Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

SKKN văn 9 sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.77 MB, 49 trang )

SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Môn Ngữ văn là một môn học rất quan trọng, chiếm thời lượng lớn trong
chương trình học của học sinh. Mơn Ngữ văn góp phần giáo dục tư tưởng và bồi
dưỡng hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Tuy nhiên, so với tình trạng học mơn Ngữ
văn hiện nay, đa số các em học sinh đang ở hiện trạng khơng thích học mơn văn ngày
càng có chiều hướng gia tăng. Song việc học môn Ngữ văn rất quan trọng, bởi cổ
nhân đã nói "Văn học là nhân học". Học văn sẽ trang bị cho người học tất cả các
phẩm chất để vững bước vào đời, bồi đắp cho các em những tình cảm cao đẹp, hướng
con người tới các giá trị chân, thiện, mĩ.
Gần gũi hơn với đời sống thường ngày của chúng ta, học văn là học cách để
diễn đạt trôi chảy ý nghĩa của bản thân, tạo nên những câu nói đẹp, những bài luận
sắc sảo. Có thể nói thơng qua văn học chúng ta có thể tích lũy được vơ vàn những tri
thức q giá cho bản thân. Văn học giúp cho chúng ta hiểu hơn về lịch sử hình thành
đất nước, văn hóa, phong tục tập qn của các vùng miền khác nhau. Khơng có thước
đo nào đo được giá trị của văn học mang đến cho đời sống con người. Thông qua tác
phẩm văn học có thể tái hiện được bức tranh quý giá, một giai thoại hào hùng của lịch
sử dân tộc.
Học văn giúp cho chúng ta trau dồi vốn từ và cách sử dụng ngôn từ khéo léo
hơn. Qua học môn văn ta học cách chia sẻ khéo léo hơn, có tấm lòng đồng cảm chia
sẻ với tấm lòng yêu thương con người. Có thể nói văn học như một quyển “Bách
khoa tồn thư” về vơ vàn những cung bậc cảm xúc của con người bao gồm hỉ, nộ, ái,
ố tất cả đều sinh động và chân thực đến lạ thường. Cho dù ở bất cứ một xã hội nào thì
việc học văn vơ cùng quan trọng, nó giúp con người phát triển một cách tồn diện
hơn về nhân cách và trí tuệ của con người. Tìm hiểu, đi sâu vào các tác phẩm văn
học, ta sẽ nâng cao được nhận thức, bồi dưỡng được tư tưởng tình cảm tốt và nâng
cao tính thẩm mỹ của bản thân. Việc học văn rất quan trọng, nhưng khơng phải ai
cũng có thể hiểu được giá trị của nó đối với chính bản thân mỗi con người, bởi giá trị
của nó nằm sâu bên trong và tiềm ẩn, nuôi dưỡng tư tưởng chúng ta hàng ngày.
Là một giáo viên trẻ với sự nhiệt huyết và lịng u nghề, bản thân tơi cảm thấy


rất buồn trước thực trạng học văn của học sinh hiện nay. Đặc biệt, tôi đang công tác
tại trường THCS Vĩnh Thực - một trường xã đảo nhận thức của học sinh còn hạn chế
nên tôi rất muốn truyền tải được hết những thông điệp nhân văn, những nét đẹp của
tiếng mẹ đẻ tới các em học sinh. Đồng thời, với đối tượng học sinh lớp 9 sẽ phải đối
mặt với kì thi vào 10 nên việc nắm chắc những kiến thức cơ bản của môn Ngữ văn là
điều vô cùng quan trọng. Vì thế tơi ln trăn trở tìm ra phương pháp để học sinh cảm
nhận được ý nghĩa to lớn của mơn ngữ văn, có kiến thức nền tảng vững chắc để tự tin
bước vào kì thi mang tính bước ngoặt. Và điều tôi tâm niệm nhất là các em đến với
bộ mơn này bằng tình u thực sự, bằng sự say mê bởi những ngôn từ đẹp, những tác
phẩm ý nghĩa sâu sắc chứ không phải bởi sự ngượng ép, chống đối. Từ thực tế giảng
dạy của mình, tơi nghĩ rằng để học sinh đến gần với môn văn, người thầy phải thay
1


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
đổi phương pháp dạy học (PPDH) phù hợp với nhận thức của học sinh, với thời đại
công nghệ 4.0.
Trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội
dung, chương trình, sách giáo khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung,
trong đó có đổi mới PPDH mơn Ngữ văn luôn được các nhà khoa học giáo dục đầu
ngành của nước ta quan tâm, nghiên cứu và tìm cách cải tiến. Có thể nói, đây là một
bước đột phá của ngành Giáo dục nước nhà. Vì vậy, vấn đề này đã được Đảng, Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm. Thực hiện nghiêm túc tinh thần Nghị quyết 40/2000-QH10
của Quốc hội khóa 10 và Chỉ thị số14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
GD&ĐT đã đặc biệt chú trọng đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước
nâng cao trình độ, đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh; xem đây là một nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả q
trình đổi mới.
Bản thân tơi thật sự tâm đắc với phương pháp Sử dụng sơ đồ tư duy trong q
trình dạy học. Bởi vì khơng chỉ lơi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó cịn là một

phương pháp dạy học (PPDH) rất hiệu quả, rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử
dụng rộng rãi ở tất cả các khâu trong quá trình dạy học mà nhất là rất cần thiết trong
việc giảng dạy môn Ngữ văn. Vì vậy, tơi viết đề tài SKKN: “Sử dụng Sơ đồ tư duy
trong giảng dạy môn Ngữ văn 9” để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng
nghiệp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu kĩ về nội dung, phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy Ngữ
Văn 9.
Tìm hiểu các phương pháp dạy học sao cho có hiệu quả, thu hút sự chú ý của
học sinh, tạo một giờ học vừa có ý nghĩa, vừa sơi nổi, tích cực .
Tìm hiểu, trao đổi một số khúc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, từ
đó có thêm kinh nghiệm để dạy tốt bộ môn Ngữ Văn 9, đáp ứng nhu cầu đổi mới
chương trình Ngữ văn THCS hiện nay.
Nâng cao chất lượng giáo dục đại trà ở bộ môn Ngữ Văn 9, hướng dẫn học
sinh phương pháp học tập hiệu quả vừa dễ nhớ, dễ học mà vẫn nắm được kiến thức
cơ bản để tự tin bước vào những kì thi quan trọng.
3.Thời gian, địa điểm.
- Thời gian: + Từ tháng 8/2019 -> 9/2019 nghiên cứu, lựa chọn đề tài, tích luỹ
kiến thức, tìm hiểu tư liệu có liên quan đến việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy
học Ngữ văn nói chung và Ngữ văn 9 nói riêng.
2


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
+ Từ tháng 10/2019 đến tháng 6/2020 : Thực hiện dạy, nghiên cứu
nội dung và hoàn thành đề tài.
- Địa điểm: Tôi nghiên cứu đề tài này tại lớp 9A trường THCS Vĩnh Thực, thành
phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn.
Sáng kiến kinh nghiệm của tơi góp phần tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn và bổ

sung thêm về phương pháp dạy học Ngữ Văn 9 theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh. Đồng thời phù hợp với tinh thần đổi mới căn bản giáo dục là
lấy học sinh làm trung tâm, tích cực vận dụng phương pháp dạy học mới nhằm nâng
cao chất lượng hiệu quả giáo dục.
Sáng kiến kinh nghiệm của tơi cịn giúp khơi gợi hứng thú học tập của học sinh
ở bộ môn Ngữ văn 9, rèn cho các em phương pháp học tập chủ động, tích cực, suy
nghĩ logic. Bên cạnh đó, phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy cịn có thể áp dụng ở các
môn học khác cũng đem lại hiệu quả lớn.
Việc sử dụng sơ đồ tư duy trong bài giảng cũng nhằm đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học. Thơng qua đó, vừa giúp giáo viên nâng cao được
trình độ tin học, vừa nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
Khi chọn đề tài này tôi đã cố gắng lĩnh hội các quan điểm, tư tưởng từ các bài
viết , các tài liệu của các tác giả đã đề cập đồng thời đưa ra những ý kiến , quan điểm
riêng nhằm góp phần làm cho người dạy có sự lựa chọn phong phú, phù hợp với đối
tượng học sinh mà mình dạy.

3


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Chương 1: Tổng quan
1.1. Cơ sở lý luận.
Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo
điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Trong những năm
qua, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm
tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho học

sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em.
Năm học 2019 - 2020 là năm học mà toàn ngành Giáo dục và Đào tạo đang tiếp
tục nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy, để đào tạo ra những con người năng động,
sớm thích ứng với đời sống xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp Cơng nghiệp hố - Hiện đại
hố đất nước. Trước tình hình đó, địi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải không
ngừng đổi mới, cải tiến nội dung, phương pháp soạn giảng để trong mỗi tiết dạy, học
sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy
nghĩ nhiều hơn trên con đường chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy, địi hỏi mỗi
giáo viên phải triệt để thực hiện theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm
phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy
học.
Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người thầy.
Trong chương trình giáo dục phổ thơng, Ngữ văn là một mơn học có vị trí quan trọng.
Vì đây là mơn học vừa mang tính cơng cụ, vừa là mơn học mang tính nghệ thuật, lại
là mơn học mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy, để học sinh học tốt môn Ngữ Văn ở
trường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy
học, phải tìm tịi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức
dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự
giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu của mơn học
mang đậm tính nhân văn này.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu,
sơ đồ nhưng ở mức độ cao hơn. Nó là một cơng cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony
Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có thể
khẳng định rằng PPDH bằng SĐTD là một trong những PPDH hiện đại. Nó giúp học
sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và khả năng
sáng tạo...Đây là một công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện nay.
1.2.Cơ sở thực tiễn.
Lâu nay, trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn thường sử dụng các mơ hình, sơ
đồ, biểu đồ... để cơ đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở những bài tổng
4



SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
kết các chương, các phần của môn học hay các bài ơn tập. Cách làm này có thể nói đã
đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng cố, hệ thống kiến
thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lơ-gic. Thế nhưng, bên cạnh những ưu
điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định, bởi trước hết là cả lớp cùng
có chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không
phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các bảng biểu đó chưa chú ý
đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Cách làm này chưa thật sự phát huy được tư duy
sáng tạo, chưa thật sự kích thích, lơi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động
tìm tịi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Hơn nữa, phạm vi sử dụng hẹp
vì chúng ta chỉ sử dụng chúng trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các chương,
các phần, các mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng
không được sử dụng đại trà cho tất cả các bài học, các giờ lên lớp cũng như các khâu
của tiến trình bài dạy.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những phương
pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng SĐTD. Có thể nói, đây là một
bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay khi mà khoa học công nghệ
phát triển như huyền thoại, nhất là sự bùng nổ của ngành Công nghệ thông tin. Việc
sử dụng SĐTD thay thế cho những mơ hình, sơ đồ, biểu đồ... đã lạc hậu, lỗi thời để
khái quát, cô đọng kiến thức cho học sinh là một sự tất yếu, bởi SĐTD có rất nhiều
điểm ưu việt hơn. Do đó, việc ứng dụng SĐTD vào trong q trình dạy học mơn Ngữ
văn khơng chỉ lơi cuốn sự hứng thú, làm “sống lại” niềm đam mê, u thích mơn học
ở các em học sinh mà cịn làm dấy lên một “phong trào” đưa SĐTD vào bài giảng ở
giáo viên.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đưa Sơ đồ tư duy vào ứng dụng trong quá trình
dạy học đối với mơn học Ngữ văn cịn là vấn đề gặp khơng ít khó khăn, trở ngại
đối với giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy học
với việc sử dụng SĐTD. Qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn đối với

các đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên mới chỉ
dừng lại ở việc sử dụng SĐTD để hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay
mỗi bài ôn tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến thức nào đó mà thơi. Họ
chưa mạnh dạn đưa Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong q trình dạy học. Họ
chưa phát huy được tính phổ biến và đa năng của Sơ đồ tư duy. Do đó, chưa phát
huy một cách đầy đủ cơng dụng của SĐTD trong q trình dạy học mơn Ngữ văn.
2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu.
2.1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Trong những năm qua, hầu hết đội ngũ giáo viên THCS trong cả nước nói
chung, ở các trường trong tỉnh, trong huyện đã được tham dự các lớp tập huấn, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới PPDH do Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức, nội
dung triển khai một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng
sơ đồ tư duy (SĐTD). Có thể khẳng định rằng đây là một trong những PPDH rất quan
trọng, vừa rất mới, rất hiện đại, lại rất khả thi, đang được nhiều nước trên thế giới áp
dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng SĐTD trong q trình dạy học, tơi
5


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
nhận thấy PPDH này đã thật sự đem lại “luồng sinh khí mới” cho học sinh trong q
trình dạy học bộ mơn Ngữ văn. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý chán học Văn,
khơi gợi trong học sinh tình u đối với mơn học, đồng thời đem đến cho các em cái
nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng phấn, lôi cuốn đối với môn học Ngữ văn.
Tuy nhiên, việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học là vấn đề cịn khó
khăn, lúng túng đối với nhiều giáo viên, trong đó có giáo viên dạy môn Ngữ văn. Họ
tỏ ra băn khoăn không biết sử dụng SĐTD vào khâu nào trong quá trình dạy học?
Phương pháp thiết kế SĐTD, hướng dẫn cách thức sử dụng cho học sinh ra
sao?...Nhất là đối với những giáo viên cao tuổi và những giáo viên chưa quen với
việc ứng dụng Cơng nghệ thơng tin, trình độ Tin học cịn hạn chế.
Tôi lựa chọn lớp trực tiếp giảng dạy để khảo sát chất lượng nhằm đưa ra căn

cứ để đánh giá và điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp đối với việc dạy học
sử dụng sơ đồ tư duy trong chương trình Ngữ Văn 9.
- Khảo sát( thống kê)
+ Kết quả bài kiểm tra khảo sát môn Ngữ Văn đầu năm học: (Do GV tiến hành)
STT
1

Lớp
9A

Sĩ số
37

Giỏi
03

Khá
08

Kết quả
Trung bình
19

Yếu
5

Kém
02

- Đánh giá( Phân tích): Qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm học tôi thấy kết quả

chưa cao. Bài viết đạt giỏi, khá cịn ít. Khả năng viết văn của các em còn hạn chế
(nhiều học sinh yếu, kém ). Việc tiếp thu bài, làm bài của học sinh còn đạt ở mức độ
trung bình nhiều. Hành văn, diễn đạt của các em chưa lưu lốt, cịn mắc nhiều lỗi
chính tả, dùng từ. Các em không nắm chắc kiến thức, các bài viết ngắn, nội dung sơ
sài, chưa bám sát yêu cầu đề bài. Sắp xếp lại các đơn vị kiến thức còn lộn xộn, chưa
logic, khoa học. Việc phân tích, cảm nhận các tác phẩm văn học của một số học sinh
còn hạn chế. Kiến thức văn học còn hời hợt, chưa đảm bảo. Nhiều học sinh mất kiến
thức căn bản, gây khó khăn trong việc lĩnh hội các bài giảng.
2.2. Các giải pháp.
1. Sơ đồ tư duy - khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt
động vẽ SĐTD trên lớp và những tiện ích:
* Để sử dụng một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết,
ta cần nắm vững những tri thức về nó:
a. Khái niệm:
6


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
Sơ đồ tư duy hay cịn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH
chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tịi, đào sâu, mở
rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết
hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích
cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như
bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu
khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác
nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư
duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng
sáng tạo của mỗi người.
b. Cấu tạo:
Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.

Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ
đề.
Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý
chính.
Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì
ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ
chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến
thức nào đó.

Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy
c. Các bước thiết kế một SĐTD:
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần
mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh
minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
7


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì
ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các
nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý
chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng
lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác
động trực quan, dễ nhớ.
*Lưu ý:
Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh
con.

Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự
chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tơ đậm hơn, dày hơn.
Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời
tạo sự cân đối, hài hịa cho sơ đồ.
Khơng ghi q dài dịng, hoặc ghi những ý rời rạc, khơng cần thiết, nên dùng các
từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp
phần làm rõ các ý, chủ đề.
Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô
màu...
Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
d. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý
của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về
kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh
hồn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn
hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình
bày, thuyết minh về kiến thức đó.
e. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn:
Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả. Chúng
ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn thuần là một
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong thực tế hiện
nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức

một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn
luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài ấy, nắm kiến thức một cách
8


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa
các phân mơn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lơ-gic và tư duy hệ thống. Do
đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã qn phần
trước, khơng biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có
nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để
lưu thơng tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn kuyện cho
các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong q trình dạy học sẽ
gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng
tạo và phát triển tư duy.
SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của
các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái
mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngơn ngữ của mình. Vì vậy sử
dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của
bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời cịn
phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính
các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong
học tập, khơng rập khn một cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các
em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một
khơng khí sơi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một
trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các
nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá
trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay khâu

củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ơn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,
mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút.
Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì
điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có thể
thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì
màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ tư duy (Mind
Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như Máy chiếu Projecto,
phịng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần mềm (Mind Map) để phục
vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT.
Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
1. Tăng sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học:
a. Làm quen với SĐTD:
* Đối với giáo viên:
9


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
Ngồi việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chun mơn nghiệp vụ có liên
quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan
đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có những
tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trị, tiện ích, phương pháp tạo
lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong q trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu
tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ
là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn,

thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trị, cơng dụng của SĐTD, sử dụng
thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó
vào q trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ
thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).
* Đối với học sinh:
Người xưa có câu “Chưa học bò, chớ lo học chạy” quả đúng như vây. Để có thể
sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong q trình dạy học, trước
hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, để chí ít các
em có cái nhìn khái qt về nó (tiếp xúc nó, hiểu nó, rồi “bắt chước” vẽ nó). Đây là
bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này
hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ
thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn
đến nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay hoay với giấy bút mà khơng
biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các em chưa hình dung được SĐTD
của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ.
Vì vậy, theo tơi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen” với
SĐTD, theo cách sau đây:
* Để tiết kiệm thời gian, lại khỏi phải làm cái công việc giới thiệu, hướng dẫn
cách vẽ SĐTD trở đi, trở lại hết lớp này đến lớp khác, giáo viên nên tham mưu cho
Ban Giám hiệu trường, hoặc Chuyên môn trường, chọn thời gian thuận lợi ngay từ
đầu năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư duy” (Tùy theo
tình hình cụ thể của từng đơn vị trường mà có thể tổ chức theo khối lớp giáo viên trực
tiếp dạy, khối học sáng - chiều hoặc toàn trường) để giới thiệu, cho các em làm quen
và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em.(Lưu ý rằng đây cũng là một bước tạo
khơng khí sơi nổi, lơi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp, kĩ thuật dạy học
mới). Để buổi ngoại khóa thành cơng, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các dụng
cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ,
phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa lịch, trên

bảng phụ... Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo các bước sau:
Bước 1: “Làm quen”
Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên chọn vẽ
SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp thu
tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học sinh
sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu cấu trúc SĐTD theo
10


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một SĐTD
(Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD).
Bước 2: “Đọc hiểu”
Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau đó,
cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được vẽ trong
sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình).
Bước 3: “Tập vẽ”
Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình
(hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Chiến tranh hạt nhân, Từ (Xét
về cấu tạo)... Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.
Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2,
cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)
* Lưu ý:
+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ,
dễ vẽ.
+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá
nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những
cụm từ ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”

Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn
thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em
chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý
trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
* Lưu ý:
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc,
đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
+ Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ,
không quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”
Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ đồ
khơng triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ không
đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lịe loẹt,... )
Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
+ Như trên đã trình bày, SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tơn
trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em.
Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo viên
cũng cần khuyến khích, biểu dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến thức trọng
tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hịa về đường nét, màu sắc.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tơ đậm màu trong một nhánh, ta có thể
hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó.
Đây là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
11


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập SĐTD
trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để có
điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình cịn sai sót cần

bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những giúp các em nắm vững kiến
thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng lực tư duy (Tư duy lô-gic, tư duy
hệ thống...) rất tốt.
+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc ơn
tập, hệ thống kiến thức.
Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ lưỡng các bước trên cho các em, tôi
nghĩ rằng chắc chắn các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra trong
quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có ứng dụng SĐTD.
b. Các hình thức sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học:
b1. Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra:
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ đối với
rất nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các đồng nghiệp
trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn khoăn khi nghe đề nghị
dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay kiểm tra một tiết. Sau đây là một
vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng đồng nghiệp:
† Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của
kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD thông qua câu
hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp với câu hỏi định
hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách vẽ SĐTD
theo yêu cầu.
* Ví dụ 1:
Sau khi các em học xong bài “Các phương châm hội thoại”(Tiết 1,2) trước khi
tìm hiểu các kiến thức mở rộng có liên quan đến phương châm hội thoại ở Tiết 3 (Tiết
13 trong PPCT), giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập SĐTD để củng
cố, hệ thống kiến thức đã học ở hai tiết học trước thông qua câu hỏi sau: Ta đã học
qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy lập SĐTD để hệ thống kiến thức về
chúng? Sau đó, giáo viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “Phương châm hội
thoại”, rồi gọi một em xung phong lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được SĐTD
theo nội dung yêu cầu.

Dưới đây là SĐTD về các phương châm hội thoại có tính chất minh họa, các
em vẽ SĐTD đảm bảo các nội dung tương tự như sau là tốt:
Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận xét,
góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và cho điểm.

12


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
*
Ví dụ
2:
Trước
khi
cho
các
em
tìm
hiểu
tiết

“Luyện tập liên kết câu và liên kết đoạn văn” (Tiết 109 trong PPCT), ở khâu kiểm tra
bài cũ, giáo viên cho học sinh lập SĐTD để ôn lại lý thuyết trước rồi mới hướng dẫn
cho các em bắt tay vào thực hành. Cách làm đơn giản như ở ví dụ trên. Ta cũng có thể
làm ngược lại quy trình trên nhưng cũng khá đơn giản như sau: Trước tiên, giáo viên
ghi cụm từ khóa “Liên kết văn bản” lên bảng phụ. Sau đó, giáo viên đưa ra câu hỏi
dẫn dắt cho các em: Các câu văn trong đoạn và các đoạn văn trong văn bản được
liên kết chặt chẽ với nhau qua những mặt liên kết nào? Có những phép liên kết phổ
biến nào được sử dụng để thực hiện việc liên kết trong văn bản? Em hãy dựa vào
cụm từ khóa trên, lập SĐTD biểu thị mối quan hệ các mặt liên kết trong văn bản? rồi

cho học sinh tiến hành lập SĐTD. Sau đây là SĐTD minh họa:

Lưu ý:
Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động cá
nhân trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn kiến thức
đồng thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy cho các em. Hết thời
13


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
gian quy định, giáo viên chọn sơ đồ của một vài em (có thể vẽ xong trước, có thể cần
lấy điểm,...), chấm, nhận xét và ghi điểm cho các em; biểu dương, khen ngợi những
em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm tạo khơng khí học tập sôi nổi. Đây là việc làm rất
cần thiết của chúng ta.
Giáo viên chỉ cần dựa vào SĐTD chấm và ghi nhận điểm cho học sinh mà
không cần phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn dạng đề khá đơn giản, nên
những gì cần trả lời, các em đã thể hiện trong SĐTD, hơn nữa thời gian kiểm tra bài
cũ có hạn.
† Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15
phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lơ-gic,
tư duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển năng
lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý rằng kiểm tra
kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ SĐTD chỉ là một hình thức kiểm tra nhằm việc
giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý thuyết.
Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống, xâu
chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng SĐTD. Ví dụ: lập SĐTD về Từ loại
(xét về cấu tạo, xét về ngữ pháp), về các Phương châm hội thoại, về Trau dồi vốn từ,
về Nghĩa của từ, Các cách phát triển từ vựng, ...trong phân môn Tiếng Việt; lập
SĐTD về hệ thống luận điểm, luận cứ trong một văn bản nghị luận, về dàn ý của một

kiểu văn bản nào đó...trong phân môn Tập làm văn; hay lập SĐTD để khái quát, sơ
đồ hóa kiến thức về một tác giả, tác phẩm nào đó, về q trình phát triển tính cách,
tâm trạng...của một nhân vật trong tác phẩm truyện hay mạch cảm xúc, trình tự kết
cấu của một bài thơ...đối với phân môn Văn học.
Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa
ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần kiểm tra
trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác u cầu đề và
có thể vẽ đúng SĐTD theo yêu cầu. Sau đây là một số ví dụ minh họa các dạng đề
kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập SĐTD:
* Ví dụ 1:
Từ tiếng Việt (xét về mặt cấu tạo) gồm có những loại nào? Em hãy vẽ SĐTD
giới thiệu chi tiết về chúng.

14


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9

* Ví dụ 2:
Cho từ khóa Truyện Kiều. Em hãy vẽ SĐTD giới thiệu nguồn gốc, thể loại và
giá trị “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

* Ví dụ 3:
15


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc của nhà thơ Viễn
Phương theo trình tự khơng gian và thời gian của chuyến ra thăm lăng Bác Hồ. Với
cụm từ khóa “Viếng lăng Bác”, em hãy lập SĐTD ghi lại diễn biến tâm trạng cảm

xúc ấy của tác giả qua mỗi khổ thơ.

Ví dụ 4:
Có mấy cách phát triển của từ vựng? Em hãy lập SĐTD minh họa với cụm từ
khóa sau: “SỰ PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG”.

16


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
Ví dụ 5:
Em hãy lập SĐTD trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Nguyễn Du
(Tên hiệu, xuất thân, thời đại, cuộc đời, sự nghiệp văn học?)

* Lưu ý:
Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập SĐTD ở
khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho nhau đều được.
Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; cịn đối với kiểm tra 1 tiết
thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 – 3 điểm. (xem như câu hỏi
yêu cầu lập SĐTD là một phần trong đề kiểm tra)
b2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Lâu nay, việc sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy học
bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng
SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến
thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy, bài dạy của
giáo viên thì quả là việc làm cịn hết sức mới mẻ. Qua trao đổi với anh chị em giáo
viên trong tổ chuyên môn, trong trường, trong cụm trường ở những buổi sinh hoạt
chuyên môn, hầu hết anh chị em đều có chung quan niệm xem SĐTD là cơng cụ,
phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết dạy mà thôi. Ai cũng
cho rằng không thể dùng SĐTD thay cho phần ghi bảng của giáo viên được. Thực ra

thì ta vẫn có thể thực hiện kết hợp chúng trong quá trình dạy học bài mới. Qua một
quá trình thử nghiệm chúng trong một số tiết dạy, tơi nhận thấy rõ ràng cách làm này
ta hồn tồn có thể làm được. Không những thế, việc kết hợp sử dụng SĐTD trong
17


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử dụng nó để cơ đọng kiến thức thay cho việc
ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành
cho học sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết
góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho các em, nhất là những bài học nhằm giới
thiệu, cung cấp kiến thức. Sau đây là một số ví dụ minh họa:
Ví dụ 1:
Khi dạy bài giới thiệu về “Truyện Kiều cuả Nguyễn Du”(Tiết 26 trong PPCT),
sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “TRUYỆN KIỀU (Nguyễn
Du)” lên trung tâm bảng đen. Sau đó, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt học
sinh tìm hiểu bài học. Đầu tiên, ta cho các em tìm hiểu về tác giả bằng cách vẽ nhánh
chính thứ nhất đặt tiêu đề nhánh “I. TÁC GIẢ”. Rồi đưa ra các câu hỏi gợi ý tìm hiểu
về Tên hiệu, Xuất thân, Thời đại, Cuộc đời, Sự nghiệp văn học của nhà thơ. Tìm hiểu
đến đâu, giáo viên phát triển nhánh, cô đọng kiến thức đến đó. Sau khi dẫn dắt các
em tìm hiểu xong phần tác giả, giáo viên tiếp tục vẽ nhánh thứ hai, đặt tiêu đề “II.
TÁC PHẨM” đưa ra các câu hỏi gợi ý các em tìm hiểu tác phẩm: Nguồn gốc, Thể
loại, Kết cấu, Giá trị (nội dung, nghệ thuật) của tác phẩm (cách làm tương tự như
trên). Kết thúc 2 tiết học, ta có SĐTD giới thiệu một cách cô đọng, khái quát, lô-gic
những tri thức cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” trên bảng
đen như sau:

18



SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
Ví dụ 2:
Khi dạy bài Chủ đề Nghị luận xã hội với nội dung “Nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống”(Tiết 99 trong PPCT), sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi
cụm từ khóa “NGHỊ LUẬN SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG” lên bảng, rồi bắt
đầu tiết học với mục Tìm hiểu bài. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ nhất, ghi tiêu đề “I.
TÌM HIỂU BÀI”. Sau đó, cho học sinh đọc văn bản “Bệnh lề mề” – SGK, giáo viên
đưa ra các câu hỏi dẫn dắt các em lần lượt tìm hiểu: vấn đề nghị luận của bài viết,
biểu hiện, nguyên nhân, tác hại, hướng khắc phục. Sau khi tìm hiểu xong văn bản,
giáo viên chuyển sang bước hai: hình thành kiến thức. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ
hai, ghi tiêu đề “II. BÀI HỌC”. Rồi dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt, phát triển các
nhánh con: khái niệm, yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức...tương tự như ở
bước trên. Cuối cùng là bước thứ ba “Luyện tập”, cách làm như trên. Kết thúc tiết
dạy, ta có SĐTD trên bảng đen như sau:

Ví dụ 3:
Đối với phân mơn Tiếng Việt thì sử dụng SĐTD kết hợp việc dạy học bài mới
với việc ghi bảng càng dễ dàng hơn. Ví dụ khi dạy bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ I
(Tiết 72 trong PPCT). Sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cum từ trung tâm “ÔN
TẬP TIẾNG VIỆT” lên giữa bảng đen. Sau đó, dẫn dắt học sinh lần lượt đi vào tìm
hiểu các nội dung ơn tập theo trình tự SGK. Bắt đầu với việc hệ thống, củng cố kiến
thức lý thuyết thông qua các câu hỏi:
Chúng ta đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy nhắc lại nội
dung mỗi phương châm? (vẽ nhánh, ghi chú)
Tiếng Việt có những loại từ ngữ nào thường dùng để xưng hơ? Cho ví dụ mỗi
loại? (vẽ nhánh, ghi chú)
Em có nhận xét gì về từ ngữ xưng hơ trong tiếng Việt? Khi sử dụng từ ngữ xưng
hô em cần lưu ý điều gì? (vẽ nhánh, ghi chú)
Có mấy cách dẫn lại lời nói, ý nghĩ của một người hay một nhân vật?
19



SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ Văn 9
Mỗi cách dẫn ấy khác nhau như thế nào? (vẽ nhánh, ghi chú)

Ta kết hợp cho học sinh làm các bài tập trong mỗi nội dung ôn tập sau khi lập SĐTD
cho mỗi nhánh (nội dung). Cuối tiết Ơn tập, ta có SĐTD trên bảng như sau:
Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng SĐTD kết hợp trong việc dạy học
bài mới với dùng chính nó để cơ đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi. Việc sử
dụng SĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát hiện,
tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ thống, lơgic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm kiến thức, thông
qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị
kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết
học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cơ đọng và trình bày một
cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên bảng đen (hoặc trên màn hình). SĐTD ấy
khơng chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó
cịn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó,
20


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
chúng ta có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi
chép.
Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép
chứ không nên lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt khác,
việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng phần mềm Mind
Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên đánh số thứ tự vào các
khâu lên lớp (tìm hiểu bài, bài học, luyện tập), các ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức
của bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên
cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học sinh quan sát SĐTD và thuyết trình “đọc hiểu” lại tồn bộ nội dung kiến thức của bài học.

b3. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học, mỗi
phần của bài học:
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi bài
học, giáo viên cho học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ SĐTD để củng cố, hệ thống
phần kiến thức đó, hoặc tồn bộ kiến thức của bài học.
Ví dụ 1:
Khi dạy tác phẩm truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ, sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong phần một “Vũ Nương và câu
chuyện oan khuất của nàng” giáo viên cho các em lập SĐTD về nhân vật Vũ Nương
thông qua câu hỏi sau: Như vậy, qua phần tìm hiểu trên, em hãy lập SĐTD để chứng
minh Vũ Nương là một người mẹ đảm đang, một người vợ thủy chung, một người dâu
hiền hiếu thảo?
Sau đây là SĐTD minh họa:

21


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
Ví dụ 2: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu xong luận cứ 3: “Những điểm mạnh,
điểm yếu của con người Việt Nam trong bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới”
của Vũ Khoan, giáo viên cho học sinh lập SĐTD về đặc điểm của con người Việt
Nam. Các em sẽ nhớ lại những gì vừa được nghe, được thảo luận, được ghi chép và
vẽ SĐTD. Sau đây là SĐTD minh họa:

Ví dụ 3: Sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong văn bản “Đấu tranh cho một
thế giới hịa bình”(Tiết 6,7), giáo viên cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức của
bài học. Đây là SĐTD củng cố, hệ thống kiến thức cuối bài “Chiến tranh hạt nhân":

22



SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9
Ví dụ 4:
Sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong văn bản “Bàn về đọc sách”(Tiết
91,92), giáo viên cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức của bài học. Dưới đây là
SĐTD củng cố, hệ thống kiến thức bài “Bàn về đọc sách":

b4. Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức:
Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để ôn tập và hệ
thống kiến thức đã học cho các em. Sau đây là một vài ví dụ:
Ví dụ 1: Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ
II (Tiết 129,130 trong PPCT) như sau:

23


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9

Ví dụ 2: Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Truyện”(Tiết 38
trong PPCT) như sau:

24


SKNN: Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy mơn Ngữ Văn 9

Tóm lại, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy trở thành một cơng cụ
gợi mở, kích thích q trình tìm tịi kiến thức của học sinh. Việc sử dụng SĐTD
trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy động
được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này cịn

phát triển được năng lực riêng của từng em khơng chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên
BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó vào việc chọn
lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết,
màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động nhóm
bởi nó tối đa hố được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn
luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng
SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng và hệ
thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào Sơ đồ tư
duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi
mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với
các lớp ở cấp THCS.
* Giáo án minh họa
Ngày soạn: 5 /6/ 2020

Tiết 134

25


×