất hàng giao cho bên đại lý để bán
đúng giá theo quy định. Bên đại lý của chủ hàng sẽ được hưởng thù lao dưới dạng
hoa hồng đại lý. Khi chủ hàng xuất haàng giao cho đại lý thì số hàng fó vẫn thuộc
về quyền sở hữu của chủ hàng. Chỉ khi bên nhận đại ký thông báo đã bán được
hàng thì hàng mới được coi là đã tiêu thụ. Căn cứ vào hoá đơn bán ra của hàng hoá
đã bán, kế toán ghi nhận doanh thu.
1.2.2: Các phương pháp xác định giá mua của hàng xuất bán.
Hàng hoá xuất kho mang đi tiêu thụ phải được thể hiện theo giá vốn thực tế.
Mỗi loại hàng hoá khi nhập về ở những thời điểm khác nhau tương ứng với giá
thực tế khác nhau. Vì vậy để tính được giá vốn một cách chính xác, doanh nghiệp
có thể áp dụng một số phương pháp sau:
1.2.2.1: Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này thì giá hàng hoá xuất kho được tính theo giá bình
quân(cả kỳ dự trữ, hay bình quân cuối ký trước, hoặc bình quân sau mỗi lần nhập).
Giá thực tế của hàng Số lượng hàng hoá
= x Đơn giá bình quân
xuất kho xuất trong kỳ
Trong đó đơn giá bình quân có thể được tính theo các cách như sau:
- Đơn giá bình quân cả kỳ dự trữ.
Đơn giá bình quân
cả kỳ dự trữ
=
Giá trị thực tế của hàng hoá tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ

Số lượng hàng hoá tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dễ làm, nhưng
độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc tính toán lại dồn vào cuối tháng nên
gây ảnh hưởng tới công tác quyết toán nói chung.
- Đơn giá bình quân cuối kỳ trước.
Đơn giá Giá thực tế hàng hoá tồn kho đầu kỳ (cuối kỳ trước)
bình quân =
cuối kỳ trước Lượng hàng hoá tồn kho đầu kỳ (cuối kỳ trước)
Phương pháp bình quân cuối kỳ trước cũng đơn giản và phản ánh kịp thời
tình hình biến động của hàng hoá trong kỳ. Tuy nhiên, nhược điểm của phương
pháp này là không phản ánh được sự biến động của hàng hoá kỳ này.
- Đơn giá bình quân sau mỗi lần nhập.
Đơn giá bình quân Giá thực tế hàng hoá tồn kho sau mỗi lần nhập
=
sau mỗi lần nhập Lượng hàng hoá tồn kho sau mỗi lần nhập
Phương pháp tính giá bình quân sau mỗi lần nhập khắc phục được nhược
điểm của hai phương pháp trên, vừa cập nhật, vừa chính xác. Tuy nhiên, phương
pháp này tốn nhiều công sức cho kế toán.
1.2.2.2: Phương pháp nhập trước – xuất trước (FIFO).
Theo phương pháp này thì hàng hoá nhập kho trước sẽ được xuất kho bán
trước. Như vậy trị giá mua thực tế của hàng hoá cũng chính là trị giá hàng xuất
kho. Phương pháp này thích hợp với thị trường giá cả ổn định và có xu hướng
giảm.
Khi áp dụng phương pháp này thì đòi hỏi việc tổ chức quản lý kho phải khoa
học hợp lý để tránh nhầm lẫn, vì vậy phương pháp này thích hợp cho doanh nghiệp
có số lượng hàng ít, các nghiệp vụ nhập xuất ít và không thường xuyên liên tục.
1.2.2.3: Phương pháp nhập sau – xuất trước(LIFO)
Theo phương pháp này thì hàng hoá nhập về sau nhưng được xuất đi bán
trước. Hàng xuất thuộc lô hàng nào thì lấy hoá đơn giá mua thực tế của lô hàng đó
làm trị giá hàng xuất kho. Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả lạm

phát và cũng là phương pháp được dùng chủ yếu tại các doanh nghiệp nước ta.
1.2.2.4: Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này thì hàng hoá được xác định giá trị theo đơn chiếc hay
từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập đến lúc xuất dùng. Khi xuất hàng nào thì lấy giá
trị thực tế đích danh của lô hàng đó.
1.2.2.5: Tính giá hàng xuất bán theo giá hạch toán.
Theo phương pháp này hàng hoá biến động trong kỳ tính theo giá hạch toán.
Phương pháp này áp dụng cho các doanh nghiệp có nghiệp vụ nhập xuất hàng hoá
nhiều, thường xuyên, giá mua thực tế biến động lớn và thông tin về giá không kịp
thời. Cuối kỳ kế toán tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo
công thức sau:
Giá thực tế của Giá hạch toán thực tế
= x Hệ số giá
hàng hoá xuất kho hàng hoá xuất kho

Giá trị thực tế của hàng hoá tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Hệ số giá =
Giá hạch toán của hàng hoá tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Tóm lại, doanh nghiệp phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình để lựa
chọn phương pháp thích hợp nhất và khi lựa chọn phải áp dụng cố định phương
pháp đó ít nhất trong một niên độ kế toán.
1.2.3: Kế toán giá vốn hàng bán
Giá vốn hàng bán là trị giá hàng mua vào để bán ra thị trường. Giá vốn hàng
bán bao gồm hai bộ phận: Giá mua của hàng bán và chi phí thu mua phân bổ cho
hàng đã bán. Như vậy, nếu doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ thì giá mua của hàng bán là giá không có thuế GTGT đầu vào, còn nếu doanh
nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì giá mua vào sẽ bao gồm cả
thuế.
Tài khoản sử dụng: TK 632- Giá vốn hàng bán
TK 1561- Hàng hoán

TK 157- Hàng gửi bán
* Kết cấu của TK 632 như sau:
Bên Nợ: Trị giá vốn của hàng hoá đã bán trong kỳ
Số trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho
Bên Có: K/c giá vốn của hàng hoá đã bán trong kỳ sang TK 911
Khoản hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cuối năm
Trị giá hàng bán trả lại nhập kho.
TK 632 không có số dư.
* Kế toán TK 1561 như sau:
Bên Nợ: Ghi tăng giá trị sản phẩm, hàng hoá.
Bên Có: Ghi giảm giá trị sản phẩm, hàng hoá.
Dư Nợ: Giá trị sản phẩm, hàng hoá, hiện có của doanh nghiệp.
* Kế toán TK 157 như sau:
Bên Nợ: Giá trị sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ gửi bán, gửi đại lý hoặc đã thực
hiện với khách hàng nhưng chưa được chấp nhận.
Bên Có: Giá trị sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ gửi bán đã được khách hàng chấp
nhận thanh toán hoặc đã thanh toán.
Giá trị hàng gửi bán bị từ chối hoặc trả lại.
Dư Nợ: Giá trị hàng gửi bán chưa được chấp nhận.
* Kế toán giá vốn hàng bán như sau:
- Khi xuất bán hàng hoá được xác định là đã bán trong kỳ
Nợ TK 632: Giá vốn hàng bán
Có TK 1561,157,…Trị giá mua thực tế của hàng xuất kho.
- Hạch toán các khoản trích lập hoặc hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn
kho. Cuối năm, căn cứ vào tình hình giảm giá hàng tồn kho ở thời điểm cuối kỳ,
tính toán khoản phải lập dự phòng so với số đã nhập năm trước chưa sử dụng hết.
Nếu số dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập năm nay < số đã lập năm trước
mà chưa sử dụng hết, thì số chênh lệch lơn hơn sẽ được ghi bổ sung:
Nợ TK 632: Ghi tăng giá vốn hàng bán.
Có TK 159: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.

Ngược lại nếu số dự phòng năm nay > năm trước thì phần chênh lệch được hoàn
nhập như sau:
Nợ TK 159: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Có TK 632: Giá vốn hàng bán.
- Khi hàng hoá bị trả lại, và nhập kho
Nợ TK 1561: Hàng hoá bị trả lại
Có TK 632: Giá vốn hàng bán.
- K/c giá vốn hàng bán được xác định là đã bán trong kỳ.
Nợ TK 911: Xác định kết quả kinh doanh
Có TK 632: Giá vốn hàng bán.
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ kế toán giá vốn hàng bán
TK 1561,157 TK 632 TK 911
Giá vốn hàng hoá xuất bán
K/c giá vốn hàng bán
TK 111,112,331 để xác định kết quả
Giá vốn của hàng hoá mua
vào và bán không qua kho TK 1561
TK 133 Hàng bán bị trả lại nhập kho
TK159 TK 159h
Trích lập dự phòng giảm Hoàn nhập dự phòng giảm giá
giá hàng tồn kho hàng tồn kho
1.2.4: Kế toán doanh thu bán hàng.
Theo chuẩn mực kế toán số 14, doanh thu bán hàng là tổng giá trị của các lợi
ích kinh tế mà doanh nghiệp đã thu hoặc sẽ thu trong kỳ kế toán, góp phần làm
tăng vốn chủ sở hữu được thực hiện do việc bán hàng. Như vậy, doanh thu bán
hàng là toàn bộ số tiền bán sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã thu
hoặc sẽ thu trong kỳ. Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm người mua thanh
toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Các nguyên tắc áp dụng trong kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ
hàng hoá.

Nguyên tắc 1: Phải phân định được chi phí, doanh tiêu thụ, kết quả của hoạt
động tiêu thụ trong hoạt động kinh doanh. Có phân định được hoạt động tiêu thụ
với các hoạt động khác thì mới kế toán đúng được doanh thu ,chi phí, kết quả của
hoạt động tiêu thụ.
Nguyên tắc 2: Phải xác định chính xác thời điểm ghi nhận doanh tiêu thụ.
Đó là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu vế sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã được
người bàn chuyển giao. Theo chuẩn mực kế toán số 14 doanh thu bán hàng được
ghi nhận khi thoả mãn 5 điều kiện sau:
- Người bán chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
- Người bán không còn nắm giữ quyền sở hữu và quản lý hàng hoá.
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
- Người bán đã thu hoặc sẽ thu được lợi ích từ việc bán hàng.
- Xác định được chi phí từ việc bán hàng.
Nguyên tắc 3: Phương pháp xác định doanh thu. Theo chuẩn mực kế toán thì
doanh thu bán hàng phải phù hợp với chi phí, theo giá trị hợp lý của các khoản đã
thu và phả thu.
Nguyên tắc 4: Phải nắm vững các nội dung và cách xác định các chỉ tiêu liên
quan đến doanh tiêu thụ, chi phí, và kết quả tiêu thụ. Và các chỉ tiêu liên quan đến
các khoản giảm trừ doanh thu.
Đối với các doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ, Bộ tài chính đã đưa ra
những quy định cụ thể trong quyết định 48/2006/QĐ-BTC để các doanh nghiệp áp
dụng. Theo đó, khi phản ánh doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ kế toán sử
dụng TK 511- Doanh thu bán hàng. Ngoài ra khi phản ánh các khoản giảm trừ
doanh thu, kế toán sử dụng các tài khoản sau:
TK 5211: CKTM
TK 5212: Hàng bán bị trả lại
TK 5213: Giảm giá hàng bán.
* Kết cấu của TK 511- doanh thu bán hàng như sau:
Bên Nợ: Số thuế phải nộp tính trên doanh số bán ra trong kỳ.

Số CKTM, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại
K/c doanh thu thuần vào TK 911- xác định kết quả kinh doanh
Bên Có: Tổng số doanh thu bán hàng thực tế trong kỳ.
TK 511 không có số dư và được chi tiết thành các TK cấp 2 như sau:
TK 5111: Doanh thu bán hàng hoá
TK 5112: Doanh thu bán các thành phẩm
TK 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ
TK 5118: Doanh thu khác
* Nội dung hạch toán:
- Khi hàng hoá được bán, người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán,
kế toán ghi nhận doanh thu bán hàng.
Nợ TK 111,112: Nếu thanh toán ngay bằng tiền
Nợ TK 131: Nếu người mua chấp nhận thanh toán nhưng chưa trả tiền.
Có TK 511: Doanh thu bán hàng
Có TK 3331: Thuế GTGT đầu ra của hàng hoá, dịch vụ
- Khi phát sinh CKTM, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, kế toán tập
hợp và ghi giảm doanh thu như sau:
Nợ TK 511: Doanh thu bán hàng
Có TK 5211: CKTM thực tế phát sinh
Có TK 5212: Hàng bán bị trả lại
Có TK 5213: Giảm giá hàng bán.
- Cuối kỳ k/c sang TK 911 để xác định kết quả
Nợ TK 511: Doanh thu bán hàng.
Có TK 911: Xác định kết quả kinh doanh.
- Khi bán hàng theo phương thức trả góp, trả chậm.
Nợ TK 111,112: Số tiền trả lần đầu
Nợ TK 131: Số tiền trả góp trả chậm
Có TK 511: Doanh thu bán hàng theo giá bán một lần tại thời điểm giao
hàng ( giá thanh toán ngay)
Có TK 3331: Thuế GTGT đầu ra tương ứng theo hoá đơn.

Có TK 3387: Doanh thu chưa thực hiện( phần chênh lệch giữa giá bán trả
góp, trả chậm chưa thuế GTGT với giá thanh toán ngay.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ kế toán doanh thu bán hàng.
TK 5211 TK 511 TK 111,112,131
Số CKTM Doanh thu bán hàng thực tế
làm giảm doanh thu TK 3331
Thuế GTGT
TK 5212
Trị giá hàng bán bị trả lại
làm giảm doanh thu
TK 5213 TK 911
Giảm giá báng bán K/c doanh thu bán hàng
làm giảm doanh thu để xác định kết quả


1.2.5: Kế toán các khoản giảm trừ doanh thu.
1.2.5.1: Kế toán chiết khấu thương mại.
Chiết khấu thương mại là số tiền thưởng cho khách hàng tính trên giá bán đã
thoả thuận và được ghi trên các hợp đồng mua bán hoặc cam kết về mua bán được
ghi rõ trên các chứng từ bán hàng. Doanh nghiệp giảm trừ cho người mua hàng về
việc người mua đã mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ với khối lượng lớn. Chiết
khấu thương mại bao gồm các khoản hồi khấu (là số tiền thưởng cho khách hàng
mua nhiều hàng hoá trong một thời gian nhất định) hoặc bớt giá (là khoản giảm trừ

×