LÍ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KIỂM TỐN ĐỘC
LẬP VÀ KINH NGHIỆM THẾ GIỚI
1.1 Khái quát chung về kiểm toán và kiểm toán độc lập
1.1.1 Định nghĩa kiểm tốn
Kiểm tốn là một hoạt động có từ rất lâu đời kể từ thời mà các thông tin được phê
chuẩn bằng cách đọc lên trong một buổi họp công khai - Thuật ngữ kiểm toán (audit)
theo tiếng Latinh là “auditur” có nghĩa là nghe cũng từ đó ra đời.
Hoạt động kiểm tốn gắn liền với q trình phát triển kinh tế-xã hội của loài
người.Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, hoạt động kiểm toán phát triển
theo đó để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.Những lĩnh vực kiểm tốn và loại
hình kiểm tốn khác nhau đã lần lượt hình thành, đặc biệt là kiểm toán độc lập một hoạt động rất phát triển trong nền kinh tế thị thường hiện nay.Để tìm hiểu về
kiểm toán độc lập, trước tiên ta cần hiểu về định nghĩa Kiểm tốn.Có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về kiểm toán, nhưng định nghĩa được chấp nhận rộng rãi là:
“Kiểm tốn là q trình thu thập và đánh giá bằng chứng về những thông tin được
kiểm tra nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thơng tin đó với
các chuẩn mực kiểm tốn được thực hiện bởi các kiểm tốn viên có đủ năng lực và
độc lập”( Auditing: An Integrated approach, A.A.Arens & J.K.Loebbecker)
Sơ đồ 1.1 Các yếu tố cấu thành kiểm toán
Kiểm toán viên có đủ năng lực và độc lập
Báo cáo kiểm tốn
Thu thập và đánh giá các BCKT
Các chuẩn mực đã được thiết lập
Thơng tin được kiểm
tra
Kiểm tốn
Các thuật ngữ trong định nghĩa trên được hiểu:
Kiểm tốn viên có đủ năng lực và độc lập để có thể thực hiện cuộc kiểm tốn
đảm bảo chất lượng.Năng lực là trình độ nghiệp vụ được hồn thành qua đào tạo và
tích luỹ kinh nghiệm giúp cho Kiểm tốn viên(KTV) có khả năng xét đốn cơng
việc trong từng trường hợp cụ thể. Độc lập là yêu cầu thiết yếu để duy trì sự khách
quan của KTV và tạo được sự tin cậy của người sử dụng kết quả kế toán.
Bằng chứng kiểm toán là sản phẩm của hoạt động kiểm toán, là cơ sở
pháp lý cho kết luận kiểm toán và cơ sở tạo niềm tin cho những người quan
tâm.
Thơng tin được kiểm tra có thể là báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tờ
khai nộp thuế, quyết toán ngân sách của cơ quan Nhà nước... Kết quả kiểm toán sẻ
giúp cho người sử dụng đánh giá sự tin cậy của các thông tin này.
Các chuẩn mực được thiết lập là cơ sở để đánh giá các thông tin được kiểm
tra, chúng thay đổi tuỳ theo các thơng tin được kiểm tra. Ví dụ, báo cáo tài chính
của đơn vị, KTV dựa vào chuẩn mực và chế độ kế tốn hiện hành; cịn đối với tờ
khai nộp thuế thì chuẩn mực để đánh giá se là luật thuế.
Báo cáo kiểm tốn là văn bản trình báy ý kiến của KTV về sự phù hợp giửa
thông tin được kiểm tra va chuẩn mực đã được thiết lập.Nội dung và hình thức báo
cáo phụ thuộc vào mục đích của từng loại kiểm tốn. Thí dụ khi kiểm tốn báo cáo
tài chính của một doanh nghiệp, KTV phải nêu được là báo cáo tài chính có được
trình bày phù hợp với các chuẩn mực và chế độ kế tốn hiện hành và phản ánh
trung thực, hợp lý tình hình tài chinh, kết quả hoạt động và lưu chuyển tiền tệ.
1.1.2 Kiểm tốn độc lập - Lịch sử hình thành kiểm tốn độc lập
Nhu cầu về thơng tin nói chung là tất yếu đối vối con người, xét trên góc độ
cá nhân cũng như tổ chức.Các thơng tin từ chính các đơn vị hoạt động được cung
cấp cho người có nhu cầu sử dụng thơng tin thường thơng qua các báo cáo hay văn
bản thơng báo.Có rất nhiều lý do khách quan và chủ quan tác động đến nội dung và
độ tin cậy của các thông báo này và vì vậy có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyết định của người sử dụng các thơng tin đó làm cơ sở.Ví dụ: các chủ doanh
nghiệp tìm cách che dấu bớt lỗ hoặc khuyếch trương hiệu quả kinh doanh, phóng
đại khả năng tài chính. Thơng tin của đơn vị cũng có thể không đảm bảo trung
thực, hợp lý nếu như quá trình nhân viên chun mơn thực hiện cơng việc khơng
đúng quy định, không đầy đủ các thủ tục, hay dộ trình đọ hạn chế, do thiếu cẩn
trọng,…Bởi vậy, cần phải có một bên thứ ba, độc lập, khách quan có kỹ năng nghề
nghiệp, địa vị và trách nghiệm pháp lý, kiểm tra và đưa ra lời kết luận là các báo
cáo tài chính của doanh nghiệp lập ra có hợp thực khơng, có trung thực và hợp lý
hay khơng.Đó chính là cơng việc của các KTV độc lập thuộc các tổ chức kiểm
toán chuyên nghiệp.Luật pháp nhiều nước đã khẳng định rằng, chỉ những báo cáo
tài chính đã được xem xét và có chữ ký xác nhận của KTV độc lập mới được coi là
hợp pháp, làm cơ sở cho Nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa
ra quyết định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp được kiểm toán.
Trong lịch sử kinh tế - xã hội, khi nền kinh tế phát triển mạnh tạo nên sự tách
biệt rõ rệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, nhu cầu về thẩm định thông
tin do người sử dụng tài nguyên trở nên cấp thiết.
Sự phá sản của hàng loạt tổ chức tài chính, tín dụng lớn ở Bắc Mỹ và Tây Âu
những năm 30 của thế kỷ XX đã bộc lộ rõ sự hạn chế và yếu kém trong chức năng
tự kiểm tra của kế toán và cũng địi hỏi có một thể thức mới đáp ứng u cầu quản
lý cao hơn và thích hợp hơn; kiểm tra ngồi kế tốn.
Cần thấy rõ một thực tế hiển nhiên là: sự tách biệt giữa thực trạng hoạt động
tài chính (thơng tin tài chính phát ra) với sự ghi nhận, phản ánh những thơng tin
này do kế tốn thực hiện (thơng tin tài chính do kế tốn thu nhận, phản ánh).
Nguyên nhân là những hạn chế của các chính sách kế tốn; sự mâu thuẫn giữa tính
đa dạng, phong phú và thường xuyên của các sự kiện kinh tế với sự giới hạn khó
tránh khỏi của trình độ, phương tiện... thu nhận, xử lý và phản ánh các sự kiện kinh
tế. Những thơng tin đã được kế tốn thu nhận và phản ánh liệu đã phản ánh trung
thực hay không. Ngồi ra, cịn một lượng thơng tin chưa được ghi nhận trong kế
toán nhưng lại rẩt cần cho sự xác minh thực trạng tài chính, do đó cũng cần được
kiểm tra.Đây là những nguyên nhân đòi hỏi ra đời và hoạt động của tổ chức kiểm
toán độc lập. Đến nay, hoạt động kiểm toán độc lập phát triển rất nhanh chóng và
mạnh mẽ, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Bốn công ty
kiểm toán hàng đầu thế giới hiện nay là:
- KPMG Peat Marwich (KPMG)
- Ernst & Young (E & Y)
- Deloitte Touch Tohmatsu (DTT)
- Price Waterhouse Cooper
Để chỉ đạo các tổ chức kiểm toán độc lập trên khắp thế giới hoạt động theo
đúng tơn chỉ, mục đích nghề nghiệp, đã hình thành các tổ chức quốc tế là “Liên
đồn Kế tốn quốc tế - (IFAC).Hiệp hội kế toán chuyên nghiệp” (ACCA) và Uỷ
ban Thực hành kiểm tốn quốc tế (IAPC). Liên đồn Kế tốn quốc tế (IAFC) là tổ
chức tồn cầu, được thành lập ngày 7/10/1977 theo sự thoả thuận của 63 tổ chức kế
toán chuyên nghiệp đại diện cho 49 nước. Ngày nay, IFACđã có 100 tổ chức thành
viên của 78 nước, trụ sở chính tại New York, với 106 chi nhánh và gần 1.000.000
hội viên.Mục đích của IFACđược ghi trong hiến chương của mình là “Phát triển và
tăng cường sự phối hợp nghiệp vụ kế tốn và kiểm tốn độc lập trên tồn thế giới
theo các tiêu chuẩn hài hòa”. Trong tổ chức của IFAC có “Hiệp hội Kế tốn chun
nghiệp ACCA” để ban hành và chỉ đạo áp dụng các chuẩn mực kế tốn quốc tế phổ
biến. Cịn Uỷ ban Thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) là Uỷ ban thường trực của
IFAC, được IFAC trao cho các quyền hạn và trách nhiệm đặc biệt, ban hành các
nguyên tắc chỉ đạo kiểm tốn quốc tế và các dịch vụ có liên quan.Các thành viên
của IAPC do các tổ chức thành viên của các nước có chân trong IFAC chỉ định.
Ở nước ta, trước năm 1975, ở thành phố Sài Gịn đã có văn phịng kiểm tốn
của các cơng ty quốc tế (Price Waterhouse..).Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, nhu cầu kiểm toán ở các đơn vị có vốn đầu tư
nước ngồi theo Luật đầu tư nước ngồi, các chương trình tín dụng, phát triển, viện
trợ quốc tế là khách quan và ngày càng tăng.Sự phát triển nhanh chóng của các
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, ngân hàng tư
nhân, sự xuất hiện thị trường chứng khoán.. và xu hướng cổ phần hoá một số
doanh nghiệp Nhà nước cũng địi hỏi phải có dịch vụ kiểm tốn độc lập. Để đáp
ưng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, tháng 5/1991, cơng ty Kiểm tốn Việt
Nam (Vietnam Auditing Company VACO) đã được thành lập theo giấy phêp số
957-PPLT của Hội địng Bộ trưởng (nay là chính phủ) và Quyết định 165/TC-QĐTCCB của Bộ trưởng Bộ tài chính.Sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của VACO
đánh dấu sự mở đầu tốt đẹp của dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Cho đến
nay, đã xuất hiện thêm nhiều công ty Việt Nam, tiêu biểu như: Cơng ty TNHH Tư
vấn và kiểm tốn(A&C),Cơng ty TNHH Tư vấn và kiểm tốn Sài Gịn(AFC)…Các
cơng ty 100% vốn nước ngồi gồm: Cơng ty TNHH Ernst and Young Việt
Nam(E&Y), công ty TNHH KPMG Peat Marwick Việt Nam (KPMG), công ty
TNHH Warterhouse Cooper Việt Nam(PWC),…
1.1.3 Kiểm toán viên độc lập
a.Khải niệm : Người thực hiện cơng việc kiểm tốn được gọi chung là Kiểm
tốn viên.Thơng thường, kiểm tốn viên hành nghề thuộc doanh nghiệp kiểm toán
được gọi là Kiểm toán viên độc lập.Danh xưng kiểm toán viên độc lập (gọi tắt là
kiểm tốn viên) ở từng quốc gia có thể khác nhau.Ví dụ, ở các nước như Mỹ,
Canada, Trung Quốc, kiểm tốn viên được gọi là “kế tốn viên cơng chứng”
(Certifed public Accountant – CPA); ở Anh, Scotland gọi là “giám thị viên kế
toán” ( Chartersd Accoutant-CA),...
b.Tiêu chuẩn của kiểm tốn viên:
Tuy có thể có tên gọi khác nhau, nhưng theo IAFC và luật pháp các nước
thành viên đều quy định các yêu cầu cơ bản đối với kiểm toán viên là: có kỹ năng
và khả năng nghề nghiệp, chính trực, khách quan, độc lập và tơn trọng bí mật.
* Kỹ năng và khả năng của kiểm toán viên
Trình độ chun mơn có được nhờ sự đào tạo, trang bị kiến thức chuyên môn
về mặt lý luận và thực tiển.Kiến thức về các lĩnh vực chủ yếu như kế tốn, pháp
luật, kiểm tốn,... là khơng thể thiếu. Kiến thức chun mơn cịn phải dược bổ
sung, cập nhật thường xuyên theo thời gian để duy trì và nâng cao trình độ. Bên
cạnh đó, kiểm tốn viên độc lập phải có năng lực thực hiện và tổ chức cơng việc
kiểm tra, phân tích, thu thập bằng chứng.
* Đạo đức của kiểm toán viên
Kiểm toán viên phải là người đảm bảo có đạo đức nghề nghiệp thích hợp.
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
(CM số 200) thì kiểm tốn viên phải đảm bảo các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
sau đây:
Độc lập: Độc lập được coi là một nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm tốn
viên. Trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên phải độc lập về mặt chun mơn;
khơng bị sư chi phối nào động của bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm
ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độ lập nghề nghiệp của mình (Ví dụ,
khơng có lợi ich kinh tế với đơn vị được kiểm tốn; khơng có quan hệ thân thuộc
với các nhà quản lý đơn vị; không vừa làm dịch vụ kế toán và dịch vụ kiểm toán
cho cùng một đơn vị,..).
Chính trực: kiểm tốn viên phải đảm bảo thẳng thắn, trung thực và có chính
kiến rõ ràng.
Khách quan: Kiểm tốn viên phải nhìn nhận các sự kiện, hiện tượng đúng như
nó vốn có; tơn trọng sự thật, khơng thiên kiến hay thành kiến.
Bảo mật: Kiểm toán viên phải báo mật các thơng tin có được trong q trình
kiểm tốn; trường hợp được sự cho phép, sự uỷ quyền của đơn vị được kiểm toán
(nghĩa vụ pháp lý hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp đã được luật pháp
quy định).
Bên cạnh đó, kiểm tốn viên phải thực hiện cơng việc kiểm tốn với đày đủ
năng lực chun mơn cần thiết và với sư thận trọng cao nhất( tính hồi nghi nghề
nghiệp), phải thường xuyên thể hiện tính chuyên nghiệp trong quá trinh kiểm toán;
trau dồi, bảo vệ và năng cao uy tính nghề nghiệp, đồng thời, phải thực hiện cơng
việc kiểm tốn theo những quy định của chuẩn mực chuyên môn ( chuẩn mực
quốc tế hay chuẩn mực quốc gia) đã được chấp nhận.
1.2 Nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy kiểm toán
1.2.1 Các khái niệm cơ bản về tổ chức
a.Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết chung của các hệ thống là thuật ngữ được L. Fon Bertalarffy đưa vào
vốn từ vựng khoa học dùng để mô tả lý thuyết các hệ thống mở và các trạng thái
cân bằng động đề xuất năm 1933 tại trường đại học tổng hợp Chicago.Từ lĩnh vực
sinh học các nguyên tắc của lý thuyết này được chuyển sang việc giải quyết những
vấn đề kỹ thuật và quản lý.
Sự xuất hiện của "Lý thuyết chung của các hệ thống", một lý thuyết thuộc
dạng những quan điểm khoa học chung mang tính hình thức và phổ quát, đã thúc
đẩy mong muốn của cộng đồng khoa học muốn tiến tới phổ quát hoá các công cụ
nhận thức khoa học và tiến tới sự nhận được đặc trưng mang tính luận điểm của
tồn bộ các phổ quát.Một trong những nhiệm vụ chính của tiếp cận này là làm rõ
và phân tích các quy luật, các quan hệ qua lại chung đối với các lĩnh vực khác nhau
của hiện thực.Do vậy, cách tiếp cận hệ thống đã được sử dụng trong lý thuyết đã
nêu mang tính chất liên ngành, bởi vì nó tạo ra cơ hội đem những quy luật và
những khái niệm từ một lĩnh vực nhận thức sang một lĩnh vực khác.Tổ hợp các
khái niệm hệ thống là bộ khung khái niệm khởi điểm, tạo ra sơ đồ nguyên nguyên
tắc của sự phân chia khách thể.
Hệ thống - khái niệm trung tâm biểu thị một tập hợp các phần tử trong sự
tương tác qua lại thể hiện tính chỉnh thể và tính chung của mình.
Phần tử - đơn vị khơng thể chia nhỏ được nữa trong một phương thức phân
chia đã cho, và nằm trong thành phần của hệ thống, việc có những mối liên hệ giữa
các phần tử sẽ dẫn đến sự xuất hiện trong hệ thống chỉnh thể những tính chất m
Chỉnh thể - hình thức của tồn tại hệ thống với tư cách được xác định chặt chẽ,
phản ánh sự độc lập của nó với các hệ thống khác.
Tính chỉnh thể là tính thống nhất của hệ thống như một chỉnh thể được các
phần tử thể hiện trong sự tương tác qua lại thực tế của chúng.Nó là cơ sở ổn định
của hệ thống.
b.Tổ chức – thực thể xã hội phức tạp
Theo quan niệm triết học:”Tổ chức nói rộng ra là cơ cấu tồn tại của sự vật.Sự
vât không thể tồn tại mà khơng có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố
thuộc nội dung gì.Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”.Định
nghĩa này bao quát cả các phân hệ tự nhiên và xã hội loài người.
Tổ chức là một thực thể xã hội vì tổ chức thực hiện những chức năng nhất
định trong xã hội, tổ chức gồm nhiều người, nhiều mối quan hệ trong xã hội, và
điều tất yếu tổ chức tồn tại trong một xã hội nhất định, nó thuộc một xã hội nhất
định, xã hội là môi trường cho sự hình thành tồn tại và phát triển của tổ chức.Tổ
chức bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành trong mỗi yếu tố cấu thành đó lại có rất
nhiều yếu tố cấu thành bé hơn và với mỗi yếu tố đó, mỗi bộ phận lại có sự khác
nhau về cơ cấu, mục tiêu, cơ chế quyền lực, môi trường.Sự phức tạp của tổ chức
do đó địi hỏi nhà lãnh đạo phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố để đạt được mục
đích quản lý.Có thể nói ngắn gọn, các yếu tố cấu thành của tổ chức như sau:
Mục tiêu: Nó phụ thuộc vào quy mô của tổ chức và chức năng nhiệm vụ của
tổ chức được giao. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tổ chức thì mỗi tổ chức
ngay từ ban đầu mỗi tổ chức đã đưa ra những mục tiêu cho tổ chức đó ..
Cơ cấu tổ chức: Mỗi tổ chức đều phải phân định rõ chức năng nhiệm vụ quyền
hạn của các bộ phận trong tổ chức để thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Chính vì vậy
việc bố trí sắp xếp các vị trí trong tổ chức là rất quan trọng. Cơ cấu tổ chức phụ
thuộc vào quy mô tổ chức, cùng nhiệm vụ của tổ chức. Tuỳ theo mỗi tổ chức khác
nhau mà có thể sắp xếp cơ cấu khác nhau.
Nguồn lực của tổ chức: Mỗi tổ chức muốn tồn tại và phát triển được thì các
yếu tố quyết định nhất đó là nguồn lực của tổ chức.Hai yếu tố đặc trưng của nguồn
lực tổ chức là : nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kĩ thuật.Đây là yếu tố cơ bản
quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức.
Văn hoá của tổ chức: Các yếu tố văn hố có ảnh hưởng lớn đến việc hình
thành nhân cách con người và đương nhiên ảnh hưởng sâu sắc đến tổ chức tồn tại
trong mơi trường văn hố đó.Các yếu tố văn hóa tổ chức gồm :mối quan hệ giữa
các thành viên, ý thức chấp hành nội quy tổ chức,..
Môi trường của tổ chức: Trong thời đại ngày nay mọi tổ chức muốn cạnh
tranh thì cần có áp dụng về khoa học công nghệ mới nhằm cải tiến cách thức quản
lý, cách thức sản xuất, trang thiết bị làm việc...Sự lạc hậu của khoa học cơng nghệ
là yếu tố kìm hãm sự tồn tại của tổ chức.
Tóm lại, có thể nói tổ chức bao gồm rất nhiều yếu tố rất phức tạp và có tác
động qua lại lẫn nhau.Địi hỏi người lãnh đạo trong tổ chức cần phải phối hợp
không ngừng nâng cao trình độ chun mơn của mình để đạt được mục tiêu của tổ
chức.
1.2.2 Ý nghĩa, nguyên tắc và nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán
Khi đã khẳng định các yếu tố cấu thành hệ thống phương pháp kiểm toán bao
gồm cả kiểm toán chứng từ (kiểm toán cân đối, đối chiếu logic, đối chiếu trực tiếp)
và kiểm tốn ngồi chứng từ (điều tra, thực nghiệm, kiểm kê), những yếu tố này
phải trở thành nhận thức và cả kinh nghiệm trong con người và trở thành cơ chế
hoạt động (kể cả phần cứng và phần mềm) của các phương tiện cấu thành bộ máy
kiểm toán
Lý thuyết hệ thống cũng chỉ rõ mối liên hệ logic giữa các yếu tố, phân hệ và
hệ thống. đó là mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung và chúng có thể chuyển hóa
cho nhau, song sự bao gồm của cái riêng trong cái chung vẫn phải được tôn trọng
trong tổ chức bộ máy kiểm tốn nói riêng cũng như trong mọi hệ thống tổ chức nói
chung.Ngồi ra theo ngun lý chung của tổ chức bộ máy, bộ máy kiểm tốn cũng
có thể được tổ chức theo phương thức trực tuyến – tham mưu hoặc phương thức
chức năng có thể chọn loại hình tập trung hay phân tán tùy quy mô và địa bàn hoạt
động… tùy khả năng và phương tiện điều hành
Do có sự khác nhau về các điều kiện trên và do trình độ nhận thức và kinh
nghiệm kiểm toán cùng mức trang bị các phương tiện kiểm toán ở mỗi nơi, mỗi lúc
khác nhau nên bộ máy kiểm tốn khơng thể tổ chức theo một khn mẫu máy
móc.Hơn nữa, khi đã nói tới yếu tố con người là nói tới các quan hệ xã hội, đến
truyền thống văn hóa cụ thể.Do đó, tổ chức bộ máy kiểm tốn khơng chỉ mang tính
khoa học mà cịn mang cả tính nghệ thuật nữa.Trong trường hợp này, tính khoa học
của tổ chức bộ máy đòi hỏi phải tạo ra những mối liên hệ giữa các yếu tố, các phân
hệ với hệ thống; giữa bản thân hệ thống kiểm toán với các yếu tố khác và cả với
môi trường hoạt động của hệ thống này.Trong khi đó, tính nghệ thuật của tổ chức
đòi hỏi phải phải xử lý các mối liên hệ này thật mềm dẻo để duy trì được biên độ tổ
chức ở mức cao nhất thích ứng với điều kiện cụ thể về nhân viên, thiết bị và môi
trường thực hiện…
Tất cả các yêu cầu trên đòi hỏi khoa học về tổ chức kiểm toán trước hết phải
xác định được những nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy kiểm tốn, trên cơ sở
đó xác định các mơ hình tổ chức trong hang loạt các mối liên hệ trong và ngồi hệ
thống, đồng thời phân tích điều kiện và xác dịnh mục tiêu và bước đi trong tổ chức
bộ máy kiểm toán ở Việt Nam.
a.Nguyên tắc tổ chức bộ máy kiểm toán
Thứ nhất, phải xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đủ về số lượng và bảo đảm
yêu cầu chất lượng phù hợp với từng bộ máy kiểm toán.Rõ ràng, kiểm toán viên là
yếu tố cơ bản cấu thành bộ máy kiểm toán. Sự tồn tại cũng như chất lượng hoạt
động của bộ máy kiểm toán được quyết định trước hết bởi số lượng và chất lượng
đội ngũ kiểm tốn viên. Đó cũng là ngun lý chung cho việc tổ chức hệ thống bộ
máy. Hơn nữa, hoạt động kiểm tốn lại có chức năng đặc biệt nên địi hỏi cao với
kiểm tốn viên cả về chun mơn nghiệp vụ lẫn phẩm hạnh đạo đức. vì vậy, ở bất
cứ đâu, cho dù khi mới xây dựng hay trong bước đường phát triển – các tổ chức
kiểm toán đều coi trọng xây dựng đội ngũ kiểm toán viên.
Mặt khác, kiểm tốn lại bao gồm nhiều loại hình với những bộ máy tổ chức cụ
thể cũng có những điểm khác nhau về nội dung và phương pháp kiểm toán cụ thể
và từ đó cả về tổ chức kiểm tốn.Vì vậy, xây dựng đội ngũ kiểm tốn viên cũng địi
hỏi những u cầu cụ thể riêng biệt thích ứng vơi từng loại hình, từng bộ mày kiểm
tốn.
Tất nhiên, gắn với đội ngũ kiểm toán viên là trang thiết bị cụ thể cho kiểm
tốn: đó là những máy móc, thiết bị, phương tiện thích ứng với kỹ thuật kiểm tốn(
cả phần cứng và phần mềm nếu có) và hình thành cơ chế hoạt động thống nhất
đang thực hiện chức năng kiểm toán.
Hệ thống bộ máy kiểm toán phải bao gồm các phân hệ chứa đựng các mối liên
hệ trong – ngoài khác nhau phù hợp với nguyên tắc chung của lý thuyết tổ chức và
phù hợp với quy luật của phép biện chứng về liên hệ.
Thật vậy, mục tiêu của tổ chức là tạo ra mối liên hệ theo một trật tự xác dịnh.
Trong kiểm toán trật tự này được xác định khác nhau do quan hệ giữa các mục tiêu
kiểm toán khác nhau với các khách thể kiểm toán khác nhau. Mỗi khách thể, mỗi
chủ thể này lại có nhiều mỗi liên hệ khác ngồi kiểm tốn. Trong việc xử lý hàng
loạt mối liên hệ phức tạp này cần phải có phương pháp luận biện chứng giữa các sự
vật, hiện tượng, giữa cái chung và cái riêng, giữa cái mới và cái cũ
Nguyên tắc chung của mọi hệ thống tổ chức bộ máy: tập trung, dân chủ thích
ứng với từng bộ phận kiểm tốn. Nguyên tắc tập trung – dân chủ do Lê-nin đề
xướng trong việc xây dựng Đảng Cộng sản và được phát triển ứng dụng trong mối
quan hệ giữa khách thể - chủ thể - mơi trường kiểm tốn. ở từng phân hệ kiểm toán
trong từng thời kỳ phát triển mối liên hệ chủ thể - khách thể - mơi trường kiểm
tốn. ở từng phân hệ kiểm toán trong từng thời kỳ phát triển mối liên hệ chủ thể khách thể có những điểm khác nhau song đều được tổ chức và hoạt động trong mỗi
Nhà nước cụ thể với một nguyên tắc tổ chức chụ thể: Nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
Từ ý nghĩa và nguyên tắc tổ chức bộ máy kiểm tốn, có thể thấy nhiệm vụ cơ
bản của tổ chức bộ máy kiểm toán là xây dựng mơ hình tổ chức bộ máy, xác định
kiểu liên hệ trong từng mơ hình và mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành hệ
thống bộ máy kiểm toán – kiểm toán viên.
b.Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
Bộ máy kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp
kinh doanh dịch vụ kiểm tốn và các dịch vụ khác có liên quan.là tổ chức kinh
doanh, một đơn vị kiểm toán độc lập phải thức hiện các nghĩa vụ có quyền lợi như
các tổ chức kinh doanh khác. Hơn nữa, kinh doanh dịch vụ kiểm toán là kinh
doanh một nghề chuyên sâu nên phải có kiểm tốn viên đủ điều kiện hành nghề.Do
đó, chỉ có những người có chứng chỉ kiểm tốn viên và đủ điều kiện hành nghề
khác nhau mới được phép tổ chức các đơn vị kinh doanh dịch vụ này. Thơng
thường, cùng với dịch vụ kiểm tốn, bộ máy này có thể thực hiện các dịch vụ khác
có liên quan như kế tốn, thuế, tư vấn, tài chính, tin học… Để thực hiện các loại
dịch vụ này, các tổ chức kiểm tốn độc lập có quan hệ với khách hàng tự nguyện
hoặc bắt buộc theo quy định của pháp luật.
1.3 Mơ hình tổ chức kiểm tốn độc lập trên thế giới
1.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
a. Kiểm toán viên-Nhân tố hàng đầu
Theo quan điểm của kinh tế chính trị học Mác-Lênin, bất cứ phương thức sản
xuất nào của xã hội đều bao gồm hai mặt là Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản
xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất, người lao động và khoa học kỹ
thuật (thể hiện thông qua kỹ năng của người lao động hiện đại ). Trong đó, người
lao động là chủ thể và là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất của xã
hội. Kiểm tốn nói chung và kiểm tốn độc lập nói riêng cũng có thể coi là một
phương thức sản xuất trong xã hội hiện đại, cung cấp các dịch vụ thay vì sản xuất
ra của cải vật chất. Vì vậy, kiểm tốn viên với tư cách là người lao động luôn luôn
giữ một vai trị quyết định quan trọng và có tác động qua lại mạnh mẽ với cách
thức tổ chức kiểm toán, tuân theo quy luật thống nhất biện chứng giữa lực lượng
sản xuất-quan hệ sản xuất.
Tổ chức hệ thống nhân sự trong bộ máy kiểm toán độc lập. Trong các hãng
kiểm tốn, cơ cấu nhân sự điển hình được phân chia làm 4 cấp: Chủ phần hùn
(Partner) hay Cổ đông (Shareholder), Chủ nhiệm kiểm toán (Manager), Kiểm toán
viên (phụ trách hoặc giám sát cơng việc kiểm tốn) và các Trợ lý (Assistant). Một
nhân viên mới sẽ bắt đầu công việc từ vị trí trợ lý và sau một thời gian nhất định
(khoảng 2-3 năm cho mỗi cấp bậc) có thể đạt tới vị trí chủ phần hùn. Có thể thấy
rằng việc thăng bậc trong các hãng kiểm toán diễn ra khá nhanh và liên tục đi kèm
với các trách nhiệm và nghĩa vụ mới. Điều này là vì các nhân viên có điều kiện
được thường xun trau dồi và tích lũy kinh nghiệm qua q trình tham gia kiểm
tốn trên thực tế. Hiện nay do sự tiến bộ của công nghệ thơng tin và cách thức thực
hiện kiểm tốn, các trợ lý kiểm toán ngày càng được trao cho những nhiệm vụ
phức tạp và nhiều thử thách hơn.
Cách thức tổ chức như trên sẽ giúp các hãng kiểm toán nâng cao năng lực,kĩ
năng cũng như kinh nghiệm cho các cá nhân trong công ty. Những nhân viên ở cấp
bậc cao hơn sẽ giám sát và kiểm tra công việc thực hiện bởi cấp bậc xếp ngay bên
dưới. Một nhân viên mới vào nghề sẽ được giám sát trực tiếp bởi kiểm tốn viên
cấp cao. Sau đó, cơng việc của anh ta có thể được chuyển sang cho kiểm tốn viên
cấp trên như chủ nhiệm kiểm toán hay chủ phần hùn-những người có trình độ
chun mơn và kinh nghiệm cao nhất kiểm tra sốt xét lại.
Bảng 2-1 tóm tắt lại kinh nghiệm và trách nhiệm của từng thứ bậc của nhân
viên trong một cơng ty kiểm tốn điển hình.
Bảng 2-1 Thứ bậc và trách nhiệm tương ứng của kiểm tốn viên
Trình độ
nhân sự
Trợ lý kiểm
tốn
Kiểm tốn
viên
Kinh nghiệm
trung bình
Trách nhiệm đặc thù
0-2 năm
-Thực hiện hầu hết các cơng việc kiểm tốn chi tiết
-Chuẩn bị các giấy tờ làm việc cần thiết
-Báo cáo cho nhóm trưởng cuộc kiểm tốn tất cả các khúc mắc
liên quan tới kiểm toán, kế toán
2-5 năm
-Hỗ trợ việc lập kế hoạch kiểm toán và chuẩn bị ngân sách
-Thực hiện điều phối và có trách nhiệm trong cơng việc kiểm
tốn, bao gồm giám sát và xét duyệt lại công việc của các trợ lý
kiểm toán
Chủ nhiệm
kiểm toán
Chủ phần hùn
5-10 năm
Trên 10 năm
-Phụ trách mọi hoạt động của phịng Kiểm tốn
-Chỉ đạo và giám sát các hoạt động kiểm toán và quản lý quan
hệ với khách hàng
-Xét duyệt cơng việc của kiểm tốn viên
-Xem xét lại tồn bộ cơng việc kiểm tốn, có trách nhiệm đưa
ra quyết định cuối cùng (kí báo cáo kiểm tốn)
-Có trách nhiệm cao nhất trong chỉ đạo kiểm toán và thực hiện
cung cấp dịch vụ cho khách hàng
b.Các nhân tố khác
* Chế độ kế toán, kiểm toán hiện hành.
Một nhân tố khơng thể thiếu trong bộ máy kiểm tốn là các chế độ kế toán,
kiểm toán được ban hành nhằm hướng dẫn,định hướng cho hoạt động kiểm toán
của các tổ chức kiểm toán. Để hướng đạo cho việc soạn thảo và ban hành những
chuẩn mực cụ thể, Liên đoàn kế tốn quốc tế (IFAC) đã soạn thảo và cơng bố Văn
bản chỉ đạo Kế tốn quốc tế (IAGs). Đơi khi, Văn bản Chỉ đạo này được đồng
nghĩa với Chuẩn mực chung nhất của kiểm tốn. Đến nay đã có 29 văn bản chỉ đạo
kiểm toán quốc tế được ban hành. Mỗi Văn bản chỉ đạo có thể chứa đựng nhiều
chuẩn mực cụ thể, thậm chí nhiều loại chuẩn mực. Trong hàng loạt chuẩn mực cụ
thể, có những chuẩn mực trở thành thông lệ quốc tế phổ biến. Tại Hoa Kỳ, có 10
chuẩn mực chung được thừa nhận phổ biến (Generally Accepted Auditing
standards – GAAs). Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng Bộ tài chính đã ban hành là 26
chuẩn mực kế toán và 37 chuẩn mực kiểm toán.
Hoạt động kiểm toán trong các tổ chức kiểm toán về nguyên tắc phải dựa trên hệ
thống các Chuẩn mực kiểm toán. Hệ thống Chuẩn mực trong hoạt động kiểm tốn
có vai trị và tác dụng rất lớn, đó là:
• Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán là đường lối, là thước đo giúp cho các kiểm
tốn viên hồn thành trách nhiệm nghề nghiệp của mình trong q trình
kiểm tốn.
• Dựa vào Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán, tổ chức kiểm toán xây dựng quy
trình, nội dung và tổ chức các cuộc kiểm tốn đạt hiệu quả mong muốn.
• Dựa vào Hệ thống Chuẩn mực Kiểm tốn, các kiểm tốn cấp cao có thể
kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ các hoạt động kiểm tốn của từng
kiểm tốn viên, của các Đồn kiểm toán, Tổ kiểm toán, giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động kiểm tốn.
• Đối với cơng chúng, Hệ thống Chuẩn mực Kiểm tốn được xem là cơng cụ
quan trọng nhất để soi xét, kiểm soát các hoạt động của kiểm toán viên trên
các mặt: q trình thực hiện kiểm tốn, tổ chức quản lý hoạt động kiểm tốn
có hợp lý khơng? có chặt chẽ khơng? có đúng với các u cầu đặt ra của Hệ
thống Chuẩn mực hay khơng?
• Dựa vào Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán và mức độ tuân thủ chuẩn mực
kiểm tốn của các kiểm tốn viên, cơng chúng có được mức độ tin cậy đối
với các kết quả kiểm tốn và sự minh bạch hố các thơng tin tài chính cơng
khai đã được kiểm tốn.
* Cơng nghệ thơng tin-Nhân tố mới trong mơ hình hiện đại
Cơng nghệ kế tốn hiện nay trong các cơng ty (đặc biệt trong các công ty lớn )
đều đã được chuyển một phần hay tồn bộ từ kế tốn dạng thủ cơng sang dạng kế
tốn máy, ứng dụng tiến bộ Cơng nghệ thơng tin (CNTT). Ngoài ra cũng phải kể
tới việc sử dụng CNTT trong Hệ thống kiểm soát nội bộ của Doanh nghiệp (tiêu
biểu như việc dùng thẻ điện tử trong chấm cơng lao động). Do đó, để có thể tiếp
tục đáp ứng nhu cầu xác minh và bày tỏ ý kiến một cách đáng tin cậy thì bộ máy
kiểm tốn độc lập nhất thiết phải bổ sung và phát triển cho mình một nền tảng
CNTT tương xứng.
Hiện nay, ứng dụng CNTT trong kiểm tốn cịn đem lại nhiều lợi ích thiết
thực cho cơng tác thực hành kiểm tốn. Ví dụ như tổ kiểm tốn viên có thể dùng
phần mềm kiểm tốn chuyên ngành, lấy dữ liệu là sổ cái của đơn vị khách hàng tải
vào phần mềm để tự động hóa việc lập bảng Cân đối tài khoản, tính tốn chỉ tiêu
kinh doanh trong các thủ tục phân tích, hoặc thực hiện chọn mẫu bằng máy tính...
Vì những nhu cầu cấp thiết như vậy và lợi ích của việc ứng dụng cơng nghệ
thơng tin cho nên các cơng ty kiểm tốn lớn đều đã thành lập riêng bộ phận Công
nghệ thông tin. Bộ phận bao gồm các chuyên gia công nghệ làm nhiệm vụ thiết kế
riêng các chương trình chuyên sâu cho kiểm tốn thay vì đi mua các sản phẩm
thương mại bên ngồi, đồng thời cịn có thể tham gia tư vấn cho các bộ phận khác
khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng có liên quan tới lĩnh vực CNTT.
1.3.2 Tổng quan về tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập
a. Phân loại cơng ty kiểm tốn độc lập
*Theo hình thức doanh nghiệp
Các cơng ty kiểm tốn được tổ chức dưới nhiều hình thức doanh nghiệp rất đa
dạng tùy thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, các quy định pháp luật của địa
phương, quốc gia có hoạt động kinh doanh.
Tại Hoa Kỳ đã và đang tồn tại 6 loại hình doanh nghiệp (*)1 được áp dụng cho
các cơng ty kiểm tốn. Bao gồm:
1 (*) Tên các loại hình doanh nghiệp được tạm dịch sang dạng thức tương đồng nhất trong
luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam
Doanh nghiệp tư nhân (Proprietorship). Doanh nghiệp được sở hữu bởi một cá
nhân duy nhất mới có thể hoạt động dưới hình thức này. Trong quá khứ, tất cả
doanh nghiệp của cá nhân đều tổ chức theo dạng Doanh nghiệp tư nhân nhưng vài
năm trở lại đây thì hầu hết đã tái tổ chức lại theo mơ hình có tính hữu hạn trách
nhiệm hơn nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro khi gặp sự cố về tranh chấp.
Công ty hợp danh thơng thường ( General Partnership).Loại hình doanh
nghiệp này tương tự như Doanh nghiệp tư nhân, ngoại trừ việc nó có thể cho phép
nhiều chủ sở hữu cơng ty. Trước đây cũng như mơ hình tư nhân thì mơ hình này
cũng rất phổ biến.
Công ty hợp doanh thông thường (General Corporation). Hình thức này có
một ưu điểm đó là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm đối với phần vốn mà họ góp
vào doanh nghiệp để kinh doanh. Tuy vậy thì hầu như các cơng ty kiểm tốn khơng
được phép hoạt động dưới hình thức này vì bị giới hạn bởi luật pháp ở nhiều bang
của Hoa Kỳ. Lý do có thể là, nếu cơng ty có vốn đầu tư từ các cổ đơng bên ngồi
thì nhiều khả năng tính độc lập của cơng ty sẽ bị ảnh hưởng vì những liên kết và
ràng buộc về kinh tế.
Công ty hợp doanh chuyên ngành (Professional Corporation). Dạng thức
những công ty cung cấp các dịch vụ mang tính chất chuyên ngành và được sở hữu
bởi một hay nhiều cổ đông. Tại Hoa Kỳ thì luật liên quan tới Cơng ty chun
ngành và trách nhiệm với vốn rất khác nhau ở từng bang. Ở một số bang, quy định
về trách nhiệm công nợ tương tự như với công ty thông thường nhưng ở các bang
khác thì khơng được như vậy. Kết quả là hoạt động theo mơ hình Cơng ty hợp
doanh sẽ gây ra nhiều khó khăn tới hoạt động kiểm tốn cho các khách hàng ở
nhiều bang khác nhau.
Công ty TNHH (Limited Liability Company). Công ty TNHH là sự kết hợp
những đặc trưng tích cực của cả cơng ty hợp doanh và công ty hợp danh. Một công
ty theo kiểu này được cấu trúc và tính thuế như một cơng ty hợp danh, đồng thời
những chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn cơng nợ giống cơng ty hợp
doanh. Nói chung hiện nay các hãng kế toán kiểm toán được phép hoạt động theo
mơ hình này ở nhiều bang của Hoa Kỳ.
Công ty TNHH hợp danh ( Limited Liability Partnership). Một công ty dạng
này được sở hữu bởi một hay nhiều chủ phần hùn, được tính thuế giống cơng ty
hợp danh, tuy nhiên trách nhiệm với cơng nợ thì cao hơn dạng Công ty hợp doanh
và Công ty TNHH. Các chủ phần hùn chỉ có trách nhiệm pháp lý cá nhân đối với
phần vốn của họ cũng như với những hoạt động của bàn thân và những người trong
phạm vi quản lý giám sát. Chủ phần hùn khơng có liên đới tới những hành vi sai
phạm của chủ phần hùn khác cũng như của những nhân viên khơng dưới quyền.
Chính vì những ưu điểm như vậy nên tất cả các Hãng kiểm tốn nhóm Big Four và
nhiều cơng ty nhỏ hơn đều lựa chọn mơ hình này .
•
Tại Việt Nam hiện tại quy định về hình thức tổ chức cơng ty kiểm tốn (vẫn
chưa cho phép hình thức văn phịng kiểm tốn) được quy định cụ thể tại Khoản 1
và khoản 3 Điều 20 Nghị định 105 như sau: "Doanh nghiệp kiểm toán được thành
lập và hoạt động theo quy định của pháp luật theo các hình thức: công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp theo
Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt Nam."
*Theo quy mơ hoạt động
Phân theo quy mơ bộ máy kiểm tốn có thể phân ra làm hai hình thức tổ chức
chính là Văn phịng kiểm tốn tư và Cơng ty kiểm tốn
Văn phịng kiểm tốn tư
Thực chất Văn phịng kiểm tốn tư có thể coi là một dạng quy mơ nhỏ của
Cơng ty kiểm tốn với số lượng nhân viên từ 1-25 người. Mơ hình Văn phòng tư
rất phát triển ở cộng Hòa Pháp (khoảng 2500 văn phòng) và các nước Tây Âu
.Ngay cả ở Mỹ, một quốc gia có nền kiểm tốn tiên tiến, cũng có tới 95% cơng ty
nhỏ từ 1 - 25 người, ở Trung Quốc có tới 600 văn phịng kiểm toán nhỏ ( 3 - 5
người ).
Đối tượng khách hàng của văn phịng kiểm tốn tư chủ yếu là các doanh
nghiệp quy mô nhỏ hoặc các tổ chức phi lợi nhuận, cũng có thể có từ 2-3 tổ chức
thuộc sở hữu quốc doanh. Cũng vì lý do quy mơ hoạt động khá nhỏ nên nhiều văn
phịng tư khơng thực hiện dịch vụ kiểm tốn mà thay vào đó hướng tới các dịch vụ
về kế tốn và thuế khóa.
Cơng ty kiểm tốn
Cơng ty kiểm tốn trên thế giới được phân ra làm ba nhóm chính tùy
theo quy mơ hoạt động. Bao gồm:
Nhóm Big 4. Gồm bốn cơng ty kiểm tốn xun quốc gia hàng đầu thế giới
(PricewaterhouseCoopers, Deloitte Touche Tohmatsu, Ernst & Young, KPMG) với
doanh thu ở mức hàng tỉ USD hàng năm và số nhân viên lên tới hàng chục ngàn
người. Các cơng ty này có văn phịng ở tất cả các bang của Mỹ, ngồi ra cịn thâm
nhập khắp các thị trường trên thế giới, cạnh tranh với công ty kiểm toán địa
phương.
Một đặc điểm đáng chú ý là, tất cả 4 công ty Big 4 thực ra đều không phải
là một siêu công ty mà là một mạng lưới các công ty nhỏ hơn ở nhiều quốc gia.Mỗi
công ty trong mạng lưới sẽ thỏa thuận với nhau về việc chia sẻ một tên chung,
nhãn hiệu chung cũng như một tiêu chuẩn chất lượng. Dù vậy, tại mỗi quốc gia,
cách thức tổ chức của công ty thành viên được xây dựng dựa trên môi trường pháp
lý riêng của nước sở tại.
Hầu như toàn bộ những tập đoàn kinh tế có tầm cỡ quốc gia và quốc tế trên
thế giới đều là khách hàng của Big 4. PricewaterhouseCoopers đang cung cấp dịch
vụ cho 4 trong 10 công ty lớn nhất ở Mỹ, cũng như 4 công ty trong top 10 ở Anh
(ExxonMobil, Ford, IBM, Royal Dutch Shell...). KPMG có khách hàng là những
tập đồn hàng đầu trong lĩnh vực Tài chính Ngân hàng như Citi Group, HSBC và
Standard Chartered Bank. Deloitte được lựa chọn kiểm tốn cho các tập đồn hàng
khơng như Boeing, Lockheed Martin, các tập đoàn CNTT như Microsoft, Dell...
Trong khi đó danh sách khách hàng của Ernst & Young bao gồm những cái tên
đáng chú ý như Google, Intel, British Airways, HP và Canon.
•
Nhóm các cơng ty cấp quốc gia (National Firms). Đây là các công ty quy mơ lớn, chủ
yếu đặt văn phịng trong phạm vi một quốc gia. Các công ty này về cơ bản cung cấp
các dịch vụ tương tự như của các hãng kiểm tốn lớn nằm trong nhóm Big 4 và được
coi là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhóm này.
Ngày nay để mở rộng tầm ảnh hưởng và sức cạnh tranh trên thị trường
quốc tế, các công ty cấp quốc gia (ví dụ như các cơng ty của Hoa Kỳ) cịn hợp tác
với các cơng ty kiểm tốn ở các quốc gia nước ngồi thơng qua việc thành lập ra
các liên doanh kiểm toán. Mặt khác, việc liên doanh cũng nhằm tới mục đích để
cung cấp dịch vụ cho khách hàng là các tập đồn quốc tế với cơng việc kinh doanh
và chi nhánh đặt tại nhiều nơi trên thế giới. Các công ty tiêu biểu như McGladrey
& Pullen, Grant Thorton ( đã lập liên doanh tại Việt Nam là Grant Thorton Việt
Nam),...
•
Nhóm các cơng ty địa phương (Local Firms). Chủ yếu cung cấp các dịch vụ liên
quan tới kiểm toán trong phạm vi một vùng miền cụ thể...Tại Mỹ có khoảng 100
cơng ty kiểm tốn được xếp vào nhóm này với số lượng chuyên viên trung bình
khoảng 50 người. Một số cơng ty chỉ có duy nhất một văn phịng và cung cấp dịch
vụ cho khách hàng sở tại, số khác có nhiều văn phịng đặt tại một bang hoặc một
địa phương duy nhất, cung cấp cho một phạm vi khách hàng rộng hơn. Cơng ty
kiểm tốn địa phương dù vậy vẫn có thể cạnh tranh với các cơng ty kiểm tốn lớn
nằm trong nhóm Quốc gia và Quốc tế. Để nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp
này có thể tham gia mạng lưới chi nhánh thuộc liên hiệp các đơn vị kiểm tốn
nhằm chia sẻ cho nhau thơng tin, kỹ thuật và giúp đỡ nhau về đào tạo. Ngoài ra,
khơng ít doanh nghiệp cịn tìm tới các liên kết với quốc tế.
Bảng 2-2 Thơng tin tóm tắt những hãng kiểm tốn hàng đầu
Hoa Kỳ 1997
Hạng Tên
DT thuần (triệu) Số chủ phần hùn Số chuyên viên VP tại Mỹ
%DT
( Kiểm toán/Thuế/Tư vấn)
BIG FIVE
1Andersen worldwide 5445.0$
1673
32319
95
20/14/66
2PwC
4884.5$
2439
26404
211
37/21/42
3Ernst & Young
4416.0$
2172
17845
89
36/23/41
4Deloite & Touche
3600.0$
1719
16426
106
35/20/45
5 KPMG
3000.0$
1600
13400
130
41/25/34
CẤP QUỐC GIA
6
Grant Thorton
7
McGladrey & Pullen
289.0$
270.1$
278
1979
48
42/30/28
381
1883
64
45/32/23
830
10
32/18/50
CẤP KHU VỰC
9
Crowe, Chizek & Co
97.4$
93
CẤP ĐỊA PHƯƠNG (QUY MƠ LỚN)
50
Follmer, Rudzewicz &Co
18.3$
12
148
2
39/28/33
75
Kaufman Rossin &Co
13.8$
14
64
2
54/32/14
Nguồn trích: Auditing: An Intergrated Approach (Arens, Loebbecke)
Nguyên gốc: Accouting Today (16/03-05/04/1998), trang 18-20
b. Các dịch vụ chính
Chủ yếu các tổ chức kiểm tốn cung cấp bốn dịch vụ chính gồm: Dịch vụ
Kiểm tốn, Kế toán,Thuế và Tư vấn.
Dịch vụ kiểm toán (Auditing Services). Một loại dịch vụ đảm bảo do kiểm toán
viên cung cấp nhằm đưa ra ý kiến về các thông tin được hình thành trên cơ sở
chuẩn mực nhất định. Các hãng kiểm tốn cung cấp 3 loại hình kiểm tốn, bao gồm
Kiểm tốn báo cáo tài chính, Kiểm tốn tn thủ và Kiểm tốn hoạt động. Trong
đó kiểm tốn báo cáo tài chính là dịch vụ đầu tiên và đặc trưng nhất của kiểm tốn
độc lập, hai loại hình cịn lại mới được cung cấp trong vài thập kỉ gần đây.
Kiểm toán hiện vẫn là nguồn thu lớn nhất trong các dịch vụ của một cơng ty
kiểm tốn. Tuy nhiên, trước sự phát triển của các dịch vụ khác kiểm tốn sẽ khơng
cịn chiếm giữ vị trí độc tơn trong mơ hình kinh doanh của các hãng kiểm tốn.
Theo số liệu năm 2007, dịch vụ kiểm tốn có tốc độ tăng trưởng doanh thu thấp
nhất trong số các dịch vụ của nhóm Big 4, vào khoảng 12% và tại 3 trong số 4
công ty Big 4 thì tỉ trọng doanh thu từ kiểm tốn đã xuống dưới mức 50%.
Dịch vụ kế toán sổ sách (Accouting services). Hướng tới các khách hàng có
quy mơ kinh doanh nhỏ khơng có đầy đủ nhân lực hoặc trình độ cần thiết cho cơng
việc hạch tốn, khi đó các cơng ty kiểm tốn sẽ đảm trách thay nhiệm vụ lập báo
cáo tài chính. Trong nhiều trường hợp để phục vụ cho nhu cầu sử dụng thông tin
của các bên thứ ba thì việc lên báo cáo tài chính cịn được thực hiện kèm với quá
trình xét duyệt hoặc kiểm tốn. Tuy vậy, nói chung, việc xét duyệt và kiểm tốn
mang tính tích hợp như vậy thường có ít tính đảm bảo và độ tin cậy chỉ dừng ở
mức chấp nhận được.
Dịch vụ thuế ( Tax Services). Khách hàng của kiểm toán độc lập thường phải
chi trả nhiều loại thuế cho hoạt động của mình như thuế thu nhập, thuế tài sản và
các loại lệ phí khác. Các hãng kiểm tốn có Bộ phận Thuế sẽ hỗ trợ khách hàng
trong việc kê khai các loại thuế, hoặc đóng vai trị đại diện trước các cơ quan Thuế.
Dịch vụ thuế được cung cấp bởi hầu hết các hãng, và với nhiều cơng ty cỡ nhỏ
hoặc văn phịng tư thì thậm chí dịch vụ này cịn đóng vai trị quan trọng hơn cả
dịch vụ kiểm toán.
Dịch vụ tư vấn (Management Consulting Services). Trợ giúp và cung cấp cho
khách hàng những phương thức để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các
dịch vụ này có thể trải rộng từ những gợi ý đơn thuần trong cải thiện và tối ưu hoạt
động kế toán cho tới những tư vấn liên quan tới nhân sự, tài chính, chiến lược kinh
doanh...Nhiều hãng kiểm tốn tổ chức riêng một Bộ phận cung cấp loại dịch vụ
này. Bộ phận này có thể được chia ra theo từng lĩnh vực tư vấn cụ thể như Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ, Hệ thống thông tin quản lý, Hỗ trợ và cố vấn tranh chấp...Làm
việc trong Bộ phận Tư vấn bao gồm tập thể các kiểm toán viên và các chuyên gia
kinh doanh, những người này thường phải có sự "cách ly" tương đối với nhân viên
của Bộ phận Kiểm toán và Thuế.
Tư vấn hiện nay đang là dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số
những dịch vụ của các hãng kiểm tốn, đồng nghĩa với việc đóng góp một tỉ lệ
ngày càng cao hơn trong tổng doanh thu. Năm 2007, doanh thu từ tư vấn của các
công ty kiểm tốn thuộc nhóm Big 4 tăng 20% và chiếm một tỉ lệ khoảng 25%
doanh thu, vươn lên vị trí thứ 2 về tỉ trọng (đứng sau dịch vụ kiểm tốn).
Bảng 2-3 cung cấp thơng tin về doanh thu theo báo cáo năm 2008 của các
cơng ty kiểm tốn trong nhóm Big 4 cũng như tỷ trọng đóng góp doanh thu của các
nhóm dịch vụ.
Bảng 2-3 Doanh thu dịch vụ của các cơng ty kiểm tốn Big 4 năm 2008
Hãng
DT
cácDV
%DT theo các
(kiểm tốn/Thuế/Tư vấn)
Số
lượng Năm tài
nhân viên
chính
PricewaterhouseCoopers
28.2 tỷ$
49/27/23
155,693
2008
Deloitte Touche Tohmatsu 27.4 tỷ$
46/22/32
165,000
2008
Ernst & Young
24.5 tỷ$
8/27/12
135,000
2008
KPMG
22.7 tỷ$
47/21/32
137,000
2008
Nguồn trích: />Nguyên gốc: PwC, Deloite TT, E&Y, KPMG websites
c. Cơ cấu tổ chức điển hình của một cơng ty kiểm tốn
Do cơng ty kiểm tốn tại các quốc gia đều phải thành lập và hoạt động theo
luật Doanh nghiệp nên nói chung về cơ cấu tổ chức có nhiều điểm tương đồng với
các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác. Về cơ bản, tổ chức của một cơng ty
kiểm tốn như sau:
Hội đồng thành viên, hội đồng quản trị. Đưa ra quyết định chiến lược phát
triển và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty;quyết định bộ máy quản lí
,phương thức đầu tư, giải pháp phát triển thị trường và phân chia lợi nhuận
Ban Giám đốc. Là bộ phận điều hành và đưa ra các quyết định về cung cấp
dịch vụ cho khách hàng , chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên ( hội đồng
quản trị) về hoạt động và lợi nhuận của công ty.Trong một cuộc kiểm tốn : Ban
Giám đốc thực hiện kí nhân hợp đồng với khách thể kiểm tốn, trực tiếp chỉ đạo
nhóm kiểm toán thực hiện tác nghiệp tại đơn vị được kiểm toán.Khi kết thúc thúc
kiểm toán, trong Báo cáo kiểm toán viên đưa ra phải có đầy đủ chữ kí của Kiểm
tốn viên thực hiện cuộc kiểm tốn và chữ kí của đại diện ban giám đốc, thể hiện
rõ trách nhiệm của cơng ty kiểm tốn với kết luận kiểm tốn đưa ra.
Dưới Ban giám đốc là các phòng ban tương ứng với các hoạt động tài chính,
tổ chức nhân sự, kế tốn, ban cố vẫn nghề nghiệp, phịng marketing, phịng kinh
doanh tổng hợp, phịng kiểm tốn chun trách...chịu trách nhiệm trước ban giám
đốc về lĩnh vực của mình, đồng thời có sự phối hợp giữa các bộ phận để thực hiện
công tác tổ chức của doanh nghiệp.Thông thường, trong một cuộc kiểm tốn, ban
giám đốc sẽ quyết định nhóm kiểm tốn viên thực hiện kiểm tốn, nhóm kiểm tốn
thường có từ 1 đến 2 trợ lí kiểm tốn viên cao cấp và một chủ nhiệm kiểm
toán.Chủ nhiệm kiểm toán ( người phụ trách kiểm tốn ) quản lí giám sát và thiết
kế chương trình kiểm tốn sắp xếp một cách khoa học và kế hoạch các công việc
và nhân sự,đảm bảo sự phối hợp giữa các kiểm toán viên.
Ban kiểm soát. Chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát chất lượng và mức độ hoàn
thành của việc cung cấp các dịch vụ của cơng ty kiểm tốn, thành viên ban kiểm
sốt lấy từ những người có kinh nghiệm về chun mơn và có vị trí nhất định trong
cơng ty, độc lập trong hoạt động với nhà quản lí, đảm bảo cho mọi công việc tiền
hành theo đúng chuẩn mực và điều lệ cơng ty đặt ra, nâng cao trình độ cho nhân
viên trong nghề nghiệp và tổ chức hoạt động.
1.3.3 Thực tế tình hình tổ chức bộ máy kiểm tốn độc lập trên thế giới
a. Q trình phát triển
Kiểm tốn độc lập trên thế giới ra đời cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thì trường. Dịch vụ kiểm tốn độc lập đã có mặt rất sớm vào nửa cuối thế kỷ 19,
các cơng ty kiểm tốn lớn cấp quốc tế hiện nay hầu như đều có lịch sử thành lập và
phát triển hơn một thế kỷ (Công ty Price WarterHouse có trụ sở chính ở Ln
Đơn ,thành lập năm 1880, Cơng ty KPMG có trụ sở tại Amstelveen, Hà Lan bắt
đầu kinh doanh từ năm 1870, Công ty Ernst & Young và Deloitte Touche Tohmatsu
thậm chí cịn khởi nghiệp sớm hơn, tương ứng vào năm 1849 và 1845) và phát
triển mạnh mẽ thâm nhập váo nhiều ngành nghề , mọi lĩnh vực kinh tế. Thực tế cho
thấy, ở các nước sớm phát triển theo nền kinh tế thị trường , kiểm tốn độc lập đã
hành nghề trước khi có những chuẩn mực kiểm toán như đã biết hiện nay. Theo
thống kê trên thế giời có hàng trăm nghìn tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động
trong lĩnh vực kiểm tốn và tư vấn tài chính ( riêng ở Mỹ có hơn 30.000 tổ chức ).
Kinh nghiệm ở các nước có lịch sử phát triển kiểm tốn lâu dài cho thấy,
trong giai đoạn đầu tiên của hoạt động kiểm toán, việc hành nghề riêng biệt của
từng kiểm toán viên hoặc của một nhóm nhân viên trong lĩnh vực kiểm tốn, tư vấn
tài chính là khá phổ biến.Mơ hình này ngày nay được tổ chức theo hình thức Văn
phịng tư ( kể cả công ty nhỏ ), rất phát triển ở cộng Hòa Pháp ( 2500 văn phòng )
và các nước Tây Âu. Ngay cả ở Mỹ, một quốc gia có nền kiểm tốn tiên tiến , cũng
có tới 95% cơng ty nhỏ từ 1 - 25 người, ở Trung Quốc có tới 600 văn phịng kiểm
tốn nhỏ ( 3 - 5 người ).
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu kiểm tốn được mở rộng ra
trên nhiều lĩnh vực khác nhau cũng với đó là sự mở rộng của quy mơ các cuộc
kiểm tốn, nó khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng hay lãnh thổ mà còn mở
rộng trên phạm vi quốc tế, điều đó tất yếu dẫn đến sự hình thành của mơ hình
Cơng ty kiểm tốn. Các cơng ty kiểm tốn quy mơ lớn thường có xuất phát điểm là
các cơng ty kế tốn kiểm tốn có lịch sử hình thành lâu đời, qua q trình phát triển
sáp nhập với nhau, có chi nhánh ở nhiều nước trên thế giới, các công ty này do có
tiểm lực tài chính vững mạnh uy tín lầu năm trên thị trường và có một lượng khách
hàng đông đảo, doanh thu hàng năm lớn nên các công ty này thường là các công ty
trách nhiệm hữu hạn.Trong khi đó, các doanh nghiệp kiểm tốn vừa và nhỏ, quy
mô hạn chế thường tổ chức các theo loại hình cơng ty trách nhiệm vơ hạn nhằm tạo
uy tín với khách hàng.
b. Đặc điểm tổ chức bộ máy kiểm tốn độc lập trên thế giới
* Hệ thống chính sách pháp luật
Song song với sự hình thành nên các loại hình doanh nghiệp kiểm tốn ,ở các
nước, luật pháp quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán độc
lập,thừa nhận sự khách quan và độc lập của kiểm toán, chấp nhận giá trị pháp lí
của các tài liệu có chữ kí của kiểm tốn. Ở phần lớn các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển, hoạt động của kiểm toán độc lập không chỉ hoạt động theo quy
định pháp luật mà còn theo các tiêu chuẩn của hiệp hội nghề nghiệp, các cơ quan
nhà nước có liên quan sẽ khơng trực tiếp tham gia quản lý hay ban hành văn bản
trực tiếp nào tới kiểm soát chất lượng với hoạt động của các tổ chức thực hiện
kiểm toán. Tại Hoa Kỳ, kiểm toán phải phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán do
Ban chuẩn mực kiểm toán thuộc Viện kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA)
ban hành cũng như phải tuân theo các Luật liên quan như Luật Chứng khoán
1933,1934, Luật giao dịch chứng khoán và các quy định khác của Ủy ban Chứng
khoán (SEC). Tại Trung Quốc, hiệp hội nghề nghiệp của kiểm tốn là Viện kế tốn
viên cơng chứng Trung Quốc (CICPA) hoạt động theo Luật kế toán viên công
chứng 1993
Tuy nhiên, dù các điều luật và quy định liên quan tới hoạt động kiểm toán ở
các quốc gia (đặc biệt tại các nước phát triển) được xây dựng khá chặt chẽ, niềm
tin của công chúng vào các cơng ty kiểm tốn trong thời gian gần đây đang bị lung
lay.Liên tiếp những năm gần đây, nhiều công ty kiểm toán quốc tế bị liên đới trách
nhiệm trong các vụ bê bối tài chính lớn. Arthur Andersen (một trong năm cơng ty
Big 5) có dính líu tới việc gian lận ở tập đoàn năng lượng Enron (Mỹ) năm 2002,
hậu quả công ty này đi tới chỗ phá sản và Big 5 từ năm cơng ty giảm xuống cịn
bốn cơng ty (Big 4). Cơng ty KPMG (cũng nằm trong nhóm Big 4) đã phải trả 125
triệu USD bồi thường trong vụ kiện liên quan tới việc kiểm toán hệ thống cửa hàng
bán lẻ dược phẩm Rite Aid (Mỹ, năm 2003), chỉ 4 năm sau chi nhánh công ty tại
Đức bị điều tra về việc bỏ qua những nghi vấn trong các khoản chi phí của tập
đồn Siemens (Đức, năm 2007, sau đó KPMG đã bị Siemens thay thế bởi Ernst &
Young). Ngay cả PricewaterhouseCoopers, cơng ty kiểm tốn lớn nhất thế giới
hiện nay cũng đang bị cáo buộc đã không phát hiện được các sai phạm trên báo cáo
tài chính của tập đoàn Dell (Mỹ, năm 2007) và mới đây nhất là trong vụ làm giả sổ
sách quy mô lớn (1.5 tỷ USD) ở tập đồn gia cơng phần mềm Satyam (Ấn Độ, năm
2009). Những vụ việc trên đã hối thúc Chính phủ nhiều quốc gia phải ban hành các
đạo luật mới nhằm ngăn ngừa các hành vi sai phạm tiếp diễn trong tương lai cũng
như đảm bảo tính hiệu lực của báo cáo kiểm tốn.Ví dụ trong trường hợp của
Enron và Arthur Andersen, Chính phủ Mỹ sau đó đã ban hành luật Sarbanes-Oxley
(2002), nhằm cải thiện sự đảm bảo và tin tưởng vào các báo cáo, các thông tin tài
chính cơng khai. Các cơng ty kiểm tốn bị rút bớt quyền cung cấp dịch vụ cho
khách hàng kiểm toán của họ để đảm bảo họ không bị các lợi ích làm lung lay, các
dịch vụ này phải do các công ty khác cung cấp. Đạo luật cũng đưa ra các hình phát
rất nghiêm khắc nếu vi phạm các quy định về kiểm tốn như việc có thể tun án
đến 20 năm tù với các tội danh như phá hủy tài liệu. Tuy các chế tài trở nên chặt
chẽ với các cơng ty kiểm tốn nhưng trên thực tế các cơng ty này vẫn có lợi ích từ
đạo luật này. Đó là phần 404 của Đạo luật trong đó quy định rằng bộ báo cáo hàng
năm phải có Báo cáo kiểm soát nội bộ và báo cáo này phải có chứng thực của cơng
ty kiểm tốn. Theo tạp chí Fortune và báo Wall Street Journal, ước tính chỉ 1.000
công ty lớn đang niêm yết ở Hoa Kỳ đã phải trả khoản phí để thực hiện điều khoản
này hàng năm lên đến 6 tỷ USD. Ngành kiểm toán đột nhiên có vơ số cơng ăn việc
làm, nghề kiểm tốn trở nên vơ cùng thịnh vượng.
Sự quản lý của Chính phủ với hoạt động kiểm tốn độc lập khơng chỉ dừng lại
ở cơng tác ban hành luật. Ngồi sự điều chỉnh của hệ thống luật pháp, các đơn vị
thực hiện kiểm tốn cịn phải chịu sự kiểm tra giám sát bởi hệ thống kiểm tra chất
lượng. Ở một số quốc gia, chương trình kiểm tra chất lượng được xây dựng nhằm
một số mục tiêu như đảm bảo việc kiểm toán thực hiện tuân theo các quy định và
chuẩn mực kiểm tốn, bảo vệ lợi ích của người sử dụng kết quả kiểm tốn. Ví dụ,
Hoa Kỳ có chương trình kiểm tra chéo (Peer Review), thực hiện theo Chuẩn mực
kiểm tra chéo của Viện kế tốn cơng chứng Hoa Kỳ (AICPA). Theo đó, các doanh
nghiệp kiểm tốn Mỹ sẽ được kiểm tra chéo theo định kỳ, thường là 3 năm một
lần.
* Một số đặc điểm cụ thể
Thứ nhất, các công ty kiểm toán lớn đều tổ chức cơ cấu bộ máy theo các lĩnh
vực ngành nghề. Nhằm mục đích tăng cường hiệu quả công việc và đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng, nhiều cơng ty kiểm tốn đã tái tổ chức lại theo hướng
phân chia bộ máy thành các bộ phận riêng biệt, mỗi bộ phận phụ trách việc cung
cấp dịch vụ cho một nhóm khách hàng thuộc một lĩnh vực ngành nghề nhất định.
Nhân viên thuộc bộ phận liên quan tới ngành nào sẽ có kinh nghiệm chuyên sâu về
kiểm tốn cho ngành đó, bao gồm từ kiểm tốn viên, chun viên thuế đến chun
gia tư vấn. Ví dụ, công ty KPMG tái tổ chức hoạt động của mình theo các lĩnh vực:
Dịch vụ tài chính, Chăm sóc sức khỏe, Sản xuất, Phân phối và Bán lẻ, Thông tin,
Viễn thơng và Giải trí, Dịch vụ cơng.
Cách làm trên khơng những giúp cơng ty kiểm tốn am hiểu khách hàng hơn,
cung cấp cho khách hàng những dịch vụ gia tăng tốt hơn mà cịn có tác dụng quan
trọng trong việc giảm thiểu rủi ro kiểm toán. Nhiều khách thể kiểm tốn kinh
doanh trong những lĩnh vực như Tài chính, Chăm sóc sức khỏe và Cơng nghệ cao.
Đây là những lĩnh vực rất dễ chịu ảnh hưởng từ biến động kinh tế, những thay đổi
trong hệ thống luật pháp cũng như tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Những ảnh
hưởng này sau đó có tác động trọng yếu tới tình hình tài sản và kinh doanh của
doanh nghiệp. Mặt khác, một số ngành nghề lại mang tính chất đặc thù riêng, địi
hỏi kiến thức chun ngành để có thể đánh giá chính xác tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì vậy, nếu cơng ty kiểm tốn khơng có kiến thức sâu sắc về ngành
nghề của khách hàng thì nhiều khả năng sẽ đưa ra các nhận định sai trong báo cáo
kiểm toán và đối mặt với nguy cơ rơi vào kiện tụng trong tương lai.
Thứ hai, tổ chức bộ máy kiểm toán theo hướng đánh giá rủi ro. Mơ hình kiểm
tốn hiện đại đang được áp dụng bao gồm mơ hình kiểm tốn trên cơ sở hệ thống
và mơ hình kiểm tốn trên cơ sở rủi ro. Kiểm toán trên cơ sở hệ thống thiên về hệ
thống kiểm soát nội bộ, dựa vào việc đánh giá và phân tích hệ thống kiểm sốt nội
bộ để đạt được các mục tiêu kiểm toán. Từ những năm 1990 tới nay thì các cơng ty
kiểm tốn (đặc biệt ở Mỹ) đang tích cực chuyển đổi sang mo hình kiểm tốn trên
cơ sở rủi ro. Trong mơ hình này, cơng ty kiểm tốn sẽ tập trung phân tích các
thương vụ, đánh giá và quản lý rủi ro của khách hàng. Dù mơ hình trên cơ sở rủi ro
là một bước tiến quan trọng trong ngành kiểm tốn nhưng nó cũng bộc lộ nhiều bất
cập, ví dụ như các cơng ty kiểm toán do quá quan tâm đến việc đánh giá rủi ro mà
thiếu sự quan tâm vào công tác thực hiện kiểm tra thực sự để hỗ trợ cho kết luận
kiểm toán.
Thứ ba, các tổ chức thực hiện kiểm toán đang ngày càng tích cực áp dụng
cơng nghệ thơng tin vào quy trình kiểm tốn. Trong tổ chức hoạt động kiểm toán
hiện nay đang nổi lên một lĩnh vực mới đi sâu vào việc nghiên cứu áp dụng công
nghệ thông tin vào kiểm toán dưới tên gọi kỹ thuật kiểm tốn có sự trợ giúp của
máy tính (Computer Aided Audit Techniques – CAATs). CAATs là việc đơn giản hóa
các cơng việc trong q trình kiểm tốn bằng cách sử dụng một cách tích cực
những tính năng của máy tính. Theo nghĩa rộng, CAATs bao gồm cả những phần
mềm hiệu suất phổ thơng như Exel, SAS, Access,…Cịn trên thực tế, CAATs chủ
yếu hướng vào việc phân tích thơng tin, phân tích rủi ro,… đặc biệt hữu ích khi xử
lý một khối lượng lớn dữ liệu của khách hàng. Một số phần mềm CAATs thông
dụng đang được sử dụng trong các công ty kiểm toán như Audit Command
Language (ACL), Interactive Data Extraction and Analysis (IDEA) và
InformationActive's ActiveData For Excel. Ngoài ứng dụng chủ yếu trong q
trình phân tích, lấy mẫu, CAATs cịn có các tính năng tạo các giấy tờ làm việc
(working papers), các báo cáo phân tích, trợ giúp phát hiện gian lận.
Thứ tư, tái cơ cấu các dịch vụ cung cấp. Ngồi dịch vụ kiểm tốn là dịch vụ
hình thành đầu tiên và chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng doanh thu, các hãng kiểm
toán liên tục mở rộng số lượng dịch vụ giá trị gia tăng như tư vấn thuế, tư vấn hoạt
động, tư vấn quản lý… Các dịch vụ này ban đầu xuất phát từ chức năng bày tỏ ý
kiến của hoạt động kiểm toán, tiến tới nhằm thỏa mãn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng. Trong khoảng thời gian thập niên 90 khi thị trường kiểm tốn trên
thế giới hầu như đã bão hịa thì lợi thế cạnh tranh đang được các công ty kiểm tốn
quốc tế áp dụng chính là các dịch vụ gia tăng kể trên. Vì lý do này, tỷ trọng trong
tổng doanh thu từ hoạt động dịch vụ ngồi kiểm tốn liên tục tăng trưởng, đặc biệt
là dịch vụ tư vấn (Theo bảng 2-3, 25% doanh thu năm 2008 của các công ty Big 4
là từ hoạt động tư vấn). Tư vấn đã trở thành một hoạt động đầy lợi nhuận mà cơng
ty kiểm tốn nào cũng muốn triệt để tận dụng. Theo Bảng 2-2, tại thời điểm 1997
tỷ trọng doanh thu từ hoạt động tư vấn đã ngang bằng thậm chí cao hơn từ hoạt
động kế tốn kiểm tốn, riêng Arthur Andersen đã cao gấp 3 lần (66% so với 20%).
Tuy nhiên, việc tập trung quá mức vào các dịch vụ ngồi mà thiếu quan tâm tới
dịch vụ chính là kiểm tốn đã gây ra nhiều hậu quả khơng mong muốn. Khơng như
hoạt động kiểm tốn, hoạt động tư vấn ít mang tính pháp lý nên các doanh nghiệp
có thể tự do hơn trong việc lựa chọn công ty cung cấp dịch vụ, dẫn đến sự ràng
buộc về lợi ích kinh tế đối với các cơng ty kiểm tốn nếu họ muốn giữ được khách
hàng. Hệ quả tất yếu, công ty kiểm tốn sẽ khơng đảm bảo được tính độc lập của
mình cũng như độ tin cậy của các báo cáo kiểm tốn. Trường hợp của Andersen, vì
cơng ty đồng thời cung cấp dịch vụ kiểm toán và tư vấn cho Enron nên đã nảy sinh
thông đồng giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, gây sai lệch kết luận về tình trạng
tài chính Enron lúc đó. Sau sự kiện này, các cơng ty kiểm tốn đã xem xét lại cơ
cấu và hướng tập trung cho các dịch vụ. Điều này thể hiện rõ nét trong tỷ trọng
doanh thu năm 2008 của các cơng ty kiểm tốn Big 4 khi kiểm tốn giữ vai trị
hàng đầu và tư vấn bây giờ chỉ giữ vai trò thứ hai. Một lý do khác giải thích cho
việc tái cơ cấu dịch vụ là do luật pháp nhiều quốc gia quy định công ty kiểm tốn
khơng được đồng thời cung cấp cả dịch vụ kiểm toán và dịch vụ tư vấn cho cùng
một khách hàng. Cơng ty kiểm tốn có càng nhiều khách hàng kiểm tốn thì đồng
nghĩa họ càng bị thu hẹp về thị trường của dịch vụ tư vấn. Ernst & Young đã giải
quyết mâu thuẫn này bằng cách bán lại bộ phận tư vấn của mình cho Capgemini
vào năm 2000. PricewaterhouseCoopers cũng đã từng định bán bộ phận tư vấn cho
Hewlett Packard, nhưng sau đó đã cho sáp nhập vào Hệ thống tư vấn kinh doanh
toàn cầu của IBM với giá 3,9 tỷ USD vào tháng 10 năm 2002.
Thứ năm, các cơng ty kiểm tốn quốc tế ln chú trọng tới chính sách nhân sự
(chế độ tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ, chất lượng môi trường làm việc...). Do đặc
thù của nghề kiểm tốn đó là phụ thuộc nhiều vào năng lực và kinh nghiệm của
người kiểm tốn viên cho nên các cơng ty kiểm tốn đã xác định kiểm tốn viên
chính là yếu tố sống cịn cho sự tồn tại và phát triển của mình. Thực tế cho thấy
hầu như trong các trường hợp phá sản của cơng ty kiểm tốn đều ít nhiều liên quan
tới yếu tố kiểm toán viên. Quay lại trường hợp vụ Arthur Andersen (năm 2002, phá
sản do liên quan tới bê bối của tập đoàn Enron, Mỹ), để lý giải sự sụp đổ của cơng
ty kiểm tốn lớn nhất thế giới vào thời điểm đó các nhà phân tích đã nêu nhiều
nguyên nhân. Trong số những nguyên nhân được đưa ra có một nguyên nhân xuất
phát từ sự yếu kém về năng lực của kiểm tốn viên. Rất có thể, Arthur Andersen đã
cử các kiểm tốn viên khơng có kinh nghiệm kiểm toán hoặc cả tin vào kết quả báo
cáo và kiểm tốn của các cơng ty, trong khi những kiểm tốn viên giỏi khơng trực
tiếp tham gia vào q trình kiểm tốn. Tổng biên tập của tạp chí tài chính Bowman
Accounting Report đã nghiên cứu quá trình kiện cáo liên quan và chỉ ra rằng phần
lớn tổng doanh thu của cơng ty kiểm tốn Arthur Andersen có được từ dịch vụ tư
vấn. Theo bảng 2-2, ngay từ năm 1997 doanh thu từ hoạt động tư vấn của
Andersen đã chiếm tới 66%. Đó là do các kiểm tốn viên giàu kinh nghiệm và thu
nhập cao mải mê mở rộng dịch vụ tư vấn trong khi những người trẻ ít kinh nghiệm
và thu nhập thấp thì chủ yếu được cử đi làm kiểm tốn.
Hiện nay, tại các cơng ty kiểm tốn lớn đều cung cấp cho nhân viên của mình
một hệ thống chính sách đãi ngộ thuộc loại tốt nhất so với các ngành nghề
khác.Cơng ty kiểm tốn KPMG là một ví dụ điển hình.Chi nhánh tại Mỹ của
KPMG được xếp hạng nhất trong số 10 cơng ty có điều kiện làm việc tốt nhất cho
phụ nữ đi làm có con cái, đồng thời xếp hạng 71 trong số 100 công ty đáng để làm
việc nhất của tạp chí Fortune theo bình chọn của chính các nhân viên. Tạp chí
Training Magazine đánh giá KPMG đứng thứ 5 trong 125 cơng ty có chương trình
đào tạo tốt nhất, và là cơng ty được người lao động ưa thích nhất trong số 4 cơng ty
Big 4. Điểm đáng chú ý là KPMG vẫn liên tục hồn thiện hệ thống chính sách