Đề tài nghiên cứu khoa học
MỤC LỤC
- Các loại cổ đông...................................................................................................................6
- Quyền cơ bản của cổ đông...................................................................................................7
Kiểm toán 48A
Đề tài nghiên cứu khoa học
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KTV : Kiểm toán viên.
UBCK : Ủy ban chứng khoán.
BBT : Bông bạch tuyết.
BCTC : Báo cáo tài chính.
BCKT : Báo cáo kiểm toán.
HĐQT : Hội đồng quản trị.
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn.
CTKT : Công ty kiểm toán.
KTĐL : Kiểm toán độc lập.
DN : Doanh nghiệp.
DN TNHH : Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn.
Kiểm toán 48A
Đề tài nghiên cứu khoa học
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về thông tin ngày càng quan
trọng. Thế nhưng, khối lượng thông tin thì ngày một lớn, độ phức tạp ngày
càng tăng làm cho việc đưa ra những quyết định đúng đắn khó khăn hơn.
Chính vì vậy, kiểm toán càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Vào những năm 2006-2007, thị trường chứng khoán tại Việt Nam bắt
đầu phát triển và đạt được những bước tiến thần kỳ. Số lượng công ty niêm
yết và giá trị vốn hoá tăng trưởng nhanh chóng. Vào thời điểm này, các cá
nhân cũng như các tổ chức đều đua nhau mua bán chứng khoán. Nhiều nhà
đầu tư chỉ cần đọc qua báo cáo tài chính của một công ty, thậm chí chỉ nghe
tin đồn là có thể quyết định mua hay bán cổ phiếu. Họ không quan tâm đến
tính xác thực của các báo cáo tài chính cũng như tầm quan trọng của những
thông tin trong báo cáo tài chính. Chỉ cho tới khi thị trường chứng khoán đi
xuống, các công ty bắt đầu thua lỗ và giá cổ phiếu sụt giảm, nhiều nhà đầu tư
mất trắng, nhiều người mới bắt đầu đặt câu hỏi : vậy báo cáo tài chính của
một công ty có đáng tin cậy không ? và nếu nó đã được kiểm toán thì trách
nhiệm của công ty kiểm toán đến mức độ nào đối với nhà đầu tư ? Vấn đề
này, lại một lần nữa được gióng lên với vụ bê bối báo cáo tài chính đã được
kiểm toán của công ty Bông Bạch Tuyết, gây thiệt hại lớn cho rất nhiều nhà
đầu tư.
Xuất phát từ tính thời sự cấp thiết của vấn đề nêu trên, chúng em quyết
định lựa chọn đề tài “Hoàn thiện quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm
pháp lý của công ty Kiểm toán các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường
chứng khoán đối với cổ đông” làm đề tài cho công trình nghiên cứu khoa
học của mình.
Kiểm toán 48A
1
Đề tài nghiên cứu khoa học
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
Mục đích chính của đề tài là nghiên cứu những quy định pháp lý của
Nhà nước cũng như uỷ ban chứng khoán về trách nhiệm pháp lý của công ty
kiểm toán đối với cổ đông niêm yết thực tế tại Việt Nam và một số nước có
thị trường chứng khoán phát triển ( Mỹ, Anh, Nhật) . Từ những quy định đang
có, đề tài sẽ đưa ra một số phương hướng và giải pháp để góp phần xây dựng
những quy định mới rõ ràng và cụ thể hơn về trách nhiệm pháp lý của công ty
kiểm toán đối với cổ đông niêm yết thực tế tại Việt Nam.
3. Những đóng góp của đề tài :
1. Hệ thống những quy định hiện có tại Việt Nam và các nước có nền
kinh tế phát triển ( Mỹ, Anh, Nhật) về vấn đề trên.
2. Phương hướng và biện pháp đưa ra để hoàn thiện những quy định tại
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Trách nhiệm pháp lý của công ty kiểm toán đối với cổ đông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung nghiên cứu quy định về trách nhiệm pháp lý của công
ty kiểm toán đối với cổ đông ở Việt Nam và các nước có nền kinh tế phát
triển ( Mỹ, Anh, Nhật).
5. Phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp so sánh để tìm ra điểm khác biệt trong các quy
định ở Việt Nam với các quy định ở nước ngoài.
- Phương pháp chuyên gia, trên cơ sở nhận định, đánh giá của các
chuyên gia đối với các quy định tại Việt Nam cũng như nước
ngoài.
6. Kết cấu của đề tài:
Tên đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện quy định về nghĩa vụ và
Kiểm toán 48A
2
Đề tài nghiên cứu khoa học
trách nhiệm pháp lý của công ty Kiểm toán các doanh nghiệp niêm yết
trên thị trường chứng khoán đối với cổ đông”. Ngoài phần mở đầu và phần
kết luận, nội dung đề tài bao gồm bốn phần được kết cấu như sau:
Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm pháp lí đối với
Công ty kiểm toán các Doanh nghiệp niêm yết.
Ph n 2: ầ Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về nghĩa vụ và
trách nhiệm pháp lý của Công ty kiểm toán.
Ph n 3: ầ Thực tiễn các quy định về các quy định về nghĩa vụ pháp lý
của công ty kiểm toán tại Việt Nam.
Phần 4: Những ý kiến đóng góp và xây dựng để hoàn chỉnh về những
quy định pháp lí đối với Công ty kiểm toán và kiểm toán viên ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu và viết bài, chúng tôi đã nhận được sự hướng
dẫn, những ý kiến quý báu và quan trọng của TS Nguyễn Phương Hoa về nội
dung và những kiến thức thực tế của cô cho đề tài của chúng tôi. Chúng tôi
xin được gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới TS Nguyễn Phương Hoa đã
giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Vì đây là một vấn đề khá mới mẻ nên nguồn tài liệu cho đề tài không
phải là nhiều, cần nhiều nỗ lực và thời gian nghiên cứu. Tuy vậy, đề tài vẫn
không tránh được một số sai sót nhất định. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận
được sự quan tâm và góp ý của các thầy cô, các nhà chuyên môn để đề tài có
chất lượng cao hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm nghiên cứu đề tài.
Kiểm toán 48A
3
Đề tài nghiên cứu khoa học
Kiểm toán 48A
4
Đề tài nghiên cứu khoa học
NỘI DUNG
1. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm pháp lí đối với công ty kiểm toán.
1.1. Các khái niệm cơ bản.
* Công ty kiểm toán.
Công ty kiểm toán là một xí nghiệp cá thể, hợp danh hoặc cổ phần
chuyên nghiệp hoặc hiệp hội hành nghề kiểm toán độc lập, kể cả cá nhân
những người chung vốn và các cổ đông của tổ chức đó.
* Kiểm toán viên.
Kiểm toán viên là người phải đủ khả năng để hiểu các chuẩn mực sử
dụng, và phải đủ thẩm quyền để biết được các loại và số lượng bằng chứng
cần thu thập nhằm đạt được kết luận hợp lý sau khi đã xem xét chúng. Kiểm
toán viên cũng phải có một quan điểm tư tưởng độc lập.
Thật là không hay nếu một cá nhân có thẩm quyền mà lại không vô tư
thu thập chứng cứ, vì thông tin vô tư và quan điểm khách quan là rất cần thiết
đối với việc phán xét và quyết định. Những điều kiện bắt buộc đối với kiểm
toán viên:
- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Phải có chứng chỉ kế toán viên
công chứng( CPA – Certificate public accountant).
- Về pháp lý: phải đăng ký hành nghề tại Bộ Tư pháp. Riêng ở Việt
Nam, phải đăng ký hành nghề tại Bộ Tài chính.
- Về phẩm chất đạo đức: Trung thực, liêm khiết, tuyệt đối giữ bí mật
thông tin về khách hàng, đảm bảo tính thận trọng nghề nghiệp thích đáng.
- Về tính độc lập:
+ Độc lập về quan hệ xã hội.
+ Độc lập về quan hệ kinh tế.
+ Độc lập trong việc thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán.
Kiểm toán 48A
5
Đề tài nghiên cứu khoa học
* Cổ đông.
Cổ đông (tiếng Anh: Shareholder) là cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền
sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp (cổ phần) của một công
ty cổ phần. Chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu này gọi là cổ phiếu. Về bản
chất, cổ đông là thực thể đồng sở hữu công ty cổ phần chứ không phải là chủ
nợ của công ty đó do vậy quyền lợi và nghĩa vụ của họ gắn liền với kết quả
hoạt động của doanh nghiệp.
- Các loại cổ đông
Các loại cổ đông thường được phân biệt bằng quyền cũng như nghĩa vụ
gắn liền với loại cổ phiếu mà họ sở hữu.
• Cổ đông sáng lập: là những cổ đông đầu tiên góp vốn để hình thành
nên công ty cổ phần.
• Cổ đông đặc biệt: là cổ đông (thường là Nhà nước) mặc dù chỉ nắm
một số lượng cổ phần rất ít ỏi chỉ mang tính chất tượng trưng nhưng
có quyền phủ quyết trong một số quyết sách quan trọng (được quy
định trong điều lệ công ty) của công ty cổ phần. Loại cổ đông này còn
gọi là cổ đông ưu đãi biểu quyết và loại cổ phần mà cổ đông đặc biệt
nắm giữ gọi là cổ phần vàng
• Cổ đông ưu đãi: là những cổ đông được ưu tiên một quyền nào đó
(thường là quyền hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định trước khi lợi nhuận
được phân phối cho các cổ đông khác, quyền nhận lại giá trị của cổ
phần khi có yêu cầu). Đi kèm với quyền ưu tiên, cổ đông ưu đãi
thường bị hạn chế các quyền khác (ví dụ quyền ứng cử vào bộ máy
quản trị của công ty, quyền biểu quyết...).
• Cổ đông thường: là các cổ đông còn lại.
Một cách phân loại khác là căn cứ tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ,
theo cách này cổ đông được phân loại thành cổ đông lớn và cổ đông thiểu số.
Tỷ lệ để có thể coi là cổ đông lớn thường do điều lệ công ty cổ phần quy định
Kiểm toán 48A
6
Đề tài nghiên cứu khoa học
trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
- Quyền cơ bản của cổ đông
• Quyền bỏ phiếu: Với số cổ phiếu tương ứng, cổ đông có thể bỏ phiếu
hay thông qua đại diện do cổ đông uỷ quyền một cách hợp pháp để bỏ
phiếu quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của công
ty cổ phần như đường lối, chiến lược kinh doanh, phân phối lợi
nhuận, tăng hoặc giảm vốn điều lệ....trong kỳ họp (hoặc lấy ý kiến
bằng văn bản) đại hội đồng cổ đông. Những vấn đề phải do đại hội
đồng cổ đông quyết định được quy định trong bản điều lệ của công
ty.
• Quyền nhận cổ tức từ lợi nhuận của công ty; nhận phần giá trị tài sản
còn lại của công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản. Tỷ lệ nhận
tương ứng với tỷ lệ cổ phần của cổ đông. Khi công ty phá sản, giải
thể, cổ đông chỉ có thể được nhận giá trị tài sản còn lại của công ty
sau khi công ty đã thực hiện thanh toán các khoản nợ: nộp thuế, trả
lương cho người lao động, trả nợ vay, trả nợ cho đối tác cung ứng
hàng hóa, dịch vụ..... Nói một cách khác, quyền của cổ đông đối với
tài sản của công ty cổ phần có thứ tự ưu tiên xếp sau các chủ nợ của
công ty đó.
• Quyền lựa chọn: lựa chọn mua thêm cổ phần của công ty khi công ty
tăng vốn điều lệ, chuyển đổi cổ phần ưu đãi thành cổ phần thường...
• Quyền chuyển nhượng cổ phần mình đang nắm giữ, một số cổ đông
như cổ đông sáng lập... có thể bị hạn chế thực hiện quyền này bởi một
số điều kiện.
1.2. Báo cáo kiểm toán, vai trò của báo cáo kiểm toán.
* Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán là báo cáo kiểm toán – bản
thông báo về các phát hiện cho người đọc báo cáo. Các báo cáo khác nhau
Kiểm toán 48A
7
Đề tài nghiên cứu khoa học
về bản chất, nhưng trong mọi trường hợp chúng đều phải thông tin cho
người đọc về mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng và chuẩn mực đã
xây dựng. Báo cáo cũng khác nhau về hình thức và có thể thay đổi từ loại
phức tạp mà thường gắn với các báo cáo tài chính đến các báo cáo đơn giản
bằng miệng trong trường hợp cuộc kiểm toán tiến hành cho một người nào
đó. Như vậy:
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính là loại báo cáo bằng văn bản
do kiểm toán viên lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về
báo cáo tài chính của một đơn vị (tổ chức hoặc doanh nghiệp) đã được kiểm
toán.
* Vai trò, ý nghĩa của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có vai trò, ý nghĩa quan trọng
trong hoạt động kiểm toán và với người sử dụng báo cáo tài chính.
Đối với hoạt động kiểm toán, báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính là
khau cuối cùng trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo tài chính để
trình bày kết quả của cuộc kiểm toán bằng những ý kiến đánh giá của kiểm
toán viên về thông tin định lượng và trình bày báo cáo tài chính theo quy định
của chuẩn mực hoặc chế độ kiểm toán hiện hành.
Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo tài chính
Đối với người sử dụng báo cáo tài chính, khi sử dụng báo cáo tài chính
có báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính đính kèm giúp cho người sử dụng
báo cáo tài chính đánh giá được độ tin cậy của các thông tin định lượng trên
Kiểm toán 48A
8
Chuẩn bị
kiểm toán
Thực hiện
cuộc kiểm
toán
Kết thúc cuộc
kiểm toán
Báo cáo
kiểm toán về
báo cáo tài
chính
Đề tài nghiên cứu khoa học
báo cáo tài chính trên cơ sở đó mà họ có các quyết định kinh tế đúng đắn,
hiệu qủa trong mối quan hệ kinh tế đối với tổ chức hoặc doanh nghiệp có báo
cáo tài chính này.
Sơ đồ.2: Mối quan hệ giữa báo cáo tài chính, báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính và người sử dụng báo cáo tài chính
Luật pháp nhiều nước khẳng định rằng, chỉ những báo cáo đã được xem
xét và có chữ ký của kiểm toán viên độc lập mới được coi là hợp pháp, làm cơ
sở cho nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa ra các quyết
định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp.
Như vậy giá trị của kết quả kiểm toán( báo cáo kiểm toán ): Các tài liệu,
số liệu kế toán và báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán sau khi được
kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán kiểm tra, xác nhận là căn cứ tin
cậy để:
1. Cơ quan nhà nước và đơn vị cấp trên sử dụng cho quản lý, điều hành
theo chức năng, nhiệm vụ được giao;
2. Các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, liên kết, các
khách hàng và tổ chức, cá nhân khác xử lý các mối quan hệ về quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị;
Kiểm toán 48A
9
Báo cáo tài chính di
doanh nghiệp lập
Ra các quyết định kinh tế
Doanh nghiệp
Báo cáo
kiểm toán
về báo cáo
tài chính
do KTV
lập
Người sử dụng
báo cáo tài
chính
Đề tài nghiên cứu khoa học
3. Giúp cho đơn vị được kiểm toán phát hiện, xử lý và ngăn ngừa
kịp thời các sai sót có thể xảy ra trong hoạt động của đơn vị, góp phần thực
hiện công khai báo cáo tài chính, phục vụ công tác quản lý, điều hành đơn vị,
làm lành mạnh môi trường đầu tư.
1.3. Nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty
kiểm toán.
1.3.1. Nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên.
* Nghĩa vụ:
Nhu cầu kiểm toán xuất phát từ việc các chủ sở hữu doanh nghiệp (cổ
đông) bởi họ không thể và cũng không cần thiết tự kiểm tra mọi thông tin tài
chính của doanh nghiệp do giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm lập và
báo cáo cho họ, do vậy họ đã bổ nhiệm các kiểm toán viên – những người có
đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, khách quan - thay thế họ kiểm
tra một cách độc lập và báo cáo lại theo ý kiến của mình về tính trung thực và
hợp lý của các báo cáo tài chính. Cùng với sự phát triển và đa dạng của nền
kinh tế, các thông tin tài chính được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau
cho các đối tượng khác nhau. Tuy nhiên tất cả những người sử dụng kết quả
kiểm toán đều cần sự đảm bảo rằng những thông tin tài chính mà họ được
cung cấp có trung thực và hợp lý hay không.
Như vậy nghĩa vụ trước hết của kiểm toán viên là báo cáo một cách độc
lập theo ý kiến của mình dựa trên kết quả kiểm toán về mức độ trung thực và
hợp lý của các thông tin tài chính.
Đồng thời trong một số trường hợp, kết quả kiểm toán cho thấy doanh
nghiệp có hành vi không tuân thủ pháp luật ở mức độ nào đó mà theo qui định
của pháp luật cần báo cáo cho các cơ quan chức năng, khi đó kiểm toán viên
còn có nghĩa vụ báo cáo lại cho các cơ quan chức năng về hành vi vi phạm đó
của doanh nghiệp. Tóm lại, nghĩa vụ của kiểm toán viên là dựa trên kết quả
kiểm toán và báo cáo cho:
Kiểm toán 48A
10
Đề tài nghiên cứu khoa học
- Những người sử dụng kết quả kiểm toán theo yêu cầu, mục đích của
kiểm toán.
- Các cơ quan chức năng nếu thấy có những hành vi vi phạm pháp luật ở
mức độ nhất định mà pháp luật yêu cầu phải báo cáo.
Việc xác định nghĩa vụ báo cáo của kiểm toán viên có ý nghĩa quan
trọng bởi cuộc kiểm toán được tiến hành dựa trên hợp đồng kiểm toán ký kết
giữa đơn vị được kiểm toán và tổ chức kiểm toán, do vậy về hình thức các
kiểm toán viên phải báo cáo cho đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên những
người sử dụng kết qủa kiểm toán mới là đối tượng chính mà kiểm toán viên
có nghĩa vụ phải báo cáo đó là các chủ sở hữu, các cổ đông, những người cho
vay,..., hay những đối tượng khác theo qui định của pháp luật (gọi chung là
bên thứ 3). Để thực hiện trách nhiệm của mình trước những đối tượng sử
dụng kết quả kiểm toán, kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn
mực kiểm toán, mà trong đó phải luôn luôn giữ được tính độc lập, chính trực
và khách quan trong quá trình kiểm toán. Các kiểm toán viên phải có nghĩa vụ
phát hiện các sai sót trọng yếu và thậm trí là các hành vi phạm pháp (nếu có)
của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp.
Về nghĩa vụ phải thông báo cho các cơ quan chức năng về những hành
vi phạm pháp của doanh nghiệp. Không phải mọi phát hiện của kiểm toán
viên về hành vi không tuân thủ pháp luật đều phải thông báo cho các cơ quan
chức năng mà chỉ những trường hợp cụ thể theo qui định của pháp luật. Mặc
dù qui định như vậy trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũng như quốc tế
nhưng trong thực tế ở việt nam cũng như các nước khác trên thế giới cũng
chưa có qui định nào chỉ rõ rằng những tình huống nào kiểm toán viên cần
phải thông báo. Tuy nhiên trong các chuẩn mực kiểm toán hướng dẫn, khi
phát hiện các hành vi không tuân thủ pháp luật hay gian lận của doanh nghiệp
thì tuỳ từng tình huống mà kiểm toán viên có ứng sử thích hợp, từ việc đánh
Kiểm toán 48A
11
Đề tài nghiên cứu khoa học
giá mức độ ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, thông báo cho Ban giám đốc
doanh nghiệp, thông báo cho những người sử dụng báo cáo kiểm toán và
trong trường hợp pháp luật qui định cần thông báo cho cơ quan chức năng và
trong trường hợp này kiểm toán viên cần tham khảo ý kiến của chuyên gia
pháp luật, hoặc kiểm toán viên có thể và cần thiết từ bỏ cuộc kiểm toán khi
thấy rằng mức độ an toàn trong việc thực hiện hợp đồng kiểm toán này dưới
mức cho phép.
Trong thực tế luôn tồn tại khoảng cách giữa kiểm toán viên và những
những người sử dụng kết quả kiểm toán về những mong muốn của những đối
tượng này với phạm vi trách nhiệm của kiểm toán viên. Các mong muốn của
này luôn vượt quá trách nhiệm và khả năng của kiểm toán viên. Trách nhiệm
của kiểm toán viên là đảm bảo rằng trong báo cáo tài chính đó không có các
sai sót trọng yếu, và nếu có các sai sót trọng yếu, kiểm toán viên phải hành
động theo hướng dẫn của các chuẩn mực kiểm toán và pháp luật. Theo nguồn
số liệu trong cuốn Auditing – Theory & Practice của John Dunn, University of
Strathclyde, Glasgow cho thấy kết quả khảo sát đối với những người sử dụng
kết quả kiểm toán thì các yêu cầu, mong đợi của các đối tượng này đối với
các kiểm toán viên xoay quanh các vần đề:
- 93% những người được hỏi cho rằng kiểm toán viên cung cấp sự đảm bảo
rằng không có bất cứ gian lận nào gây ra bởi các người lãnh đạo của công ty,
- 92% cho rằng kiểm toán viên đảm bảo chắc chắn rằng Ban giám đốc
công ty đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm của họ,
- 71% Kiểm toán viên phải cảnh báo về bất cứ sự kém hiệu quả nào của
Ban giám đốc công ty,
- 81% cho rằng kiểm toán viên mang lại sự đảm bảo rằng Công ty có
tình hình tài chính tốt và
- 71% cho rằng kiểm toán viên đảm bảo rằng mọi hành vi của Ban giám
Kiểm toán 48A
12
Đề tài nghiên cứu khoa học
đốc là phù hợp với lợi ích của các cổ đông.
Kiểm toán viên rất khó và không thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu
trên. Khoảng cách này tồn tại một phần do sự thiếu hiểu biết đầy đủ về bản
chất, mục tiêu của kiểm toán của khách hàng và những người sử dụng kết quả
kiểm toán. Về mặt pháp lý, trong chuẩn mực kiểm toán cũng đã nêu, kiểm
toán viên không thể có và không phải chịu trách nhiệm ngăn ngừa những gian
lận, tuy nhiên công tác kiểm toán chỉ có thể được coi là một biện pháp răn đe
hữu hiệu.
* Trách nhiệm pháp lý.
Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên được luật pháp qui định: “Nếu
kiểm toán viên vị phạm pháp luật (như cố ý làm sai qui định, thông đồng bao
che cho người phạm lỗi, dùng thủ thuật nghiệp vụ để che dấu sai sót, nhận hối
lộ, báo cáo kiểm toán thiếu khách quan trung thực…) thì tuỳ theo mức độ
nặng nhẹ có thể bị thu hồi chứng chỉ kiểm toán viên và bị xử lý theo pháp luật
hiện hành; nếu vì những vi phạm và thiếu sót mà gây thiệt hại vật chất cho
khách hàng thì kiểm toán viên phải bồi thường thiệt hại”. ( Theo Các điều luật
và quy chế cần quan tâm khi thực hiện Kiểm toán các báo cáo tài chính. 1998.
Quyển Sổ tay IFAC 1998).
Ở các nước có hoạt động kiểm toán phát triển thì qui định này chỉ cụ thể
rằng, các kiểm toán viên chịu trách nhiệm về những thiệt hại do sự thiếu trách
nhiệm hoặc đã không đủ năng lực khi thực hiện dịch vụ kiểm toán dẫn đến
các thiệt hại cho những đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán. Trách nhiệm
này chỉ có thể xẩy ra khi:
- Có thiệt hại xẩy ra trực tiếp đến đối tượng cụ thể sử dụng báo cáo
kiểm toán đó và đối tượng này yêu cầu kiểm toán viên thực hiện trách nhiệm
bồi thường
- Thiệt hại xẩy ra là hậu quả trực tiếp của việc sử dụng báo cáo kiểm
Kiểm toán 48A
13
Đề tài nghiên cứu khoa học
toán có sai sót trọng yếu.
- Kiểm toán viên chỉ chịu trách nhiệm trực tiếp với đối tượng bị thiệt hại.
Khi xẩy ra các thiệt hại cần phải xác định rõ nguyên nhân gây ra. Các
kiểm toán viên không thể bảo đảm cho các đối tượng sử dụng báo cáo kiểm
toán khỏi các rủi ro tiềm tàng trong kinh doanh, đầu tư, cho vay... . Lý do của
vấn đề này do sự khác biệt giữa rủi ro thông tin và rủi ro kinh doanh.
Mặc dù kiểm toán viên không có trách nhiệm ngăn ngừa các sai sót cố ý
hay gian lận hoặc các hành vi không tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp,
đồng thời kiểm toán viên cũng không thể đảm bảo rằng ban giám đốc doanh
nghiệp thực hiện tốt chức năng của mình và phù hợp với lợi ích của các cổ
đông, nhưng trong quá trình kiểm toán, bằng các kỹ thuật nghiệp vụ kiểm
toán thông thường, nếu phát hiện bất cứ sự yếu kém, thiếu hiệu quả trong hệ
thống quản lý, thì đồng thời với báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải đưa
ra ý kiến, nhận xét, đánh giá và các gợi ý hoàn thiện về từng nội dung cần sửa
đổi thông qua thư quản lý. Thư quản lý được gửi cho Ban giám đốc công ty
và có thể cần gửi cho các thành viên công ty – Hội đồng Quản trị.
1.3.2. Nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của công ty kiểm toán.
Như các lĩnh vực hoạt động khác, hoạt động kiểm toán chỉ có thể thực
hiện tốt và đạt hiệu quả cao trong khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Hệ
thống pháp lý cần thiết cho hoạt động kiểm toán bao gồm: (1) các luật lệ, cơ
chế chính sách liên quan đến hoạt động của các đối tượng kiểm toán và (2)
các luật lệ, cơ chế chính sách của bản thân hoạt động kiểm toán. Khuôn khổ
pháp lý của bản thân hoạt động kiểm toán bao gồm:
* Những qui định mang tính pháp lý: là những qui định bắt buộc cưỡng
bức của Nhà nước được qui định trong các Luật, hoặc văn bản pháp quy
(Nghị định, Thông tư, …). Những qui định mang tính pháp lý đảm bảo sự
thống nhất trong việc thực hiện công tác kế toán ở các đơn vị, mặt khác tạo ra
một khuôn khổ pháp lý để Nhà nước quản lý thống nhất việc thực hiện công
Kiểm toán 48A
14
Đề tài nghiên cứu khoa học
tác kiểm toán trong toàn bộ quốc gia. Tính độc lập, nguyên tắc cơ bản nhất
của kiểm toán chỉ được đảm bảo khi cơ chế luật pháp được đảm bảo.
* Những qui định mang tính mực thước: hay còn gọi là chuẩn mực. Đó
là các nguyên tắc căn bản của kiểm toán, qui trình nghiệp vụ của các cuộc
kiểm toán, hệ thống phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán. Theo tài
liệu thuật ngữ kế toán – kiểm toán của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán
(IFAC) thì: “Chuẩn mực kiểm toán là những văn kiện mô tả các nguyên tắc cơ
bản về nghiệp vụ và xử lý các mối quan hệ phát sinh trong quá trình kiểm toán
mà trong quá trình hành nghề các kiểm toán viên buộc phải tuân theo”. Các
chuẩn mực kiểm toán là yêu cầu tất yếu của hoạt động kiểm toán. Nó không
những làm yên lòng những người sử dụng thông tin tài chính mà còn là cơ sở
thực hiện công việc kiểm toán và đo lường, đánh giá công việc của kiểm toán
viên.
Ở nhiều nước trên thế giới việc nghiên cứu và ban hành các chuẩn mực
và qui tắc kế toán, kiểm toán do các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp ban hành.
Đối với các nước thành viên của IFAC và một số nước khác chưa là thành
viên của IFAC cũng chấp nhận và coi những nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán
quốc tế do IFAC ban hành làm các văn bản pháp qui về kiểm toán của Quốc
gia mình. Theo thông báo ngày 27/6/1994 của Uỷ ban thực hành kiểm toán
quốc tế (IAPC) thì từ 1/9/1994 toàn bộ kiểm toán viên chuyên nghiệp ở 89
nước thành viên của liên đoàn quốc tế các nhà kế toán sẽ áp dụng hệ thống
chuẩn mực kiểm toán quốc tế mới.
Đồng thời với việc phải tuân thủ theo các khuôn khổ pháp luật của bản
thân hoạt động kiểm toán, trong quá trình kiểm toán, để đưa ra ý kiến kiểm
toán, các kiểm toán cần phải dựa vào các qui định pháp lý khác liên quan đến
đối tượng kiểm toán. Nếu các chuẩn mực kiểm toán yêu cầu các kiểm toán
viên phải thực hiện các công việc kiểm toán đầy đủ theo các nội dung mang
tính mực thước thì các qui định pháp lý liên quan đến đối tượng kiểm toán là
Kiểm toán 48A
15
Đề tài nghiên cứu khoa học
các cơ sở để các kiểm toán viên so sánh, đánh giá các bằng chứng kiểm toán
để đưa ra ý kiến về đối tượng kiểm toán. Để đưa ra ý kiến nhận xét về sự
trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính thì kiểm toán viên phải xem xét và
khảng định rằng các Báo cáo tài chính có được lập theo các nguyên tắc kế
toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan hay
không? Chẳng hạn, kiểm toán viên phải xem xét khả năng hoạt động liên tục
của doanh nghiệp,... . Để đánh giá được tính liên tục hoạt động, kiểm toán
viên cần phải quan tâm đến các yếu tố dẫn đến phá sản hay giải thể doanh
nghiệp hoặc các yếu tố khác có thể dẫn đến khả năng tiếp tục hoạt động trong
thời gian nhất định. Muốn vậy, kiểm toán viên phải dựa vào luật công ty, luật
lao động, hay các qui định pháp lý liên quan khác. Hoặc khi kiểm toán xác
định kết quả kinh doanh trong kỳ cần phải dựa vào các qui định của nhà nước
về quản lý doanh thu và chi phí để xác định đầy đủ và hợp lý các khoản thu
nhập và chi phí làm cơ sở để xác định thuế thu nhập doanh nghiệp và lợi
nhuận để lại đơn vị.
Như vậy, kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ được luật pháp bảo hộ.
Ý kiến kiểm toán viên có giá trị pháp lý được nhà các cơ quan chức năng của
nhà nước, các đối tượng sử dụng khác tin cậy và sử dụng để đưa ra các quyết
định quản lý của mình. Việc tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán và
pháp luật của Nhà nước là các cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm toán trong
quá trình hành nghề. Mọi sự không tuân thủ đều có thể dẫn đến rủi ro kiểm
toán và kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với ý kiến đưa ra
trong báo cáo kiểm toán.
2. Kinh nghiệm thế giới.
2.1. Quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của Công ty kiểm
toán ở Mỹ.
Tại Mỹ mối quan hệ về nghĩa vụ pháp lý của kiểm toán viên đối với cổ
đông trên thị trường chứng khoán được giải quyết theo hai hướng: dựa vào
Kiểm toán 48A
16
Đề tài nghiên cứu khoa học
luật tập tục hoặc dựa vào luật chứng khoán liên bang.
2.1.1. Xử lý theo luật tập tục.
Trường hợp đặc trưng về trách nhiệm đối với bên thứ ba la trường hợp
công ty Ultramares & Touch vào năm 1931 đã thành lập nên khái niệm về
luật tập tục được gọi là học thuyết Ultramares. Quy định chính trong học
thuyết này là sự bất cẩn bình thường không đủ để rang buộc trách nhiệm đối
với bên thứ ba vì thiếu quan hệ riêng theo hợp đồng giữa bên thứ ba với kiểm
toán viên. Học thuyết Ultramares cũng cho rằng nếu có gian lận hoặc sự bất
cẩn nghiêm trọng thì kiển toán viên có thể bị xử là có trách nhiệm đối với
bên hưởng lợi thứ ba. Trong những năm gần đây, nhiều tòa án đã mở rộng học
thuyết Ultramares để cho phép bên thứ ba được bồi thường trong nhiều
trường hợp hơn trước đây bằng cách giới thiệu khái niệm những người sử
dụng có thể thấy trước (foreseeable users), các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán thuộc đối tượng này.
Do còn những người bác bỏ hoàn toàn học thuyết Ultramares và cho là
kiểm toán viên phải có trách nhiệm đối với bất kỳ ai dựa vào việc làm của họ,
nếu công việc này được thực hiện một cách bất cẩn. Trong những phiên tòa
này, tất cả những người sử dụng báo cáo kiểm toán (bên thứ ba) được đối xử
tương tự như họ có mối quan hệ riêng theo hợp đồng. trong hầu hết các tiểu
bang, người chuyên nghiệp phải chịu trách nhiệm cũng như bất kỳ ai khác
phải chịu đối với hành vi thực tế lừa gạt bên thứ ba. Một số tòa án đã mở rộng
khái niệm gian lận ra ngoài khuôn khổ ban đầu để bao gồm mọi kiến nghị sai
đã biết trên báo cáo tài chính, cho dù không trực tiếp có chủ tâm gian lận.
trong một số trường hợp, sự gian lận có thể bao gồm việc kiến nghị sai do
phán xét sai. Như một sự rộng mở hơn khái niệm về sự gian lận, một số phiên
toà cho rằng sự bất cẩn mà quá mức như sự bất cẩn nghiêm trọng hoặc sự liều
lĩnh sẽ được xem như là sự gian lận vô ý, tương đương về mặt pháp lý với sự
Kiểm toán 48A
17
Đề tài nghiên cứu khoa học
gian lận.
Trách nhiệm đối với bên thứ ba theo luật tập tục vẫn tiếp tục ở trong tình
trạng không chắc chắn. một số cơ quan tư pháp vẫn thừa nhận học thuyết
Ultramares ban đầu. Ở một thái cực khác, trách nhiệm đối với bên thứ ba và
đối với khách hang vì sự bất cẩn về cơ bản như nhau, cho dù các định nghĩa
về hành vi gian lận đang thay đổi.
Về phía kiểm toán viên, khi đối mặt với những vụ kiện đòi thực hiện
trách nhiệm đối với những tổn thất của bên thứ ba sử dụng kết quả kiểm toán
họ có thể đưa ra hai lời biện hộ: không có sự bất cẩn trong thực hiện và không
có mối quan hệ riêng theo hợp đồng. Lời biện hộ thứ nhất là lời biện hộ được
ưa chuộng ở chỗ nếu kiểm toán viên đã tiến hành cuộc kiểm toán phù hợp với
GAAS, thì mối quan hệ riêng theo hợp đồng không còn là vấn đề gì nữa cả.
Ngược lại, rất khó chứng minh là không bất cẩn khi thực hiện ở các phiên toà,
nhất là nếu đó là một vụ xét xử của ban hội thẩm và hội thẩm đoàn được hình
thành từ những người không chuyên môn. Khía cạnh mà mối quan hệ riêng
theo hợp đồng là một lời biện hộ thích hợp phụ thuộc chặt chẽ vào thẩm
quyền phán xét của tòa. Thí dụ, ở tiểu bang New york, mối quan hệ riêng theo
hợp đồng vẫn còn được xem là một lời biện hộ có giá trị ngoại trừ các trường
hợp bất cẩn quá mức. Ở tiểu bang New Jersey, quan hệ riêng theo hợp đồng
chắc chắn không phải là một lời biện hộ được chấp nhận.
2.1.2. Xử lý theo luật chứng khoán liên bang.
Mặc dù có sự tăng lên về các vụ kiện kiểm toán viên của khách hàng
hoặc bên thứ ba theo luật tập tục, mức tăng nhiều nhất thuộc về các vụ kiện
trách nhiệm của kiểm toán viên theo luật chứng khoán liên bang.
Việc nhấn mạnh đến các biện pháp khắc phục của liên bang trước hết phát
sinh từ khả năng tăng dần các vụ kiện hiện nay và sự dễ dàng đạt được số tiền
bồi thường lớn rừ bên bị buộc tội. ngoài ra, một số phần của luật chứng khoán
Kiểm toán 48A
18
Đề tài nghiên cứu khoa học
đề ra những chuẩn mực trách nhiệm nghiêm ngặt cho kiểm toán viên. Các
phiên toà của liên bang thường bênh vực bên nguyên đơn trong những vụ kiện
có các chuẩn mực nghiêm ngặt này.
Quy định về trách nhiệm pháp lý của công ty kiểm toán đối với bên thứ
ba cụ thể là các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán được thể hiện chủ yếu
qua các bộ luật: Luật Chứng Khoán năm 1933 (securities act of 1933), Luật
Trao đổi chứng khoán năm 1934 (securities exchange act of 1934), Đạo luật
Sarbanes Oxley năm 2002.
-Luật chứng khoán năm 1933 nói về thông tin trong các văn bản đăng kí
và tập sách quảng cáo. Nó chỉ gồm các quy định về báo cáo đối với các công
ty có phát hành chứng khoán mới.
-Luật trao đổi chứng khoán năm 1934 quy định về hoạt động trao đổi
chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Trách nhiệm của kiểm toán viên theo
luật trao đổi chứng khoán năm 1934 tập trung vào các báo cáo tài chính đã
kiểm toán được đệ trình cho SEC như một bộ phận của các báo cáo 10-K
hàng năm. Mọi công ty có buôn bán chứng khoán hàng năm phải đệ trình các
báo cái tài chính đã được kiểm toán. Rõ ràng có rất nhiều báo cáo bị quy định
theo luật năm 1934 hơn là luật năm 1933. ngoài các báo cáo tài chính đã kiểm
toán hàng năm, còn có các báo cáo pháp lý khác đối với kiểm toán viên, thí
dụ, hàng quý 10-Q, hàng tháng 8-K hoặc các thông tin khác. Kiểm toán viên
thường xuyên phải xem xét lại thông tin trong những báo cáo khác này; do
đó, có trách nhiệm về mặt pháp lý. Tuy vậy thông thường kiểm toán viên chỉ
phải lập các báo cáo 10-K.
- Đạo luật Sarbanes Oxley được ban hành nhằm ngăn chặn những gian
dối tài chính và bảo vệ nhà đầu tư sau sự sụp đổ gây chấn động nhiều tập
đoàn lớn như Enron, Worldcom, Peregrine System. Mục tiêu chính của đạo
luật này nhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư bằng cách công ty đại chúng phải
đảm bảo sự minh bạch hơn của các báo cáo, các thông tin tài chính khi công
bố.Đồng thời, đạo luật cũng bổ sung thêm các quy định ràng buộc trách
Kiểm toán 48A
19
Đề tài nghiên cứu khoa học
nhiệm cá nhân của giám đốc điều hành và giám đốc tài chính đối với độ tin
cậy của báo cáo tài chính, bênh cạnh đó yêu cầu các công ty đại chúng phải có
những thay đổi trong kiểm soát nội bộ, đặc biệt là kiểm soát công tác kế
toán.Cũng nhờ đạo luật này, vị trí và thị thế của kiểm toán viên được đặt ở vị
trí trung tâm, là cầu nối quan trọng tạo nên những bản báo cáo tài chính có
tính độc lập cao và mức độ tin tưởng cao hơn.
* Sau đây là một số điểm nổi bật quy định cụ thể giải quyết mối
quan hệ về nghĩa vụ pháp lý của kiểm toán viên đối với các nhà đầu tư
trên thị trường chứng khóan.
A. Về quyền được khởi kiện của cổ đông trên thị trường chứng khoán về
những thiệt hại do những sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính gây ra đối
với lợi ích của mình. Luật chứng khoán năm 1933 buộc các kiểm toán viên
phải chịu một nghĩa vụ không bình thường, điều 11 của luật năm 1933 xác
định quyền lợi của các bên thứ ba như sau:
- Bất kì bên thứ ba nào có mua chứng khoán được đăng kí trong văn bản
đăng kí đều có thể thưa kiện kiểm toán viên. Quan hệ riêng theo hợp đồng
không hiệu lực theo luật 1933.
- người sử dụng thứ ba không phải chứng minhlà anh ra đã dựa vào các
báo cáo tài chính hoặc chứng minh la kiểm toán viên đã bất cẩn hoặc gian lận
khi kiểm toán. Anh ta chỉ cần chứng minh là các báo cáo tài chính đã gian dối
hoặc trình bày không trung thực.
B. Về phía kiểm toán viên khi đối mặt với những vụ kiện đòi thực hiện
trách nhiệm đối với những tổn thất của bên thứ ba sử dụng kết quả kiểm toán,
họ có nghĩa vụ biện hộ là (1) các báo cáo không sai phạm nghiêm trọng, (2)
đã tiến hành một cuộc kiểm toán đầy đủ trong tất cả cá trường hợp, hoặc (3)
người sử dụng không bị thiệt hại bởi các báo cáo tài chính gian dối.
Kiểm toán viên có trách nhiệm đảm bảo là các báo cáo tài chính đã được
trình bày trung thực đến ngày phát hành báo cáo. Anh ta có trách nhiệm cho
Kiểm toán 48A
20
Đề tài nghiên cứu khoa học
đến ngày văn bản đăng kí có hiệu lực, có thể là vài tháng sau đó.
Cũng tương tự trong các vụ kiện được xử theo luật tập tục lời biện hộ
rằng không có sự bất cẩn trong việc thực hiện cuộc kiểm toán, hay nói cách
khác kiểm toán viên đã tiến hành cuộc kiểm toán phù hợp với GAAS thì
trách nhiệm đối với các thiệt hại của khách hàng hoặc bên thứ ba của kiểm
toán viên không còn nữa.
C. Khi công ty kiểm toán bị các khách hàng hay cổ đông trên thị trường
chứng khoán kiện, yêu cầu thực hiện trách nhiệm pháp lý, các phiên toà dân
sự của Liên Bang có trách nhiệm xét xử và đưa ra phán quyết. Tuy nhiên liên
quan chặt chẽ với trách nhiệm của kiểm toán viên là quyền phê chuẩn của
SEC. trong một số trường hợp, SEC có quyền phê chuẩn hoặc đình chỉ người
hành sự thực hiện kiểm toán các công ty thuộc SEC
Đạo luật Sarbanes oxley khẳng định SEC đưa ra luật và các quy tác phục
vụ lợi ích chung và bảo vệ nhà đầu tư, đưa ra những chuẩn mực nghề nghiệp,
được áp dụng, SEC quy định những hoạt động được cho là làm ảnh hưởng ,
ép buộc, lôi kéo, làm lạc hướng một CPA đang thực hiện kiểm toán báo cáo
tài chính của công ty phát hành cổ phiếu.
Điều 78u SE 1934 quy định SEC có quyền, ở một mức độ thận trọng cần
thiết. điều tra để xác định xem một người đã, đang hay sẽ có khả năng vi
phạm luật chứng khoán Liên bang, những luật hoặc quy tắc được thống nhất
của tổ chức mà người này là thành viên như công ty kiểm toán, văn phòng
chứng thực( clearing agency), ủy ban làm luật chứng khoán địa phương
( municipal securities rulemaking board). SEC có quyền yêu cầu người này
cung cấp bằng văn bản các tài liệu liên quan, từ đó SEC dựa vào hoàn cảnh
thực tế liên quan đến vấn đề để điều tra. Tùy vào từng trường hợp, SEC sẽ
công bố những tài liệu về vấn đề sai phạm một cách thận trọng.
Bên cạnh quyền đưa ra các nguyên tắc, luật lệ và điều tra những vụ
việc bị nghi vấn, SEC cũng có quyền phán quyết và đưa ra các hình thức
Kiểm toán 48A
21
Đề tài nghiên cứu khoa học
xử phạt kiểm toán viên hay bất kỳ bên nào vi pham các luật về chứng
khoán đã ban hành.
Theo SEC.802 ( Sarbanes oxley) quy định kiểm toán viên phải lưu giữ
các tài liệu như biên bản làm việc, các bản ghi nhớ, thư từ được gửi nhận
trong thời gian kiểm toán, được dung như là cơ sở đưa ra ý kiến của kiểm
toán viên cùng với ý kiến chính thức, phân tich báo cáo tài chính của kiểm
toán viên trong vòng ít nhất 5 năm kể từ khi kết thúc năm tài chính được kiểm
toán. Quy định này của SEC nhằm mục đích kiểm sóat và nâng cao chất
lượng cũng như để hoàn thiện các chuẩn mực về việc kiểm toán các công ty
niêm yết qua từng năm đồng thời cũng quy định nghĩa vụ pháp lý của kiểm
toán viên. Những người vi phạm, cố ý không lưu giữ hồ sơ kiểm toán trong 5
năm có thể bị phạt tù dưới 10 năm. Cũng tại điều này quy định những người
cố ý thay đổi, phá hủy , cắt bớt, che đậy, làm giả hoặc ghi nhận sai bút toán,
tài liệu với ý định cản trở hoặc làm ảnh hưởng đến điều tra của cơ quan có
thẩm quyền có thể bị phạt dưới 20 năm tù giam.
. Điều 2e của bộ điều lệ thực hành của SEC nói rằng: “ ủy ban có thể từ
chối, tạm thời hoặc vĩnh viễn, đặc quyền xuất hiện hoặc thực hành dưới mọi
hình thức đối với bất kỳ ai mà bị ủy ban kết luận là : (1) không đủ phẩm chất
cần thiết để đại diện cho người khác, hoặc (2) không thích hợp hoặc thiếu
liêm chính hoặc đã dính líu vào một hành vi nghề nghiệp mất đạo đức hoặc
không đúng đắn.
SEC đã tạm thời đình chỉ một số cá nhân kiểm toán viên thực hiện kiểm
toán ở một số công ty khách hàng thuộc SEC trong những năm gần đây. Đồng
thời nghiêm cấm một số công ty kiểm toán nhận khách hàng mới thuộc SEC
trong một thời hạn. đôi lúc, SEC đã yêu cầu một sự kiểm tra lại các thông lệ
của công ty kiển toán chính do một công ty kiểm toán khác thực hiện. trong
một số trường hợp, cá nhân các kiểm toán viên và công ty của họ được yêu
cầu tham gia vào các chương trình đào tạo tiếp tục và thực hiện những thay
Kiểm toán 48A
22
Đề tài nghiên cứu khoa học
đổi trong cách thực hành của họ.
Ngoài những hình thức xử phạt như trên điều 78r SA1934 quy định:
người liên quan tới việc làm cho báo cáo tài chính tồn tại những sai phạm
trọng yếu dẫn tới những quyết định sai lầm, trong hoàn cảnh cụ thể, sẽ phải có
nghĩa vụ với người bị thiệt hại. trừ khi người bị kiện chứng minh được anh ta
trung thực về bản chất hoặc không liên quan đến những sai phạm trọng yếu
này, nếu không người này sẽ bị kiện ra toà án dân sự, chịu mọi chi phí hầu
tòa, chi phí bồi thường cho bên bị thiệt hại và chi phí thuê luật sư.
Đồng thời theo SEC.308 SEC có quyền phán xét một bên phải bồi
thường cho bên còn lại thì cũng có quyền đưa ra phán xử dân sự tương ứng.
Thẩm quyền của SEC còn được mở rộng trong việc quy định chế tài
liên quan đến quá trình phân xử tranh cãi liên quan đến trách nhiệm pháp lý
của kiểm toán viên đối với nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Theo
điều 78u SE1934: nếu người có liên quan tới những vi phạm được điều tra từ
chối không tuân theo giấy triệu tập của SEC, ủy ban này có thể yêu cầu sự
hỗ trợ của các tòa án liên bang Mỹ để triệu tập nhân chứng và thu thập các
tài liệu có liên quan (sổ sách, thư từ. bản ghi nhớ và các tài liệu khác). Khi bị
triệu tập đến mà người vi phạm không đưa ra được lí do hợp lý cho sự vắng
mặt trước đó của mình sẽ phải chịu phạt dưới $1000 hoặc ngồi tù dưới 1
năm hoặc cả hai.
Cũng dựa vào cáo luật chứng khoán đã nêu, các tòa án liên bang hoàn
toàn có thẩm quyền xử các vụ kiện được đưa ra bởi nhà đầu tư đối với công ty
kiểm toán. Căn cứ chủ yếu trong các phán quyết của họ là điều 10b-5 SE1934
như sau: “ sẽ là bất hợp pháp đối với bất kì ai trực tiếp hoặc gián tiếp, thông
qua việc sử dụng bất kỳ phương tiện kinh doanh giữa các bang, hoặc sử dụng
đường bưu điện hoặc bất kỳ tiện nghi nào của bất kỳ trung tâm giao dịch
chứng khoán quốc gia, (a) thực hiện bất kỳ phương sách, hoặc mưu mẹo nào
để gian lận, (b)lập bất kì một báo cáo giả nào về một sự kiện trọng yếu hoặc
Kiểm toán 48A
23